CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẠN
1.1 Tổng quan ngành thủy sản Việt Nam:
1.1.1 Khái niệm và cách phân loại thủy sản:
a) Khái niệm
Thủy sản là một thuật ngữ chỉ chung về những nguồn lợi, sản vật
đem lại cho con người từ môi trường nước và được con người khai
thác, nuôi trồng thu hoạch sử dụng làm thực phẩm, nguyên liệu
hoặc bày bán trên thị trường. Trong các loại thủy sản, thông dụng
nhất là hoạt động đánh bắt, nuôi trồng và khai thác các loại cá. Một
số loài là cá trích, cá tuyết, cá cơm, cá ngừ, cá bơn, cá đối, tôm, cá
hồi, hàu và sò điệp có năng suất khai thác cao. Trong đó ngành thủy
sản có liên quan đến việc đánh bắt cá tự nhiên hoặc cá nuôi thông
qua việc nuôi cá.
Theo tổ chức FAO thì việc nuôi trồng thủy sản là nuôi các thủy sinh
vật trong môi trường nước ngọt và lợ/mặn, bao gồm áp dụng các kỹ
thuật vào quy trình nuôi nhằm nâng cao năng suất thuộc sở hữu cá
nhân hay tập thể. Trong đó, nguồn lợi thủy sản là tài nguyên sinh vật
trong vùng nước tự nhiên, có giá trị kinh tế, khoa học để phát triển
nghề khai thác thủy sản, bảo tồn và phát triển nguồn lợi thủy sản.
Gần 90% của ngành thủy sản của thế giới được khai thác từ biển và
đại dương, so với sản lượng thu được từ các vùng nước nội địa.
Hoạt động thủy sản là việc tiến hành khai thác, nuôi trồng, vận
chuyển thủy sản khai thác; bảo quản, chế biến, mua bán, xuất khẩu,
nhập khẩu thủy sản; dịch vụ trong hoạt động thủy sản, điều tra, bảo
vệ và phát triển nguồn lợi thủy sản. Khai thác thủy sản là việc khai
thác nguồn lợi thủy sản trên biển, sông, hồ, đầm, phá và các vùng
nước tự nhiên khác. Đánh bắt quá mức, bao gồm cả việc lấy cá vượt
quá mức bền vững, giảm trữ lượng cá và việc làm ở nhiều vùng trên
thế giới.
Ðất để nuôi trồng thủy sản là đất có mặt nước nội địa, bao gồm ao,
hồ, đầm, phá, sông, ngòi, kênh, rạch; đất có mặt nước ven biển; đất
bãi bồi ven sông, ven biển; bãi cát, cồn cát ven biển; đất sử dụng
cho kinh tế trang trại; đất phi nông nghiệp có mặt nước được giao,
cho thuê để nuôi trồng thủy sản. Hầu hết các thủy sản là động thực
vật hoang dã, nhưng nuôi trồng thủy sản đang gia tăng. Canh tác có
thể thực hiện ở ngay các vùng ven biển, chẳng hạn như với các
trang trại hàu, nhưng hiện này vẫn thường canh tác trong vùng nước
nội địa, trong các hồ, ao, bể chứa và các hình thức khác.
b) Phân loại
Sự phân lại các loài thủy sản được dựa theo đặc điểm cấu tạo loài
tính ăn và môi trường sống và khí hậu.
•
Nhóm cá (fish): Là những động vật nuôi có đặc điểm cá rõ rệt,
chúng có thể là cá nước ngọt hay cá nước lợ. Ví dụ: cá tra, cá
bống tượng, cá chình,…
•
Nhóm giáp xác (crustaceans): Phổ biến nhất là nhóm giáp xác
mười chân, trong đó tôm và cua là các đối tượng nuôi quan trọng.
Ví dụ: Tôm càng xanh, tôm sú, tôm thẻ, tôm đất, cua biển.
•
Nhóm động vật thân mềm (molluscs): Gồm các loài có vỏ vôi,
nhiều nhất là nhóm hai mảnh vỏ và đa số sống ở biển (nghêu, sò
huyết, hàu, ốc hương,....) và một số ít sống ở nước ngọt (trai, trai
ngọc).
•
Nhóm rong (Seaweeds): Là các loài thực vật bậc thấp, đơn bào,
đa bào, có loài có kích thước nhỏ, nhưng cũng có loài có kích
thước
lớn
như
Chlorella,
Spirulina,
Chaetoceros,Sargassium
(Alginate), Gracillaria…
•
Nhóm bò sát (Reptilies) và lưỡng cư (Amphibians): Bò sát là
các động vật bốn chân có màng ối(ví dụ: cá sấu) Lưỡng cư là
những loài có thể sống cả trên cạn lẫn dưới nước (ví
dụ: ếch, rắn…) được nuôi để lấy thịt, lấy da dùng làm thực phẩm
hoặc dùng trong mỹ nghệ như đồi mồi (lấy vây), ếch (lấy da và
thịt), cá sấu (lấy da).
1.1.2 Chuỗi giá trị ngành thủy sản
Hình 1: Chuỗi giá trị ngành thủy sản
Khả năng khép kín quy trình sản xuất có vai trò quan trọng đối với các doanh nghiệp
thủy sản. Doanh nghiệp có hoạt động sản xuất càng khép kín thì khả năng tự chủ
nguồn nguyên liệu và hiệu quả kinh doanh càng cao. Ngược lại, doanh nghiệp càng ít
khép kín thì phải phụ thuộc vào bên ngoài nhiều hơn, ngày càng bị động trong sản
xuất, giảm hiệu quả kinh doanh.
Hình 2: Liên kết các chủ thể trong ngành thủy sản
Với nhu cầu phát triển và đòi hỏi trách nhiệm ngày càng cao, hoạt động của ngành
thủy sản cần có sự tham gia của một số tổ chức tài chính và các cơ quan kiểm định
chất lượng thủy sản, điều này khiến mối quan hệ giữa các chủ thể trong ngành ngày
càng chặt chẽ.
1.1.3 Vai trò của ngành thủy sản trong nền kinh tế Việt Nam:
Ngay từ ngày đầu những năm thống nhất đất nước, ngành thủy sản
đã luôn được chú trọng và được coi là một trong những ngành trọng
điểm trong nền kinh tế Việt Nam. Nhờ vào vào các chính sách phát
triển hợp lý, cùng với sự áp dụng tiến bộ của khoa học kỹ thuật vào
trong sản xuất, quy mô của ngành thủy sản luôn được mở rộng qua
các năm và tỷ trọng đóng góp trong GDP ngày càng cao. Ngành thủy
sản quan trọng không chỉ bởi tận dụng được lợi thế về đường bờ biển
dài với sự đang dạng loài của Việt Nam, mà còn bởi những vai trò
mang tính chiến lược.
-
Đảm bảo an ninh lương thực và tạo công ăn việc làm, xóa đói giảm
nghèo cho người dân Việt Nam:
Nuôi trồng thủy sản phát triển rộng khắp, từ các ao hồ, song suối len
lỏi khắp đất nước, cho tới các vùng biển ngoài khơi, tạo ra nguồn
lương thực, thực phẩm ổn định và cung cấp cho người dân các sản
phẩm tiêu dùng trực tiếp. Hơn nữa, nguồn thực phẩm này có giá trị
dinh dưỡng cao, nhiều đạm và vitamin, đảm bảo an ninh về lương
thực cho quốc gia. Thủy sản còn là ngành kinh tế tạo ra nhiều cơ hội
việc làm cho người dân, đặc biệt là ở các vùng nông thôn và vùng
ven biển. Nhiều mô hình kinh tế đã được áp dụng để giúp các ngư
dân ven biển cũng như các lao động nông nhàn gần sông suối có
được công ăn việc làm ổn định. Ngày càng có nhiều người nông dân
tận dụng các mặt nước ao hồ nhỏ trong nuôi trồng thuỷ sản nước
ngọt với các hệ thống nuôi bán thâm canh và thâm canh có chọn lọc
đối tượng cho năng suất cao như mè, trắm, các loại cá chép, trôi Ấn
Độ và các loài cá rô phi đơn tính.
