Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

thảo luận 1 môn luật dân sự 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.12 KB, 16 trang )

Vấn đề 1: Thực hiện công việc không có ủy quyền.
Câu 1: Thế nào là thực hiện công việc không có ủy quyền?
Trả lời:
Căn cứ theo Điều 574 BLDS 2015: “Thực hiện công việc không có ủy quyền là việc
một người không có nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện công
việc đó vì lợi ích của người có công việc được thực hiện khi người này không biết hoặc
biết mà không phản đối.”
Như vậy, thực hiện công việc không có uỷ quyền là căn cứ phát sinh quan hệ nghĩa
vụ dân sự giữa người thực hiện công việc với người được thực hiện công việc. Thực hiện
công việc không có ủy quyền phải thỏa mãn những yếu tố như:
-

Không có nghĩa vụ thực hiện nhưng tự nguyện thực hiện.
Vì lợi ích của người đó.
Không biết hoặc biết mà không phản đối.
Chiếm hữu sử dụng tài sản không có căn cứ pháp luật.

Ngoài ra, người được thực hiện công việc có nghĩa vụ thanh toán các chi phí hợp lý
mà người thực hiện công việc không có uỷ quyền đã bỏ ra để thực hiện công việc; đồng
thời phải trả thù lao cho người thực hiện công việc. Tuy nhiên, nếu người đã thực hiện
công việc không yêu cầu thanh toán cũng không yêu cầu trả thù lao thì người được thực
hiện công việc không phải thực hiện các nghĩa vụ này.Nếu một người thực hiện một công
việc vì lợi ích của người khác nhưng công việc đó không phù hợp với mong muốn của
người được thực hiện công việc sẽ không làm phát sinh nghĩa vụ thanh toán, trả thù lao ở
người được thực hiện công việc.

Câu 2: Vì sao thực hiện công việc không có ủy quyền là căn cứ phát sinh nghĩa
vụ?
Trả lời:



Căn cứ làm phát sinh quan hệ nghĩa vụ dân sự là những sự kiện xảy ra trong thực tế,
được pháp luật dân sự dự liệu, thừa nhận là có giá trị pháp lý, làm phát sinh quan hệ
nghĩa vụ dân sự.
Do đó, thực hiện công việc không có ủy quyền là căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ dân
sự là vì: Việc thực hiên công việc không có ủy quyền sẽ là căn cứ để phát sinh nghĩa vụ
thực hiện công việc không có ủy quyền, phát sinh nghĩa vụ thanh toán của người có công
việc được thực hiện,nghĩa vụ bồi thường thiệt hại đối với người thực hiện công việc
không có ủy quyền.
Việc quy định chế định này tạo nên sự ràng buộc pháp lý giữa người thực hiện công
việc và người có công việc được thực hiện và nâng cao tinh thần trách nhiệm, đảm bảo
quyền lợi của người thực hiện công việc cũng như đối với người có công việc được thực
hiện.

Câu 3: Cho biết điểm mới BLDS 2015 so với BLDS 2005 về chế định “thực hiện
công việc không có ủy quyền”.
Trả lời:
Nhìn chung, số lượng và nội dung các căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ không có sự
thay đổi giữa hai BLDS, trừ nội dung căn cứ phát sinh nghĩa vụ thực hiện công việc
không có ủy quyền.
Điều 594 BLDS 2005 quy định: “Thực hiện công việc không có ủy quyền là việc một
người không có nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện công việc đó,
hoàn toàn vì lợi ích của người có công việc được thực hiện khi người này không biết
hoặc biết mà không phản đối”.
Điều 574 BLDS 2015 quy định: “Thực hiện công việc không có uỷ quyền là việc một
người không có nghĩa vụ thực hiện công việc không có ủy quyền nhưng đã tự nguyện


thực hiện công việc đó vì lợi ích của người có công việc được thực hiện khi người này
không biết hoặc biết mà không phản đối”.
Như vậy Điều 574 BLDS 2015 đã kế thừa gần như toàn bộ quy định này từ Điều 594

BLDS 2005 chỉ có một khác biệt là quy định mới đã bỏ đi yếu tố “hoàn toàn” trong vấn
đề thực hiện công việc vì lợi ích của người có công việc.Ta thấy rằng quy định mới
BLDS 2015 phù hợp với thực tiễn cuộc sống hơn. Bởi vì trong thực tế rất hiếm những
công việc mà người thực hiện công việc đó hoàn toàn tự nguyện và hoàn toàn vì lợi ích
của người có công việc.
Bên cạnh đó, BLDS 2005 quy định chủ thể trong chế định “thực hiên công việc
không có ủy quyền” chỉ là cá nhân . Còn BLDS 2015 có thêm một chủ thể nữa là pháp
nhân. Ta thấy rằng ,việc thêm chủ thể là pháp nhân vào chế định này là hoàn toàn hợp
lý. .Do trong đời sống xã hội không ít mối quan hệ phát sinh giữa cá nhân và pháp nhân.
Và việc thực hiên công việc không có ủy quyền của pháp nhân hoàn toàn diễn ra trên
thực tế .Nếu không quy định về pháp nhân thì không thể giải quyết các vụ việc liên quan
đến pháp nhân.

Câu 4: Các Điều kiện để áp dụng chế định “ thực hiện công việc không có ủy
quyền “ theo BLDS 2015? Phân tích từng Điều kiện .
Trả lời:
“Thực hiện công việc không có ủy quyền là việc một người không có nghĩa vụ thực
hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện công việc đó, hoàn toàn vì lợi ích của
người có công việc được thực hiệnkhi người này không biết hoặc biết mà không phản
đối.”
Căn cứ theo Điều575 BLDS 2015, ta có thể phân tích các Điều kiện để áp dụng chế
định “Thực hiện công việc không có ủy quyền” như sau:
“1. Người thực hiện công việc không có ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc phù
hợp với khả năng, Điều kiện của mình.


2. Người thực hiện công việc không có ủy quyền phải thực hiện công việc như công việc
của chính mình; nếu biết hoặc đoán biết được ý định của người có công việc thì phải
thực hiện công việc phù hợp với ý định đó.
3. Người thực hiện công việc không có ủy quyền phải báo cho người có công việc được

thực hiện về quá trình, kết quả thực hiện công việc nếu có yêu cầu, trừ trường hợp người
có công việc đã biết hoặc người thực hiện công việc không có ủy quyền không biết nơi cư
trú hoặc trụ sở của người đó.
4. Trường hợp người có công việc được thực hiện chết, nếu là cá nhân hoặc chấm dứt tồn
tại, nếu là pháp nhân thì người thực hiện công việc không có ủy quyền phải tiếp tục thực
hiện công việc cho đến khi người thừa kế hoặc người đại diện của người có công việc
được thực hiện đã tiếp nhận.
5. Trường hợp có lý do chính đáng mà người thực hiện công việc không có ủy quyền
không thể tiếp tục đảm nhận công việc thì phải báo cho người có công việc được thực
hiện, người đại diện hoặc người thân thích của người này hoặc có thể nhờ người khác
thay mình đảm nhận việc thực hiện công việc.”

Câu 5: Trong tình huống trên sau khi xây dựng xong công trình, nhà thầu C có
thể yêu cầu chủ đầu tư A thực hiện nghĩa vụ trên cơ sở các quy định của chế định”
Thực hiện công việc không có ủy quyền “ Trong BLDS 2015 không? Vì sao ? Nêu cơ
sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
Điều 574 BLDS 2015 quy định: “Thực hiện công việc không có ủy quyền là việc một
người không có nghĩa vụ thực hiện công việc nhưng đã tự nguyện thực hiện công việc đó,
hoàn toàn vì lợi ích của người có công việc được thực hiệnkhi người này không biết hoặc
biết mà không phản đối”.
Như vậy :