Là nguồn cung lương thực giàu dinh dưỡng và mở ra nhiều hình thức
lao động cho người dân, ngành thủy sản đã từng bước giúp đất nước
giảm đói xóa nghèo. Tại các vùng duyên hải, từ năm 2000, nuôi thuỷ
sản nước lợ đã chuyển mạnh từ phương thức nuôi quảng canh sang
quảng canh cải tiến, bán thâm canh và thâm canh, thậm chí nhiều
nơi đã áp dụng mô hình nuôi thâm canh theo công nghệ nuôi công
nghiệp. Các vùng nuôi tôm rộng lớn, hoạt động theo quy mô sản
xuất hàng hoá lớn đã hình thành, một bộ phận dân cư các vùng ven
biển đã giàu lên nhanh chóng, rất nhiều gia đình thoát khỏi cảnh đói
nghèo nhờ nuôi trồng thuỷ sản.
Hoạt động nuôi trồng thuỷ sản ở các mặt nước lớn như nuôi cá hồ
chứa cũng đã phát triển, hoạt động này luôn được gắn kết với các
chương trình phát triển trung du miền núi, các chính sách xoá đói
giảm nghèo ở vùng sâu vùng xa.
-
Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp nông thôn
Việt Nam có đầy đủ điều kiện để phát triển một cách toàn diện một
nền kinh tế biển. Nếu như trước đây việc lấn ra biển, ngăn chặn
những ảnh hưởng của biển để mở rộng đất đai canh tác là định
hướng cho một nền kinh tế nông nghiệp lúa nước thì hiện nay việc
tiến ra biển, kéo biển lại gần sẽ là định hướng khôn ngoan cho một
nền kinh tế công nghiệp hoá và hiện đại hoá.
Trong những thập kỉ qua, nhiều công trình hồ thuỷ điện đã được xây
dựng, khiến nước mặn ngoài biển thâm nhập sâu vào vùng cửa
sông, ven biển. Đối với nền canh tác nông nghiệp lúa nước thì nước
mặn là một thảm hoạ, nhưng với nuôi trồng thuỷ sản nước mặn,
nước lợ thì nước mặn được nhận thức là một tiềm năng mới, vì hoạt
động nuôi trồng thuỷ sản có thể cho hiệu quả canh tác gấp hàng
chục lần hoạt động canh tác lúa nước.
Một phần lớn diện tích canh tác nông nghiệp kém hiệu quả đã được
chuyển sang nuôi trồng thuỷ sản. Quá trình chuyển đổi diện tích,
chủ yếu từ lúa kém hiệu quả, sang nuôi trồng thuỷ sản diễn ra mạnh
mẽ.
-
Nguồn xuất khẩu quan trọng
Trong nhiều năm liền, Ngành Thuỷ sản luôn giữ vị trí thứ 3 hoặc thứ
4 trong bảng danh sách các ngành có giá trị kim ngạch xuất khẩu
lớn nhất đất nước. Ngành Thuỷ sản còn là một trong 10 ngành có
kim ngạch xuất khẩu đạt trên một tỷ USD (tính đến năm 2017).
Không những thế, Việt Nam còn lọt top 5 quốc gia xuất khẩu thủy
sản lớn nhất thế giới, giữ vai trò chủ đạo trong cung cấp thủy sản
toàn cầu.
-
Đảm bảo chủ quyền quốc gia, đảm bảo an ninh quốc phòng ở vùng
sâu, vùng xa, nhất là ở vùng biển và hải đảo
Ngành Thuỷ sản luôn giữ vai trò quan trọng trong bảo vệ an ninh,
chủ quyền trên biển, ổn định xã hội và phát triển kinh tế các vùng
ven biển, hải đảo, góp phần thực hiện chiến lược quốc phòng toàn
dân và an ninh nhân dân.
Năm 1997, Thủ tướng chính phủ đã ký Quyết định số 393/TTg phê
duyệt Chương trình cho vay vốn tín dụng đầu tư đóng tàu khai thác
hải sản xa bờ. Thực hiện quyết định này, từ năm 1997 đến năm
1999, Tổng cục Đầu tư và Phát triển đã cho vay 867.871 triệu đồng,
tương đương với 802 con tàu. Năm 2000, Thủ tướng Chính phủ ký
Quyết định số 64/2000/QĐ-TTg về việc sửa đổi quy chế quản lý và sử
dụng vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước cho các dự án
đóng mới, cải hoán tàu đánh bắt tàu dịch vụ và đánh bắt hải sản xa
bờ, tổng số vốn đã duyệt cho vay từ năm 2000 đến năm 2005 là
182.372 triệu đồng để đóng mới 166 con tàu. Việc gia tăng số lượng
tàu lớn đánh bắt xa bờ không chỉ nhằm khai thác các tiềm năng mới,
cung cấp nguyên liệu cho chế biến mà còn góp phần bảo vệ an ninh
quốc phòng trên các vùng biển của nước ta.
Tính đến nay, rất nhiều cảng cá quan trọng đã được xây dựng theo
chương trình Biển đông hải đảo, cụ thể là: Cô Tô (Quảng Ninh), Bạch
Long Vĩ và Cát Bà (Hải Phòng), Hòn Mê (Thanh Hoá), Cồn Cỏ (Quảng
Trị), Lí Sơn (Quảng Nam), Phú Quí (Bình Thuận), Côn Đảo (Bà RịaVũng Tàu), Hòn Khoai (Cà Mau), Nam Du, Thổ Chu và Phú Quốc (Kiên
Giang). Hệ thống cảng cá tuyến đảo này sẽ được hoàn thiện đồng bộ
để phục vụ sản xuất nghề cá và góp phần bảo vệ chủ quyền an ninh
vùng biển của tổ quốc.
1.2 Toàn cầu hóa và Toàn cầu hóa kinh tế
1.2.1 Toàn cầu hóa
Hiện nay trên thế giới vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về toàn cầu hóa.
Thomas Friedman định nghĩa toàn cầu hóa là một thế lực không gì ngăn cản nổi, được
thúc đẩy bởi những bước tiến dài trong các lĩnh vực công nghệ, truyền thông, tài
chính,… cho phép con người, hàng hóa, thông tin và các dòng vốn lưu chuyển xuyên
biên giới với một quy mô chưa từng thấy, từ đố kiến tạo nên diện mạo của những con
người tự do và những quốc gia thịnh vượng.