-

Để thực hiện công việc không có ủy quyền là căn cứ phát sinh nghĩa vụ dân sự với
quy định trên thì phải có một người “thực hiện công việc” của người khác và
“khi người này không biết hoặc biết mà không phản đối”. Trong tình huống nêu
trên, ban quản lý dự án B mới chỉ ký hợp đồng với nhà thầu C, không nêu rõ C đã

tiến hành xây dựng chưa.
+ Trường hợp C chưa làm gì thì không thể yêu cầu A thực hiện những nghĩa vụ

trên cơ sở các quy định của chế định thực hiện công việc không có ủy quyền.
+ Trường hợp C đang xây dựng mà A biết và phản đối mà C vẫn làm thì C cũng
không thể yêu cầu A thực hiện những nghĩa vụ trên cơ sở các quy định của chế định thực
hiện công việc không có ủy quyền được.
+ Trường hợp C đã xây dựng xong mà A không biết hoặc biết mà không phản đối
thì lúc này Điều kiện có một chủ thể thực hiện công việc của người khác và người này
không biết hoặc biết mà không phản đối đã được thỏa mãn. Chúng ta xét đến những Điều
kiện khác.
-

Với quy định tại Điều 574 , người thực hiện công việc là “người không có nghĩa vụ
thực hiện công việc” đó. Trong tình huống đã nêu, nhà thầu C thực hiện công việc
là do đã ký hợp đồng với ban quản lý dự án B. Đối chiếu với người có công việc
được thực hiện (chủ đầu tư A), nhà thầu C không có nghĩa vụ nào (giữa họ không
có hợp đồng và không có quy định nào buộc C làm việc cho A) nhưng thực chất
công việc mà C tiến hành là theo thỏa thuận với chủ thể khác (ban quản lý dự án
B). Theo thực tiễn xét xử, Điều kiện “không có nghĩa vụ thực hiện công
việc”dường như chỉ được xem xét trong quan hệ giữa người thực hiện công việc và
người có công việc được thực hiện; nếu công việc này được thực hiện theo yêu cầu
của người thứ ba hay theo thỏa thuận với người thứ ba thì vẫn có thể vận dụng chế
định thực hiện công việc không có ủy quyền. (Quyết định số 23/2003/HĐTP-DS
ngày 29-7-2003 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao). Như vậy Điều
kiện người không có nghĩa vụ thực hiện công việc đó đã thỏa mãn.


-


Theo định nghĩa tại Điều 574 thì chúng ta chỉ áp dụng chế định thực hiện công việc
không có ủy quyền khi người thực hiện công việc tiến hành công việc này là vì lợi
ích của người có công việc được thực hiện. Tuy nhiên cũng không loại trừ khả
năng người tiến hành công viêc cũng có lợi ích từ việc thực hiện vì nhà thầu C làm
việc để thu lợi nhuận. (Trường hợp tương tự trong Quyết định số 23/2003/HĐTPDS ngày 29-7-2003). Như vậy Điều kiện này cũng được đảm bảo.


Như vậy, khi nhà thầu C đã hoàn thành công việc thì có thể yêu cầu Chủ đầu tư
A thực hiện những nghĩa vụ trên cơ sở các quy định của chế định thực hiện
công việc không có ủy quyền.

Vấn đề 2: Thực hiện nghĩa vụ (Thanh toán một khoản tiền)
Câu 1:Thông tư 01/TTLT 19/06/1997 cho phép tính lại giá trị khoản tiền phải
thanh toán như thế nào? Qua trung gian là tài sản nào?
Trả lời:
-

Thông tư 01/TTLT 19/06/1997 cho phép tính lại giá trị khoản tiền phải thanh toán
bằng cách: “Nếu việc gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ dân sự xảy ra trước
ngày 1-7-1996 và trong thời gian từ thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa
vụ đến thời điểm xét xử sơ thẩm mà giá gạo tăng từ 20% trở lên, thì Toà án quy
đổi các khoản tiền đó ra gạo theo giá gạo loại trung bình ở địa phương (từ đây trở
đi gọi tắt là "giá gạo") tại thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ, rồi tính
số lượng gạo đó thành tiền theo giá gạo tại thời điểm xét xử sơ thẩm để buộc bên
có nghĩa vụ về tài sản phải thanh toán và chịu án phí theo số tiền đó” và “Nếu việc
gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ xảy ra sau ngày 1-7-1996 hoặc tuy xảy ra
trước ngày 1-7-1996, nhưng trong khoảng thời gian từ thời điểm gây thiệt hại hoặc
phát sinh nghĩa vụ đến thời điểm xét xử sơ thẩm mà giá gạo không tăng hay tuy có



tăng nhưng ở mức dưới 20%, thì Toà án chỉ xác định các khoản tiền đó để buộc
-

bên có nghĩa vụ phải thanh toán bằng tiền.”
Tài sản trung gian là gạo.

Câu 2: Đối vs tình huống thứ nhất, thực tế ông Quới sẽ phải trả cho bà Cô
khoảng tiền cụ thể là bao nhiêu? Nêu rõ cơ sở pháp ý khi trả lời?
Trả lời:
15/11/1973, ông Quới cho bà Cô thuê nhà và nhận tiền thế chân của bà Cô là
50000đ. nay ông Quới yêu cầu bà Cô trả nhà và bà Cô đồng ý trả và yêu cầu ông Quới trả
lại tiền thế chân. Biết giá gạo trung bình 1973 là 137đ, và hiện nay là 9000đ.
Theo tình huống, khi ông Quới cho bà Cô thuê nhà và bà Cô có thế chân tiền nhà là
50000đ thì đây được xem là một hợp đồng thuê nhà giữa ông Quới và bà Cô. Hợp đồng
là sự thỏa thuận ý chí của các bên trong trường hợp này là ông Quới và bà Cô có sự
thống nhất ý chí với nhau và ông Quới bày tỏ ý chí cho bà Cô thuê nhà, còn bà Cô muốn
được thuê nhà của ông Quới. Sự thỏa thuận giữa hai người này làm phát sinh quyền và
nghĩa vụ của các bên, cụ thể ông Quới có nghĩa vụ giao nhà và có quyền nhận tiền thế
chân và tiền thuê nhà hàng tháng từ bà Cô, bà Cô mà không thuê nữa thì ông Quới có
nghĩa vụ hoàn trả lại tiền thế chân cho bà Cô, bà Cô có nghĩa vụ phải bảo vệ giữ gìn ngôi
nhà bà được thuê và có quyền nhận nhà. Ông Quới và bà Cô khi xác lập đồng đồng thì có
đủ năng lực hành vi dân sự và năng lực pháp luật dân sự, mục đích của sự thoản thuận
này không vi phạm điều cấm của luật củng như không trái đạo đức xã hội. Trong tình
huống này không nói rõ sự thỏa thuận này dưới hình thức nào thảo thuận miệng hay là
thỏa thuận trên giấy… Như vậy, sự thỏa thuận của ông Quới và bà Cô đáp ứng đầy đủ
những điều kiện để trở thành hợp đồng. Vì đây là hợp đồng nên đã làm phát sinh nghĩa vụ
dân sự của các bên căn cứ Điều 275 của BLDS 2015 :
“ Nghĩa vụ phát sinh từ căn cứ sau đây:



1. Hợp đồng;
2. Hành vi pháp lý đơn phương;
3. Thực hiện Công việc không có uỷ quyền;
4. Chiếm hữu, sử dụng tài sản hoặc được lợi về tài sản không có căncứ pháp luật;
5. Gây thiệt hại do hành vi trái pháp luật;
6. Căn cứ khác do pháp luật quy định. “
Thứ hai là việc trả tiền thế chân cho bà Cô chính là tiền hoàn trả, mà trong thông tư
số 01/1997 tiền hoàn trả là đối tượng được áp dụng ở mục 1 phần I của thông tư.
Thứ ba là giá gạo năm 1973 là 137đ, giá gạo hiện nay là 9000đ, giá gạo đã tăng
6.469,34%, như vậy 2 Điều kiện này đã thỏa mãn điểm a khoản 1 phần 1 của thông tư
này “Nếu việc gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ dân sự xảy ra trước ngày 1-7-1996 và
trong thời gian từ thời điểm gây thiệt hại hoặc phát sinh nghĩa vụ đến thời điểm xét xử sơ
thẩm mà giá gạo tăng từ 20% trở lên”.Như vậy ông Quới phải trả lại cho bà Cô số tiền
được tính như sau:
Quy ra số gạo thời điểm ông Quới nhận tiền thế chân là: 50000đ/137đ= 364,96 (kg
gạo).
Thành tiền theo hiện nay là: 364,96kg gạo nhân với 9000đ = 3.284.671đ.
Như vậy số tiền ông Quới phải trả cho bà Cô là 3.284.671đ.