Toàn cầu hóa là một thế lực ghê gớm nhưng mờ ám, bị thao túng bởi các tập đoàn
quốc tế, có khả năng xóa nhòa ranh giới giữa các quốc gia, san bằng các nền văn hóa,
triệt tiêu vài trò của nhà nước - quốc gia và thủ tiêu các tiến trình dân chủ. ( Naomi
Klien)
Toàn cầu hóa là sự hội nhập ngày càng mạnh mẽ của các nền kinh tế và các xã hội trên
toàn thế giới. ( The World Bank Group)
Toàn cầu hóa kinh tế là một tiến trình lịch sử, kết quả của quá trình lịch sử, kết quả
của quá trình cải tiến kỹ thuật và tiến bộ của nhân loại. Nó hàm ý sự hội nhập ngày
càng gia tăng của các nền kinh tế khắp thế giới, đã đặc biệt thông qua các luồng
thương mại và tài chính. (The International Monetary Fund)
Như vậy, toàn cầu hóa gói gọn trong:
• Sự kết nối, tương tác, hội nhập của các quốc gia, các nền kinh tế, các nền văn
hóa, các doanh nghiệp, các cá nhân
• Thông qua các dòng chảy xuyên biên giới về hàng hóa - dịch vụ, con người,
tiền tệ, ý tưởng, thông tin, công nghệ, văn hóa,…
• Trên cơ sở những tiến bộ công nghệ về giao thông vận tải, thông tin liên lạc và
truyền thông.
1.2.2 Toàn cầu hóa kinh tế
Toàn cầu hóa kinh tế là sự hội nhập của các nền kinh tế, các thị trường thông qua các
luồng hàng hóa và dịch vụ, tiền tệ, lao động và nguồn lực kinh tế khác di chuyển
xuyên biên giới.
Toàn cầu hoá kinh tế chínhlà sự gia tăng nhanh chóng các hoạt động kinh tế vượt qua
mọi biên giới quốc gia,khu vực,tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế
trong sự vận động phát triển hướng tới một nền kinh tế thế giới thống nhất.sự gia tăng
của xu thế nàyđược thể hiện ở sự mở rộng mức độ và qui mô mậu dịch thế giới,sự lưu
chuyển của các dòng vốn và lao động trên phạm vi toàn cầu.
1.3 Hiệp định thương mại tự do
1.3.1 Khái niệm
Khái niệm truyền thống
Hiệp định thương mại tự do – viết tắt là FTA là một thỏa thuận ưu đãi có tính chất
phân biệt đối xử, theo đó, hàng rào thương mại giữa các nước thành viên tham gia ký
kết FTA được dỡ bỏ, trong khi tiếp tục duy trì chế độ thuế quan độc lập với hàng nhập
khẩu nhập khẩu từ các quốc gia bên ngoài FTA.
Khái niệm hiện đại
FTA hiện đại hay FTA thế hệ mới thường đi xa hơn phạm vi loại bỏ thuế quan, hàng
rào phi thuế quan và bao gồm nhiều vấn đề rộng hơn cả cam kết trong khuôn khổ
GATT/WTO cũng như một loạt vấn đề thương mại mới mà WTO chưa có quy định.
Phạm vi cam kết của các FTA thế hệ mới còn bao gồm những lĩnh vực như thuận lợi
hóa thương mại, sở hữu trí tuệ, hợp tác hải quan, mua sắm chính phủ, chính sách cạnh
tranh, lao động, môi trường, thậm chí còn gắn với những vấn đề như dân chủ hay
chống khủng bố…
1.3.2 Phân loại
Hiện nay, có hai cách phân loại phổ biến nhất, đó là phân loại dựa vào quy mô, số
lượng các thành viên tham gia và dựa vào mức độ tự do hóa.
•
Căn cứ theo quy mô, số lượng các thành viên tham gia, FTA được chia thành ba
loại: FTA song phương (BFTA), FTA khu vực và FTA hỗn hợp.
- BFTA là loại FTA chỉ có hai nước tham gia ký kết và vì vậy chỉ có giá trị ràng buộc
đối với hai quốc gia này. Hiện nay BFTA là loại FTA được ký kết nhiều nhất do đặc
điểm chỉ có hai thành viên tham gia nên quá trình đàm phán và đi đến thỏa thuận
chung trở nên dễ dàng và nhanh chóng hơn so với FTA khu vực hay FTA hỗn hợp.
- FTA khu vực là Hiệp định có sự tham gia của từ ba nước thành viên trở lên. Thông
thường, các nước này có vị trí địa lý gần nhau . Mục đích của FTA khu vực là để tận
dụng ưu thế về vị trí địa lý để tăng cường trao đổi thương mại, thắt chặt quan hệ ngoại
giao, từ đó nâng cao vị thế của mỗi quốc gia trên trường quốc tế. Một số FTA khu vực
điển hình có thể kể đến Liên minh châu Âu (EU), Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ
(NAFTA), Khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA), Khối thị trường chung Nam
Mỹ (MERCOSUR) và gần đây nhất là sự ra đời của Khu vực thương mại tự do châu
Phi (AFCFTA).
- FTA hỗn hợp là FTA được ký kết giữa một khu vực tự do thương mại với một nước,
một số nước hoặc một khu vực tự do thương mại khác. Khác với FTA song phương và
FTA khu vực, quá trình đàm phán FTA hỗn hợp thường khó khăn và phức tạp hơn rất
nhiều. Một số FTA hỗn hợp có thể kể đến như: FTA ASEAN - Trung Quốc (ACFTA),
FTA ASEAN - Hàn Quốc (AKFTA), FTA EC - Mexico, FTA Việt Nam - EU (EVFTA)
…
•
Căn cứ vào mức độ tự do hóa
Đây là cách phân loại được World Bank sử dụng. Theo đó, FTA được chia thành FTA
kiểu Mỹ, FTA kiểu châu Âu và FTA kiểu các nước đang phát triển.
- FTA kiểu Mỹ: Đây là loại FTA có mức độ tự do hóa cao nhất. Nó đòi hỏi các nước
thành viên phải mở cửa tất cả các lĩnh vực, kể cả ngành dịch vụ. Trong các hiệp định
này áp dụng quy chế MFN và NT, tất cả các ngành đều phải mở cửa, trừ khi các bên
có quy định khác và phải được ghi rõ trong hiệp định. Loại FTA này có xu hướng làm
giảm sự tham gia của chính phủ trong việc bảo vệ môi trường và các ngành dịch vụ
công. Hiệp định mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA) là một ví dụ điển hình.
- FTA châu Âu: Đây cũng là dạng FTA có mức độ tự do hóa khá cao. Tuy nhiên khác
với FTA kiểu Mỹ, FTA châu Âu chỉ quy định mở cửa các lĩnh vực mà các nước cam
kết hoặc thống nhất riêng với nhau. Ví dụ như cam kết về tự do hóa thương mại của
Liên minh châu Âu, các nước đã không đưa nông nghiệp - một lĩnh vực nhạy cảm
được bảo hộ bởi hầu hết các nước thành viên vào thỏa thuận chung.
- FTA kiểu các nước đang phát triển: Loại FTA này có mức độ tự do hóa kém hơn hẳn
FTA kiểu Mỹ và FTA châu Âu. Các hiệp định loại này chủ yếu chú trọng đến thương
mại hàng hóa và ít khi có điều khoản tự do hóa trong các lĩnh vực dịch vụ, đầu tư và
sở hữu trí tuệ. AFTA và Thị trường chung Nam Mỹ (MERCOSUR) là các ví dụ điển
hình nhất cho kiểu FTA này.
1.3.3 Nội dung của các hiệp định thương mại tự do
Thứ nhất là quy định về việc cắt giảm các hàng rào thuế quan và phi thuế quan;
Thứ hai là quy định danh mục mặt hàng đưa vào cắt giảm thuế quan. Thông lệ áp
dụng chung là 90% thương mại;
Thứ ba là quy định lộ trình cắt giảm thuế quan, khoảng thời gian cắt giảm thuế thường
được kéo dài không quá 10 năm;
Thứ tư là quy định về quy tắc xuất xứ;
Các nội dung khác đề cập tới vấn đề tự do hóa trong lĩnh vực dịch vụ và đầu tư, các
biện pháp hạn chế định lượng, các rào cản kỹ thuật, quyền sở hữu trí tuệ, cạnh tranh,
mua sắm chính phủ, lao động, bảo hiểm và môi trường.