Câu 3: Thông tư trên có đều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển
nhượng bất động sản như trong quyết định 15/2018/DS-GĐT không? Vì sao?


Trả lời:
Theo vụ việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển nhượng bất động sản như trong
quyết định 15/2018/DS-GĐT, ta nhận thấy26/11/1991 cụ Bảng chuyển nhượng nhà đất
cho vợ chồng bà mai Hương với số tiền là 5.000.000 và bà Hương đã trả trước 3.000.000.
16/4/1992 bà Hương trả thêm 1 triệu nữa và nợ lại 1 triệu hện hết quý II ( cuối tháng 6) sẽ
trả. Như vậy tiền tiền bà Hương nợ cụ Bảng là tiền trong hợp đồng nó không thuộc trong
bất cứ đối tượng điều chỉnh nào mà thông tư đã nêu. Cụ thể là để áp dụng thông tư này

thì tiền, vàng phải thuộc 1 trong số các đối tượng sau:
- Các khoản tiền bồi thường, tiền hoàn trả, tiền công, tiền lương, tiền chia tài sản, tiền
đền bù công sức, tiền cấp dưỡng, tiền vay không có lãi, tiền truy thu thuế, tiền truy thu do
thu lợi bất chính.
- Các khoản tiền tịch thu, tiền phạt, tiền án phí
- Các khoản tiền vay, gửi ở tài khoản Ngân hàng, tín dụng
- Các khoản vay có lãi (kể cả loại có kỳ hạn và loại không có kỳ hạn) ở ngoài tổ chức
Ngân hàng, tín dụng.
- Hợp đồng vay tài sản là vàng.
- Nghĩa vụ về tài sản là hiện vật.
Vì vậy thông tư trên không Điều chỉnh việc thanh toán tiền trong hợp đồng chuyển
nhượng bất động sản như trong quyết định 15/2018/DS-GĐT.

Câu 4: Đối với tình huống trong quyết định số 15/2018/DS-GĐT nếu giá trị nhà
đất được xác định là 1.697.760.000 như tòa án cấp sơ thẩm đã làm thì, theo tòa án


nhân dân cấp cao tại hà nội, khoản tiền bà Hương phải thanh toán cho cụ Bảng là
bao nhiêu?
Trả lời:
Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã căn cứ theo điểm b2, tiểu mục 2.1 mục 2
phần II nghị quyết số 02/2002 tình huống trên thuộc trường hợp sau: “…Nếu công nhận
phần hợp đồng trong trường hợp bên chuyển nhượng giao diện tích đất có giá trị lớn hơn
số tiền mà họ đã nhận, thì Toà án buộc bên nhận chuyển nhượng thanh toán cho bên
chuyển nhượng phần chênh lệch giữa số tiền mà bên nhận chuyển nhượng đã trả so với
diện tích đất thực tế mà họ đã nhận tại thời điểm giao kết hợp đồng theo giá trị quyền sử
dụng đất tính theo giá thị trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm…”
Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội xác đinh cụ Bảng đã giao phần diện tích đất có
giá trị lớn hơn số tiền mà cụ đã nhận cụ thể mạnh đất có giá trị 5 triệu mà cụ đã nhận 4
triệu tương đương 4/5 giá trị mảnh đất còn thiếu 1/5. Vì vậy bà Hương phả thanh toán

cho cụ Bảng phần chênh lệch giữa số tiền mà bà Hương đã trả so với diện tích đất thực tế
mà bà Hương đã nhận tại thời điểm giao kết hợp đồng theo giá trị quyền sử dụng đất tính
theo giá thị trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm. Như vậy ba Hương phải trả cho cụ Bảng
số tiền tương đương 1/5 giá trị mảnh đất theo giá trị thị trường tại thời điểm xét xử sơ
thẩm là 339.552.000 đồng.