CHƯƠNG 2: TIẾN TRÌNH TOÀN CẦU HÓA CỦA NGÀNH THỦY SẢN VIỆT
NAM
2.1 Ngành thủy sản trước năm 1986
2.1.1 Bối cảnh lịch sử
Sau chiến thắng lịch sử mùa xuân 1975, đất nước ta bắt đầu bước vào quá trình khôi
phục và phát triển đất nước. Tuy nhiên chúng ta vấp phải rất nhiều khó khăn và mâu
thuẫn trong kinh tế.
Nến kinh tế tăng trưởng chậm, lạm phát nghiêm trọng. Nhiều chỉ tiêu chủ yếu của kế
hoạch 5 năm lần thứ 2 và 3 không thực hiện được. Cơ sở vật chất kĩ thuật yếu kém,
thiếu đồng bộ, trình độ kĩ thuật lạc hậu. Đại bộ phận vẫn là lao động thủ công, nền
kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ, phân công lao động xã hội kém phát triển, năng suất
lao động rất thấp. Sản xuất phát triển chậm chạp, không đủ cho tiêu dùng, làm không
đủ ăn phải dựa vào bên ngoài rất lớn. Phân phối lưu thông rối ren. Thị trường, tài
chính tiền tệ không ổn định. Ngân sách nhà nước bội chi liên tục. Giá cả thì leo thang
từng ngày. Do đó đời sống nhân dân ngày càng khó khăn, nhất là công nhân viên, lực
lượng vũ trang và một bộ phận nông dân. Tiêu cực và bất công xã hội tăng lên. Trật tự
xã hội bị giảm sút. Lòng tin của nhân dân vào Đảng bị lung lay, nguy cơ mất chính
quyền là rất lớn.
Tốc độ tăng GDP so với lạm phát giai đoạn 1976-1985
2.1.2 Tình hình sản xuất ngành thủy sản
- Những năm 1976 – 1980, đất nước thống nhất, ngành Thủy sản bước sang giai
đoạn phát triển mới trên phạm vi cả nước. Tầm cao mới của ngành được đánh dấu
bằng việc thành lập Bộ Hải sản năm 1976. Thực hiện 10 năm Di chúc Bác Hồ, ngành
đã phát động thành công phong trào “Ao cá Bác Hồ” rộng khắp trong cả nước, đem lại
tác dụng rất lớn.
Do hậu quả nặng nề của chiến tranh, nền kinh tế đất nước đang trong giai đoạn
phục hồi. Mặt khác, cơ chế quản lý lúc này chưa phù hợp, tiêu thụ theo cách giao nộp
sản phẩm, đánh giá kết quả theo khối lượng hàng hoá, không chú trọng giá trị sản
phẩm. Điều này đã làm giảm động lực thúc đẩy sản xuất thủy sản, kinh tế thủy sản sa
sút nghiêm trọng vào cuối những năm 1970.
Giai đoạn 1981 đến 1985: Năm 1981, Bộ Hải sản được tổ chức lại thành Bộ
Thủy sản, ngành Thủy sản bước vào giai đoạn phát triển toàn diện cả về khai thác,
nuôi trồng, hậu cần dịch vụ, chế biến và xuất khẩu, đẩy mạnh nghiên cứu và ứng dụng
tiến bộ KHCN vào sản xuất, mở rộng hợp tác quốc tế để giữ vững nhịp độ tăng
trưởng.
Năm 1981, trước những khó khăn, thách thức sau thời kỳ sa sút, sự ra đời của Công ty
xuất nhập khẩu thuỷ sản Seaprdex Việt Nam, được Nhà nước cho phép áp dụng thử
nghiệm cơ chế “tự cân đối, tự trạng trải”, mà thực chất là chú trọng nâng cao giá trị
của sản phẩm làm ra nhằm tạo nguồn đầu tư để tái sản xuất mở rộng, đã tạo nguồn
động lực mới cho sự phát triển. Ngành thuỷ sản có thể được coi là một ngành đi tiên
phong trong quá trình đổi mới, chuyển hướng sang nền kinh tế thị trường theo định
hướng XHCN ở nước ta. Việc áp dụng thành công cơ chế mới gắn sản xuất với thị
trường đã tạo ra bước ngoặt quyết định cho sự phát triển của kinh tế thuỷ sản, mở
đường cho sự tăng trưởng liên tục của ngành trong suốt hơn 27 năm qua.
2.2 Ngành thủy sản sau năm 1986
2.2.1 Quá trình mở cửa của nền kinh tế
- Nên kinh tế chuyển từ kế hoạch hóa tập trung -> nền kinh tế thị trường (tức là trao
quyền quản lý cho các doanh nghiệp)
29/2/1987: Nhà nước Việt Nam ban hành Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
1989: Việt Nam xuất khẩu gạo thứ 3 thế giới
1990: Bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc
1993: Bình thường hóa quan hệ tài chính với các tổ chức tài chính quốc tế
1995: Việt Nam gia nhập tổ chức kinh tế Đông Nam Á (ASEAN)
- nhận được sự giúp đỡ của các nước xhcn về máy móc, …?
Việt Nam đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội kéo dài nhiều năm, khắc phục
được nạn lạm phát có lúc trên 700% (năm 1986) xuống mức lạm phát 12% (năm
1995) và từ đó đến nay lạm phát chỉ còn một con số; khắc phục được nạn thiếu lương
thực trước đây và hiện nay kinh tế phát triển liên tục, đặc biệt là sản xuất lương thực,
Việt Nam trở thành một nước xuất khẩu gạo thứ hai, thứ ba trên thế giới.
Hiện nay Việt Nam đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nhằm
mục tiêu đến năm 2020, Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại.
Cùng với tăng trưởng kinh tế, trong thời kỳ đổi mới, Việt Nam đã chú ý đến việc
thực hiện chính sách công bằng xã hội, xóa đói giảm nghèo. Nhờ đó, đời sống vật chất
và tinh thần của nhân dân được cải thiện một bước đáng kể. Tính riêng trong 5 năm
(1993-1998), thu nhập bình quân đầu người của Việt Nam đã tăng 2,45 lần.
Song song với đổi mới kinh tế, từng bước đổi mới về chính trị, xã hội, văn hóa với
mục tiêu phát huy quyền làm chủ thực sự của nhân dân, xây dựng và phát huy đại
đoàn kết toàn dân, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại. Khoa học - công nghệ cùng với giáo dục - đào tạo được Nhà nước hết sức chăm
lo. Nhà nước coi chính sách phát triển khoa học - công nghệ và giáo dục - đào tạo là
quốc sách hàng đầu. Nhờ vậy, trong những năm vừa qua, khoa học - công nghệ và
giáo dục - đào tạo đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Năm 2000, Việt Nam đã hoàn
thành phổ cập giáo dục tiểu học, hiện nay chương trình đào tạo sau đại học với hai học
vị thạc sĩ và tiến sĩ đang được thực hiện ở hầu hết các ngành học thuộc khoa học tự
nhiên và công nghệ cũng như khoa học xã hội và nhân văn.