Câu 5: Hướng như trên của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội có tiền lệ
chưa? Nêu 1 tiền lệ (nếu có)?
Hướng như trên của Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã có tiền lệ, cụ thể là :
Kháng nghị số 90/QĐ-KNGĐT-V5 ngày 29/7/2011 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao với vụ việc như sau: ông Hoanh vs ông An có ký hợp đồng chuyển nhượng
1.230 m2 đất với giá 500 triệu VNĐ, ông An đã trả 265 triệu, còn nợ 235 triệu nhưng ông
An đã nhận đất và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất trên. Sau đó ông An đã


bán mảnh đất trên và không chịu trả tiền cho ông Hoanh. Theo HĐGĐT, trong quá trình
thực hiện hợp đồng ông An đã vi phạm nghĩa vụ trả tiền chuyển nhượng đất không đúng
thời hạn, do đó ông An phải thanh toán cho ông Hoanh số tiền chuyển nhượng đất còn
thiếu theo giá trị trường tại thời điểm xét xử sơ thẩm. Như vậy mới bảo đảm quyền lợi ích
hợp pháp của các đương sự.

Vấn đề 3: Chuyển giao nghĩa vụ theo thỏa thuận
Câu 1: Điểm giống và khác nhau của bản án giữa chuyển giao quyền yêu cầu và
chuyển giao nghĩa vụ thỏa thuận?
Trả lời:
-

-

Giống:

+ Đều có sự tham gia của người thứ ba
+ Chỉ được áp dụng với các quan hệ nghĩa vụ đang còn hiệu lực
+ Hậu quả pháp lý : chấm dứt tư cách chủ thể của người chuyển giao
+ Hình thức chuyển giao được thể hiện bằng văn bản hay lời nói
Khác:

Tiêu chí so sánh
Chuyển giao quyền
Chủ thể chuyển Người có quyền
giao

Chuyển giao nghĩa vụ
Người có nghĩa vụ

Điều kiện phát sinh -Không cần sự đồng ý của bên
hiệu lực
có nghĩa vụ nhưng phải thông
báo cho họ biết bằng văn bản
( Điều 365 BLDS 2015)
- Nếu bên có nghĩa vụ không
được so sánh thì có quyền từ
chối thực hiện nghĩa vụ với bên
thế quyền ( Điều 369 BLDS
2015)

-Cần phải có sự đồng ý
của bên có quyền vì nó
ảnh hưởng trực tiếp tới
quyền lợi của họ( Điều
370 BLDS 2015)



Biện pháp đảm bảo Nếu được chuyển giao quyền
thực hiện
yêu cầu mà quyền yêu cầu có
biện pháp bảo đảm thực hiện
thì việc chuyển giao sẽ bao
gồm biện pháp đảm bảo đó
(Điều 368 BLDS 2015)

Nếu việc chuyển giao
nghĩa vụ có biện pháp
bảo đảm thực hiện thì
biện pháp bảo đảm thực
hiện đó chấm dứt ( Điều
371 BLDS 2015)

Câu 2: Thông tin nào của bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh toán cho
bà Tú?
Trả lời:
Thông tin của bản án cho thấy bà Phượng có nghĩa vụ thanh toán cho bà Tú là:
“.....Phía bà Phượng không cung cấp được chứng cứ xác định bà Ngọc thỏa thuận vay
tiền với bà Tú. Ngoài ra, cũng theo lời khai của bà Phượng thì vào tháng 4 năm 2004 do
phía bà Loan, ông Thạnh và bà Ngọc không có tiền trả cho bà Tú để trả vốn vay Ngân
hàng nên bà đã cùng với bà Tú vay nóng bên ngoài để có tiền trả cho Ngân hàng. Xác
định bà Phượng là người xác lập quan hệ vay tiền với bà Tú”.