Trong lĩnh vực đối ngoại, Việt Nam thực hiện chính sách mở rộng quan hệ đối
ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại
độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế, phấn đấu vì
hòa bình, độc lập và phát triển. Trên cơ sở đường lối đó, Việt Nam đã kiên trì phấn
đấu đẩy lùi và làm thất bại chính sách bao vây cấm vận, cô lập Việt Nam của các thế
lực thù địch, tạo được môi trường quốc tế, khu vực thuận lợi cho công cuộc xây dựng
và bảo vệ đất nước.
Tháng 7-1995, Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội các
quốc gia Đông Nam Á (ASEAN).
Tháng 3-1996, Việt Nam đã tham gia Diễn đàn hợp tác Á - Âu (ASEM) gồm 10
nước châu Á và 15 nước châu Âu với tư cách thành viên sáng lập. Tháng 10-2004,
Hội nghị ASEM lần thứ năm đã họp tại Thủ đô Hà Nội của Việt Nam.
Tháng 11-1998, Việt Nam đã gia nhập Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái
Bình Dương (APEC) gồm các nước và lãnh thổ thuộc châu Á, châu Mỹ và châu Đại
Dương ở ven hai bờ Thái Bình Dương.
Chính trong quá trình hội nhập kinh tế, Việt Nam đã nhanh chóng mở rộng xuất
khẩu, thúc đẩy phát triển, tạo thêm việc làm cho người lao động, tăng nguồn thu ngân
sách nhà nước. Năm 1990, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt 2,404 tỷ USD và
nhập khẩu đạt 2,752 tỷ USD, tính chung bốn năm từ năm 2001 đến năm 2004, tổng
kim ngạch xuất khẩu đạt gần 77 tỷ USD, tốc độ tăng xuất khẩu bình quân bốn năm
khoảng 14,6%. Kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người năm 2004 đạt trên 305
USD/người.
Đổi mới ở Việt Nam đã kết hợp được nội lực và ngoại lực. Tháng 12-1987, Việt
Nam đã ban hành Luật đầu tư trực tiếp nước ngoài. Từ thời gian ấy đến nay, đất nước
ta đã thu được hàng chục tỷ USD vốn đầu tư nước ngoài với hàng nghìn dự án, trong
số đó đã thực hiện khoảng 21 tỷ USD. Có thể nói rằng, nguồn đầu tư trực tiếp nước
ngoài giữ một vị trí quan trọng trong nền kinh tế Việt Nam thời kỳ đổi mới. Ngoài ra,
Việt Nam còn tranh thủ được nguồn viện trợ phát triển chính thức (ODA) ngày càng
cao.
2.2.2. Quá trình toàn cầu hóa kinh tế ngành thủy sản
Đổi mới đã mang đến cho Việt Nam những thuận lợi đáng kể về mọi mặt, trong đó có
ngành thủy sản có những chuyển biến tích cực, thúc đẩy nành phát triển mạnh mẽ.
Qua thành công bước đầu của cơ chế mới, năm 1993, Hội nghị BCH Trung ương
Đảng lần thứ 5 khoá VII đã xác định xây dựng thuỷ sản thành ngành kinh tế mũi nhọn.
Phát huy các nguồn lực, đổi mới để phát triển, trong xu thế mở cửa và hội nhập đất
nước, ngành Thủy sản luôn coi xuất khẩu là động lực và ưu tiên đầu tư cho lĩnh vực
này. Thế mạnh của nghề cá nhân dân được phát triển mạnh qua các mô hình kinh tế
ngoài quốc doanh, thu hút các thành phần kinh tế đầu tư để phát triển. Việc ngành thuỷ
sản chú trọng đầu tư ngày một nhiều hơn và đúng hướng đã hình thành tiền đề quan
trọng cho sự phát triển kinh tế thuỷ sản, tạo nên sự chuyển biến mạnh mẽ trong sản
xuất kinh doanh, nâng cao năng lực, mở rộng quy mô sản xuất, kinh doanh, tạo ra
nhiều việc làm và tăng thu nhập cho lao động nghề cá cả nước, tạo nguồn thu lớn cho
ngân sách Nhà nước.
Trong chiến lược phát triển của ngành, các lĩnh vực khai thác và nuôi trồng thuỷ sản
được định hướng phát triển phục vụ xuất khẩu. Ngược lại, thành công trong chế biến,
xuất khẩu đã trở thành động lực thúc đẩy khai thác và nuôi trồng thủy sản phát triển.
Ngành Thủy sản đã chủ động đi trước trong hội nhập quốc tế, đẩy mạnh việc áp dụng
khoa học công nghệ tiên tiến vào sản xuất, gắn sản xuất nguyên liệu với chế biến, xúc
tiến thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu.
Giai đoạn 1990-2009: Từ giữa những năm 1990, ngành đã tập trung đổi mới phương
thức quản lý chất lượng và an toàn sản phẩm, tiếp cận và từng bước đáp ứng những
đòi hỏi cao nhất về lĩnh vực này của các thị trường lớn, nhờ đó sản phẩm thủy sản của
Việt Nam đã tạo được uy tín và đứng vững trên các thị trường thuỷ sản lớn nhất trên
thế giới.
Đóng góp của ngành thủy sản trong tổng sản phẩm trong nước hằng năm đều tăng lên,
từ 1,7% năm 1985 lên khoảng 4% năm 2004. Ngành thủy sản cũng đã tạo ra việc làm
cho hơn 1 triệu người.
Tổng sản lượng thủy sản đã lần lượt vượt qua ngưỡng 1 triệu tấn vào năm 1990, đứng
vào hàng ngũ những nước có sản lượng khai thác hải sản trên 1 triệu tấn kể từ năm
1997, đạt 2 triệu tấn vào năm 2000, 3 triệu tấn vào năm 2004 và qua mốc 4 triệu tấn
vào năm 2007
Kim ngạch xuất khẩu đã vượt qua mức 500 triệu USD năm 1995, năm 2000 vượt
ngưỡng 1 tỷ USD, đạt 2 tỷ USD năm 2002, trên 3 tỷ USD năm 2006 và qua mức 4 tỷ
USD, đạt 4,5 tỷ USD năm 2008.
.
Nghề khai thác cá biển ở Việt Nam được gọi là nghề cá nhân dân. Sự phát triển của
nghề cá mang tính chất tự phát và trong suốt một thời gian dài chúng ta đã không
kiểm soát được sự phát triển này. Theo số liệu của Bộ Thủy sản, năm 1981 cả nước
mới chỉ có 29584 tàu gắn máy thì đến cuối năm 2004 chúng ta đã có 85430 chiếc tàu
gắn máy. Hằng năm, số lượng tàu thuyền tăng lên liên tục với tốc độ bình quân 2929
chiếc/năm. Sự phát triển này hoàn toàn không dựa trên một căn cứ khoa học về khả
năng của nguồn lợi.
Cùng với sự gia tăng số lượng tàu thuyền khai thác, tổng công suất máy tàu cũng
không ngừng tăng lên. Tổng công suất tàu thuyền gắn máy năm 1981 ghi nhận được là
453871 CV thì đến năm 2004 con số này đã là 4721701 CV, với mức tăng bình quân
164579 CV/năm.
Sự tăng trưởng về số lượng tàu thuyền gắn máy và tổng công suất máy tàu thể hiện
cường lực khai thác hay áp lực khai thác lên nguồn lợi (vốn không phải là vô tận như
chúng ta vẫn nghĩ về nó) ngày một tăng. Mặc dù tổng sản lượng khai thác biển tăng
liên tục trong thời kỳ này từ 419470 tấn (1981) lên 1724200 tấn (2004) với gia tăng
bình quân 46431 tấn/năm, nhưng năng suất bình quân (tấn/cv/năm) lại thể hiện
khuynh hướng giảm và đặc biệt là giảm liên tục từ năm 1985 đến nay. Nếu năng suất
đánh bắt năm 1985 là 1,11 tấn/cv/năm thì đến năm 2003 giá trị này chỉ còn khoảng
0,35 tấn/cv/năm với tốc độ giảm bình quân 0,04 tấn/cv/năm trong thời kỳ này. Đến
năm 2008 có trên 17.000 tàu công suất trên 90 CV. Tỷ trọng sản phẩm khai thác xa bờ
đã tăng nhanh, chiếm khoảng 40 % tổng sản lượng khai thác hải sản.
Hệ thống hậu cần dịch vụ tuyến khơi xa, tuyến đảo, tuyến ven bờ gắn với các trung
tâm dịch vụ nghề cá đã bước đầu được hình thành.. Sự hiện diện dân sự của lực lượng
tàu thuyền và ngư dân trên các vùng biển đã góp phần giữ vững chủ quyền, an ninh
vùng biển, đảo của Tổ quốc.
Công tác quản lý hoạt động khai thác thủy sản được chú trọng, bao gồm các hoạt động
quản lý phương tiện, quản lý nghề nghiệp, quản lý lao động và công tác tuần tra kiểm
soát, giám sát hoạt động khai thác thủy sản để ngư thực hiện đúng các qui định của
pháp luật khi tham gia sản xuất trên biển.
Về nuôi trồng thuỷ sản
Từ chỗ là một nghề sản xuất phụ, mang tính chất tự cấp tự túc, nuôi trồng thủy sản đã
trở thành một ngành sản xuất hàng hoá tập trung với trình độ kỹ thuật tiên tiến, phát
triển ở tất cả các thuỷ vực nước ngọt, nước lợ, nước mặn theo hướng bền vững, bảo vệ
môi trường, hài hoá với các ngành kinh tế khác.
Diện tích nuôi trồng thủy sản tăng đều đặn qua từng năm từ năm 1981 tới nay. Từ 230
nghìn ha năm 1981, đến nay diện tích nuôi đã đạt hơn 1 triệu ha.
Khi tỷ trọng diện tích nuôi mặn, lợ tăng lên, nhất là nuôi tôm, thì sản lượng nuôi, đặc
biệt sản lượng nuôi đưa vào xuất khẩu, đã tăng nhanh chóng và hiệu quả kinh tế có
bước nhảy vọt. Từ những năm 1990, tôm nuôi cho xuất khẩu là mũi đột phá quan
trọng. Bên cạnh đó, đối tượng nuôi khác cũng ngày càng đa dạng hơn cả ở nước ngọt,
nước lợ và nuôi biển. Từ năm 2000, cá tra, basa đã trở thành đối tượng nuôi nước ngọt
quan trọng, là mặt hàng xuất khẩu chủ lực thứ hai sau tôm. Đến năm 2008, tôm và cá
tra, basa là hai mặt hàng thủy sản xuất khẩu chính, đạt kim ngạch xuất khẩu tương ứng
là 1,5 tỷ USD và 1,4 tỷ USD.
Nuôi trồng thuỷ sản đang từng bước trở thành một trong những ngành sản xuất hàng
hoá chủ lực, phát triển rộng khắp và có vị trí quan trọng và đang hướng đến xây dựng
các vùng sản xuất tập trung. Các đối tượng có giá trị cao có khả năng xuất khẩu đã
được tập trung đầu tư, khuyến khích phát triển, hiệu quả tốt. Phát huy được tiềm năng
tự nhiên, nguồn vốn và sự năng động sáng tạo trong doanh nghiệp và ngư dân, nuôi
trồng thủy sản đang góp phần hết sức quan trọng trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế
trong nông nghiệp cũng như thực hiện xoá đói giảm nghèo ở các vùng miền của đất
nước.
Về chế biến xuất khẩu
Đây là lĩnh vực phát triển rất nhanh và đã tiếp cận với trình độ công nghệ và quản lý
tiên tiến của khu vực và thế giới trong một số lĩnh vực chế biến thuỷ sản. Sản phẩm
thuỷ sản xuất khẩu đảm bảo chất lượng và có tính cạnh tranh, tạo dựng được uy tín
trên thị trường thế giới. Các cơ sở sản xuất không ngừng được gia tăng, đầu tư, đổi
mới.
Năm 1995, Việt Nam gia nhập các nước ASEAN và ngành thuỷ sản Việt Nam trở
thành thành viên của tổ chức nghề cá Đông Nam Á SEAFDEC, cùng với việc mở
rộng thị trường xuất khẩu đã tạo điều kiện cho ngành công nghiệp chế biến thuỷ sản
có chiều hướng phát triển tốt nhờ áp dụng những công nghệ kỹ thuật tiên tiến. Chất
lượng sản phẩm thuỷ sản không ngừng được nâng cao do các cơ sở chế biến ngày
càng hiện đại, công nghiệp tiên tiến, quản lý theo tiêu chuẩn quốc tế.
Đến năm 2008, đã có 544 doanh nghiệp chế biến thủy sản quy mô công nghiệp, trong
đó 410 cơ sở sản xuất, kinh doanh thủy sản đạt tiêu chuẩn ngành về điều kiện an toàn
vệ sinh thực phẩm, 414 doanh nghiệp đã áp dụng các quy phạm GMP, SSOP, HACCP,
ISO 14001..., đạt tiêu chuẩn sản xuất sạch hơn, được phép xuất khẩu sang các thị
trường lớn như Mỹ, EU, Nhật Bản, Hàn Quốc, Liên bang Nga,... Từ 18 doanh nghiệp
năm 1999, đến nay đã có 269 doanh nghiệp chế biến được cấp phép xuất khẩu vào thị
trường EU.
Bên cạnh các doanh nghiệp nhà nước, các doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thuỷ sản
của tư nhân phát triển mạnh trong thời gian qua, nhiều doanh nghiệp thuộc thành phần
kinh tế tư nhân đã có giá trị kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản hàng đầu, một số doanh
nghiệp chế biến xuất khẩu đã có kim ngạch xuất khẩu trên dưới 100 triệu USD mỗi
năm. Sản phẩm thủy sản của Việt Nam đã có mặt và đứng vững trên 140 quốc gia và
vùng lãnh thổ, trong đó có những thị trường quan trọng như EU, Nhật Bản, Hoa Kỳ,
Hàn Quốc và Nga.
Giai đoạn 2010-2017:
Theo số liệu thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan trong năm 2017, các doanh nghiệp
Việt Nam đã xuất khẩu hơn 8,3 tỷ USD thủy sản các loại, tăng 18% so với kết quả
thực hiện trong năm 2016. Với kết quả này, thủy sản là nhóm hàng đứng thứ 6 trong
số các nhóm hàng xuất khẩu chính của Việt Nam trong năm 2017.
Về nguồn cung sản xuất:
Năm 2018: Tính chung 7 tháng đầu năm 2018, sản lượng thuỷ sản trong nước đạt
4,274 nghìn tấn, tăng 5.7% so với cùng kỳ 2017, và đạt 60.9% kế hoạch cả năm của
Bộ NN&PTNT. Trong đó:
Sản lượng khai thác đạt 2,104 nghìn tấn (tăng 4.9%); trong đó, khai thác biển đạt
2,002 nghìn tấn (tăng 5.2%).