Câu 3: Đoạn nào của bản án cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được
chuyển sang cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh?
Trả lời:

Đoạn của bản án cho thấy nghĩa vụ trả nợ của bà Phượng đã được chuyển sang cho
bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh: “....Như vậy kể từ thời điểm bà Tú xác lập hợp đồng vay
với bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ vay của bà Phượng với bà Tú đã
chấm dứt, làm phát sinh nghĩa vụ của bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh đối với bà Tú theo
hợp đồng vay tiền đã kí.”.


Câu 4: Suy nghĩ của anh/chị về đánh giá trên của Tòa án?
Trả lời:
Theo nhóm thảo luận thì cách giải quyết trên của Tòa án khi cho rằng bà Phượng có
nghĩa vụ thanh toán cho bà Tú là không hợp lí bởi lẽ căn cứ vào những tình tiết trong bản
án ta thấy rằng mặc dù bà Phượng là người đứng ra vay tiền tuy nhiên sau đó nghĩa vụ trả
nợ đã được chuyển cho bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh, bà Tú cũng đã đồng ý việc
chuyển giao nghĩa vụ trả nợ này qua việc bà đã xác lập hợp đồng cho vay với bà Ngọc, bà
loan và ông Thạnh. Vì những lẽ trên, căn cứ vào Điều 370 BLDS 2015 thì việc Tòa án
buộc bà Phượng có nghĩa vụ trả nợ cho bà Tú là không hợp lí.

Câu 5: Nhìn từ gốc độ văn bản thì người có nghĩa vụ ban đầu có còn trách
nhiệm đối với người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa
vụ được chuyển giao nêu cơ sở pháp lý khi trả lời .
Trả lời:
Nhìn từ gốc độ văn bản thì người có nghĩa vụ ban đầu không còn trách nhiệm đối với
người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện nghĩa vụ được chuyển
giao. Căn cứ pháp lý theo khoản 2 Điều 370 BLDS 2015 về chuyển giao nghĩa vụ “ khi
được chuyển giao nghĩa vụ thì người thế nghĩa vụ trở thành bên có nghĩa vụ”. Như vậy
có nghĩa rằng người có nghĩa vụ ban đầu đã chuyển giao hoàn toàn nghĩa vụ trả nợ cho
cho người thế nghĩa vụ, từ đó người có nghĩa vụ ban đầu đã chấm dứt nghĩa vụ với người
có quyền.

Câu 6: Nhìn từ góc độ của các tác giả người có nghĩa vụ ban đầu có còn trách

nhiệm đối với người có quyền không khi người thế nghĩa vụ không thực hiện được
nghĩa vụ được chuyển giao? Nêu rõ quan điểm của các tác giả mà anh/chị biết.


Trả lời:
Theo quan điểm của Ths.GVC.Chế Mỹ Phương Đài thì việc chuyển giao nghĩa vụ là
sự thỏa thuận giữa ba bên: bên có nghĩa vụ, bên thế nghĩa vụ và bên có quyền. Trên cơ
sở sự thỏa thuận, với sự đồng ý của bên có quyền người thứ ba thay thế người có nghĩa
vụ trước đó trở thành người có nghĩa vụ mới hay còn gọi là người thế nghĩa vụ. Người có
nghĩa vụ chấm dứt toàn bộ mối quan hệ nghĩa vụ với bên có quyền. Sau khi việc chuyển
giao nghĩa vụ có hiệu luật người có quyền chỉ được phép yêu cầu người thế nghĩa vụ thực
hiện nghĩa vụ nên người đã chuyển giao nghĩa vụ không phải chịu trách nhiệm về việc
thực hiện nghĩa vụ của bên thế nghĩa vụ.

Câu 7: Đoạn nào của bản án cho thấy tòa án theo hướng người có nghĩa vụ ban
đầu không còn trách nhiệm đối với người có quyền?
Trả lời:
Đoạn của bản án cho thấy tòa án theo hướng người có nghĩa vụ ban đầu không còn
trách nhiệm đối với người có quyền là: “....Như vậy kể từ thời điểm bà Tú xác lập hợp
đồng vay với bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh thì nghĩa vụ trả nợ vay của bà Phượng với
bà Tú đã chấm dứt, làm phát sinh nghĩa vụ của bà Ngọc, bà Loan và ông Thạnh đối với
bà Tú theo hợp đồng vay tiền đã kí. Việc bà Tú yêu cầu bà phượng có trách nhiệm thanh
toán nợ cho bà là không có căn cứ chấp nhận.”