Trong 2 tháng gần đây, biển động thường xuyên, ngư trường khai thác ngày càng thu
hẹp đã khiến nhiều tàu câu cá ngừ của ngư dân tỉnh Bắc Trung Bộ gặp khó (đặc biệt
trong T7 có cơn bão Sơn Tinh trên biển Đông đã ảnh hưởng đến hoạt động khai thác
biển). Riêng đánh bắt cá ngừ đại dương ở 3 tỉnh chuyên mặt hàng này ghi nhận giảm
4.9% (đạt 13.58 nghìn tấn); trong đó: Bình Định đạt 7.75 nghìn tấn, Phú Yên 2.9
nghìn tấn và Khánh Hòa 2.9 nghìn tấn.
Tổng sản lượng nuôi trồng ước đạt 2,170 nghìn tấn (tăng 6.5%) Tình hình sản xuất
một số loài cụ thể như sau:
- Về cá tra: Sản lượng cá tra 7T/ 2018 ước tính đạt 782.1 nghìn tấn (tăng 12.1%).
Trong đó, một số tỉnh nuôi cá tra trọng điểm đạt sản lượng lớn như: Đồng Tháp đạt
274.5 nghìn tấn (tăng 9.4%), An Giang 190.4 nghìn tấn (tăng 17.4%), Cần Thơ 95.7
nghìn tấn (tăng 18.6%).
Tuy nhiên, giá cá tra trong tháng giảm mạnh do các thị trường nhập khẩu cá tra Việt
Nam đã giảm nhu cầu. Giá cá tra hiện dao động ở mức từ 25,000 – 27,000 đồng/kg
(tháng trước 30,500 – 31,500 đồng/kg), hiện vẫn cao hơn so với cùng kỳ năm 2017 từ
3,500 – 4,000 đồng/kg.
- Về mặt hàng tôm, sản lượng tôm nước lợ cả nước ước đạt 345.5 nghìn tấn (ĐBSCL
chiếm ~79%), tăng 11% so với cùng kỳ năm trước. Trong đó, sản lượng tôm sú ước
đạt 162.2 nghìn tấn và sản lượng tôm thẻ ước đạt 183.3 nghìn tấn.
Ngược với xu hướng giá cá tra, giá bán tôm sú có xu hướng tăng; riêng giá tôm thẻ
chân trắng trong tháng 7 vẫn duy trì ổn định sau khi nhích nhẹ vào tháng trước. So với
giá bán cùng thời điểm năm ngoái thì giá hiện vẫn thấp hơn khoảng 20,000 đ/kg. Theo
nhận định, do nhu cầu tại thị trường Mỹ sụt giảm bởi tồn kho cao, trong khi Trung
Quốc tăng cường kiểm soát tình trạng buôn lậu tôm, tôm tiêu thụ qua đường tiểu
ngạch gặp khó khăn. Tuy nhiên, theo dự báo, đến tháng 8 hoặc tháng 9, giá tôm thẻ
chân trắng sẽ tăng khoảng 20% so với mức giá thấp nhất trong tháng 6/2018.
Về giá trị xuất khẩu:
Bảng 1: Thứ hạng, trị giá và tỷ trọng của một số nhóm hàng xuất khẩu chính của Việt
Nam trong năm 2017
Tên nhóm hàng
Thứ
Trị
giá Tỷ trọng*
hạng
(Tỷ USD)
(%)
Điện thoại các loại & linh kiện
1
45,27
21,2
Hàng dệt may
2
26,04
12,2
Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện
3
25,94
12,1
Giày dép các loại
4
14,65
6,8
Máy móc, thiết bị, dụng cụ, phụ tùng khác
5
12,77
6,0
Thủy sản
6
8,32
3,9
(Ghi chú:* Tỷ trọng là tỷ trọng xuất khẩu nhóm hàng trong tổng kim ngạch xuất khẩu
của cả nước).
Nguồn: Tổng cục Hải quan
Biểu đồ 1: Diễn biến xuất khẩu thủy sản của Việt Nam trong giai đoạn năm 2010 2017
Nguồn: Tổng cục Hải quan
Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan thì thời điểm xuất khẩu thủy sản ở mức
cao trong năm là từ tháng 8 đến tháng 10 với mức bình quân là 820 triệu USD/tháng,
gấp 1,5 lần so với mức bình quân của các tháng đầu năm.
Biểu đồ 2: Diễn biến xuất khẩu thủy sản của Việt Nam theo tháng trong năm 2017
Nguồn: Tổng cục Hải quan
Trong năm 2017, EU đã vượt qua Hoa Kỳ trở thành thị trường nhập khẩu thủy sản lớn
nhất của Việt Nam với trị giá đạt 1,46 tỷ USD, tăng 22% so với năm 2016. Các thị
trường khác tiêu thụ thủy sản lớn của Việt Nam bao gồm: Hoa Kỳ đạt 1,41 tỷ USD,
giảm nhẹ 1,9% so với năm 2016; Nhật Bản: 1,3 tỷ USD, tăng 18,6%; Trung Quốc:
1,09 tỷ USD, tăng mạnh 59,4%; Hàn Quốc: 779 triệu USD, tăng 28,1%…
Số liệu thống kê mới nhất của Tổng cục Hải quan trong 2 tháng đầu năm 2018 ghi
nhận trị giá xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đã đạt 1,07 tỷ USD, tăng 18,4% so với
cùng kỳ năm 2017. Ở chiều ngược lại, nhập khẩu thủy sản của Việt Nam là 272 triệu
USD, tăng 33,9% so với một năm trước đó
Kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản đạt 4.7 tỷ USD, tăng 8.5% so với 7T/ 2017 chiếm 3,5%
tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam là US
(793.3 triệu USD), Nhật (734.5 triệu USD), và Trung Quốc (555.6 triệu USD).
2.3 Ảnh hưởng quá trình toàn cầu hóa kinh tế tới ngành thủy sản Việt Nam
2.3.1 Ảnh hưởng tích cực đến ngành
- Thị trường tiêu thụ, xuất khẩu của ngành thủy sản được mở rộng
Năm 1991, Việt Nam bình thường hóa quan hệ với Trung Quốc, sản lượng thủy
sản xuất khẩu ra nước ngoài tăng đột biến từ 205.000 tấn (năm 1990) đến 262.234 tấn
năm 1991.
Năm 2004-2007 lại là một cú vượt xuất sắc của ngành thủy sản Việt Nam, với sản
lượng xuất khẩu tăng cao. Đây chính là khoảng thời gian Việt Nam đang từng bước
chuẩn bị trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO.
Có thể thấy năm 2014, xuất khẩu thủy sản đã tăng mạnh (16,5%) nhờ nhu cầu
nhập khẩu tăng vọt, nguồn nguyên liệu giảm, giá thủy sản nhập khẩu tăng.
Từ năm 2016, việc tham gia cộng đồng ASEAN cũng như một số hiệp định
thương mại tự do thế hệ mới sẽ được ký kết hoặc bắt đầu có hiệu lực, điều này có
những tác động tích cực đến ngành hàng thủy sản trong việc mở rộng thị phần, thúc
đẩy sản xuất trong nước, tăng hàm lượng chế biến và có nhiều cơ hội phát triển hơn.
-
Tăng vốn đầu tư nước ngoài vào ngành
Tính đến năm 2013 cả nước có hơn 70 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI)
trong lĩnh vực thủy sản, với trên 310 triệu USD vốn đăng ký tập trung vào các ngành
nuôi trồng, chế biến, thức ăn và giống thủy sản. Các dự án này vào thời điểm đó dừng
lại
ở
quy
mô
nhỏ,
bình
quân
chỉ
hơn
4,4
triệu
USD/dự
án.