Câu 8: Kinh nghiệm của pháp luật nước ngoài đối với quan hệ giữa người có
nghĩa vụ ban đầu và người có quyền.
Trả lời:
Thực tế cho thấy quy định trong các hệ thống luật tương đối khác nhau. Ở châu Âu,
một số nước quy định người có nghĩa vụ ban đầu được giải phóng hoàn toàn nhưng một



số nước lại quy định ngược lại theo hướng người thứ ba là người có nghĩa vụ bổ sung.
Theo bộ nguyên tắc Unidiot ( Điều 9.2.5) “ Người có quyền có thể giải phóng nghĩa vụ
cho người có nghĩa vụ ban đầu”. Như vậy, người có quyền có thể giải phóng hoàn toàn
nghĩa vụ cho người có nghĩa vụ ban đầu. “Người có quyền cũng có thể quyết định là
người có nghĩa vụ ban đầu vẫn là người có nghĩa vụ trong trường hợp người có nghĩa vụ
mới không thực hiện đúng nghĩa vụ của mình”. Điều đó có nghĩa là người có quyền có
thể lựa chọn một khả năng khác đó là chấp nhận việc chuyển giao nghĩa vụ của người có
nghĩa vụ ban đầu cho người có nghĩa vụ mới nhưng người có quyền bảo lưu quyền yêu
cầu đối với người có nghĩa vụ ban đầu. Vẫn trong bộ nguyên tắc Unidroit: “Trong mọi
trường hợp khác người có nghĩa vụ ban đầu và người có nghĩa vụ mới phải liên đới chịu
trách nhiệm”. Tuy nhiên, theo Bộ nguyên tắc châu âu về hợp đồng thì việc chuyển giao
nghĩa vụ giải phóng người có nghĩa vụ ban đầu( Điều 12:101): “người có nghĩa vụ ban
đầu không còn bị ràng buộc bởi các nghĩa vụ của họ”.

Câu 9: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của tòa án?
Trả lời:
Theo nhóm thảo luận thì quyết định trên của tòa án khi cho rằng chị phượng không
còn có nghĩa vụ trả nợ cho bà Tú là hoàn toàn hợp lí. Bởi theo khoản 2 Điều 370 thì khi
nghĩa vụ đã được chuyển giao thì người thế nghĩa vụ trở thành bên có nghĩa vụ. Tuy
BLDS 2015 không quy định rõ về vấn đề này nhưng thông qua khoản 2 Điều 370 thì ta
có thể hiểu rằng một khi người thế nghĩa vụ trở thành bên có nghĩa vụ thì đồng nghĩa với
việc tư cách chủ thể của người có nghĩa vụ ban đầu chấm dứt và trong mối quan hệ nghĩa
vụ này chỉ còn hai bên là người có quyền và người được chuyển giao nghĩa vụ nên người
đã chuyển giao nghĩa vụ không còn bất kỳ dính líu gì đến quan hệ đó nên không phải
chịu trách nhiệm.


Câu 10: Trong trường hợp nghĩa vụ của bà Phượng đối với bà Tú có biện pháp
bảo lãnh của người thứ ba thì khi nghĩa vụ được chuyển giao biện pháp bảo lãnh có

chấm dứt không? Nêu rõ cơ sở pháp lý.
Khi nghĩa vụ được chuyển giao thì biện pháp bảo lãnh sẽ chấm dứt vì biện pháp bảo
lãnh là một trong những hình thức của biện pháp bảo đảm.
Cơ sở pháp lý Điều 371 BLDS 2015: “Trường hợp nghĩa vụ có biện pháp bảo đảm
được chuyển giao thì biện pháp bảo đảm đó chấm dứt, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác.”



×