Có 18 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư vào lĩnh vực thủy sản tại Việt Nam,
hoạt động theo mục tiêu, nhu cầu riêng lẻ của từng doanh nghiệp, không có sự liên kết
trong chuỗi cung ứng và sản xuất.
-
Phát triển theo hướng hiện đại hóa nhờ những thành tựu khoa học công nghệ
Trong sự phát triển nhanh của ngành Thủy sản trong chặng đường phát triển,
KHCN thủy sản đã có những đóng góp quan trọng nhằm tăng năng suất lao động và
hiệu quả kinh tế, nâng cao chất lượng sản phẩm, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế
và xoá đói giảm nghèo.
Về khai thác thủy sản, đã có nhiều nghiên cứu điều tra, đánh giá nguồn lợi, các
yếu tố hải dương liên quan đến nghề cá ven bờ và một phần xa bờ, tạo cơ sở điều
chỉnh cơ cấu sản lượng khai thác, xác định vùng cấm và hạn chế đánh bắt nhằm sử
dụng bền vững nguồn lợi hải sản. Bước đầu xây dựng được dự báo khai thác nguồn lợi
hải sản giúp ngư dân nâng cao hiệu quả sản xuất.
Trên cơ sở kết hợp giữa nghiên cứu ứng dụng với tổng kết thực tế sản xuất và
nhập công nghệ, ngành đã áp dụng rộng rãi, có hiệu quả một số công nghệ khai thác
mới nhằm tăng sản lượng hải sản khai thác hải sản như lưới rê 3 lớp khai thác tôm,
mực nang; lưới rê thu cải tiến; kỹ thuật sử dụng lưới chụp mực khai thác mực ống,..
Một số sản phẩm trang bị cho tàu cá và các thiết bị khác trong lĩnh vực nghề cá được
nghiên cứu sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả nghề khai thác hải sản như sử dụng máy
dò cá trong đánh cá kết hợp ánh sáng, kỹ thuật bảo quản thuỷ sản bằng đá vẩy sản
xuất từ nước biển trên các tàu đánh cá xa bờ,…
Về nuôi trồng thuỷ sản, các nghiên cứu KHCN đã giúp ngành chủ động được
công nghệ sản xuất giống và con giống, nuôi thương phẩm nhiều đối tượng có giá trị
kinh tế cao, tạo ra bước ngoặt lớn cho nghề nuôi thuỷ sản ở nước ta, nhất là nghề nuôi
tôm sú, cá tra, cá basa xuất khẩu như mô hình nuôi tôm sú công nghiệp quy mô nông
hộ; công nghệ sản xuất giống và nuôi thương phẩm tôm sú, tôm chân trắng, tôm rảo,
tôm nương, tôm he Nhật bản và tôm càng xanh, cá song, cá giò, cá hồng Mỹ, cá chẽm,
cua biển, ghẹ xanh, ốc hương, bào ngư, … Một số công nghệ sản xuất giống thuỷ sản
đã tiếp cận hoặc vượt trình độ trong khu vực như công nghệ sản xuất giống cua biển,
ốc hương…
Về chế biến xuất khẩu thuỷ sản, nghiên cứu KHCN đã giải quyết nhiều vấn đề
liên quan đến công nghệ bảo quản sau thu hoạch, công nghệ chế biến một số sản phẩm
thuỷ sản từ các loài cá tạp có chất lượng, cải tiến và đa dạng hoá công nghệ và sản
phẩm truyền thống… Nhờ đổi mới thiết bị công nghệ, các doanh nghiệp chế biến xuất
khẩu thủy sản đã tạo ra nhiều sản phẩm mới có giá trị, đa dạng sản phẩm, nâng cáo
chất lượng và an toàn vệ sinh thực phẩm, tăng sức cạnh tranh của hàng thuỷ sản Việt
Nam trên thị trường quốc tế.
2.3.2 Ảnh hưởng tiêu cực đến ngành
- Tăng mức độ cạnh tranh trong và ngoài nước
Năm 2014 sản lượng thủy sản xuất khẩu thủy sản tăng mạnh, tuy nhiên, năm
2015, xu hướng này đảo ngược khi các yếu tố cung cầu không còn thuận lợi.
Nguồn cung tôm của các nước Indonesia, Ấn Độ, Thái Lan hồi phục, giá nhập
khẩu trung bình giảm, áp lực cạnh tranh và đồng USD tăng giá mạnh so với các đồng
tiền khác khiến nhu cầu nhập khẩu của các thị trường giảm. Mục tiêu 8 tỉ USD xuất
khẩu trong năm 2015 đã không thể đạt được. Ước tính, xuất khẩu thủy sản năm 2015
đạt khoảng 6,7 tỉ USD, xuất khẩu tới 164 thị trường, giảm 14,5% so với năm 2014.
Thị trường tiêu thụ kém, giá xuất khẩu hạ và biến động giảm giá của các đồng
ngoại tệ so với USD đã tác động mạnh đến xuất khẩu thủy sản Việt Nam, ảnh hưởng
sâu nhất là mặt hàng tôm. Xuất khẩu tôm liên tục giảm 25-30% trong năm 2015. Trừ
mặt hàng cá biển (tăng 5%), xuất khẩu tất cả các sản phẩm chính khác đều giảm từ 325%. Xuất khẩu sang tất cả các thị trường đều giảm (3-27%) so với cùng kỳ năm
trước, trừ ASEAN (tăng 8%).
-Những rào cản có thẻ gây bất lợi cho việc xuất khẩu của ngành sang các nước
Tiêu biểu chính là Hoa Kỳ trong vụ kiện chống bán phá giá tôm của Việt Nam.
Bối cảnh phát sinh vụ kiện là vào những năm đầu 2000, khi đó, thực thi chính
sách mở cửa và hội nhập mạnh mẽ, các doanh nghiệp tôm của ta đã thâm nhập và dần
khẳng định vị thế của mình trên thị trường Mỹ.
Nhờ chất lượng và giá thành hợp lý, sản phẩm tôm đông lạnh của Việt Nam đã
nhanh chóng giành được thị phần lớn tại thị trường Mỹ và đã có lúc doanh nghiệp tôm
của Việt Nam như Minh Phú đã vươn lên trở thành nhà nhập khẩu tôm đông lạnh nước
ngoài lớn nhất tại Mỹ.
Đứng trước thách thức cạnh tranh đến từ hàng nhập khẩu, các nhà sản xuất tôm
nội địa nước Mỹ - Liên minh Tôm miền Nam (Southern Shrimp Alliance “SSA”), đã
lên tiếng và gửi đơn khiếu nại đến Bộ Thương mại Hoa Kỳ (DOC) và Ủy Ban Thương
mại quốc tế Hoa Kỳ (ITC) để yêu cầu khởi xướng vụ việc điều tra và áp thuế chống
bán phá giá (CBPG) đối với sản phẩm tôm nhập khẩu nước ngoài đến từ 6 nước.
12 giờ ngày 30/12/2003, tức đúng Tết dương lịch năm 2004 (giờ Việt Nam), Bộ
Thương mại Hoa Kỳ (DOC) khởi xướng điều tra áp thuế CBPG với tôm đông lạnh
của Việt Nam. Một năm sau, tháng 2/2005, DOC chính thức ban hành lệnh áp thuế
CBPG với tôm Việt Nam, cùng với 5 quốc gia khác là Thái Lan, Ấn Độ, Trung Quốc,
Brasil và Ecuador.