Tải bản đầy đủ (.doc) (27 trang)

Mối quan hệ giữa triết học với khoa học tự nhiên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (149.52 KB, 27 trang )

MỐI QUAN HỆ GIỮA TRIẾT HỌC VỚI KHOA HỌC TỰ NHIÊN
------------------------------MỞ ĐẦU
Nhằm duy trì sự tồn tại, phát triển và không ngừng thoả mãn nhu cầu
cuộc sống ngày càng tăng, con người phải liên kết cùng nhau tham gia hoạt
động thực tiễn một cách tích cực, năng động và sáng tạo; thông qua đó, họ liên
tục khám phá bản chất của giới tự nhiên, của xã hội và của chính bản thân
mình để cải tạo hiện thực có hiệu quả hơn. Quá trình hoạt động thực tiễn xuất
phát từ mục đích nói trên, là cơ sở khách quan hình thành nên các ngành khoa
học, trong đó có triết học (nghiên cứu những quy luật chung nhất của tự nhiên,
xã hội và tư duy) và các bộ môn thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên (nghiên cứu
quy luật của các mặt, các bộ phận riêng biệt của giới tự nhiên như: toán học,
vật lý học, hoá học, sinh học, nhân chủng học...).
Triết học và khoa học tự nhiên tuy là những lĩnh vực khoa học khác
nhau, nhưng giữa chúng lại có mối quan hệ biện chứng với nhau không tách
rời nhau xong giữa chúng lại có tính độc lập tương đối.
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TRIẾT HỌC VÀ KHOA HỌC TỰ NHIÊN
1.1. Một số vấn đề cơ bản về triết học.
Khi mới hình thành, thoát thân từ loài vượn trở thành người, với bộ não
người có cấu trúc đặc biệt và có năng lực phản ánh phát triển; con ng ười đã
luôn tìm cách lý giải các vấn đề đặt ra tưởng chừng đơn giản nhưng lại rất
phức tạp như: mình là ai, được sinh ra và tồn tại như thế nào, có cấu trúc ra
sao, làm cách gì để cuộc sống của mình ngày càng tốt đẹp hơn?...(1) Thế giới
tự nhiên xung quanh mình là gì, bản chất của nó ra sao, mình có khám phá và
chinh phục giới tự nhiên được hay không, cách giải quyết mối quan hệ của
mình với nó như thế nào?... Quá trình lý giải những vấn đề nêu trên, con
1


người đã xây dựng được hệ thống tri thức lý luận có tính khái quát chung
nhất về bản chất của tự nhiên, xã hội và tư duy; trên cơ sở đó, định hướng và chỉ


đạo cho mọi hoạt động của mình. Hệ thống tri thức ấy đã được gọi là triết học.
Như vậy, triết học không phải là một điều gì thần bí hay cao siêu, nó là
khoa học trí tuệ, là tri thức về các mặt bản thể luận, phương pháp luận và nhận
thức luận, là sự nghiên cứu về con người và cuộc sống của họ thấm

đượm ý

nghĩa nhân sinh. Nói theo quan điểm của người Trung Hoa trước đây thì:
“Triết học là một thứ tự do còn lẩn khuất ở trong băng và trong núi - là sự
khám phá đối với tất cả những thứ lạ lẫm còn hoài nghi đang tồn tại trên trái
đất này, là sự tìm tòi đối với những chuẩn mực đạo đức nghiêm khắc” (2).
Theo quan điểm thống nhất được phổ biến hiện nay thì: “Triết học là một hệ
thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, về bản thân con
người và vị trí của con người trong thế giới đó”.
Triết học ra đời từ thời cổ đại, vào khoảng thế kỷ thứ VIII đến thế kỷ thứ
VI trước công nguyên (tr.CN), được đánh dấu bởi các học thuyết triết học hình
thành ở Trung Quốc, ấn Độ và Hy Lạp thời đó. Trong quá trình phát triển, đối
tượng của triết học luôn thay đổi theo từng giai đoạn lịch sử:
Vào thời kỳ cổ đại, do mới diễn ra sự phân chia lao động trí óc với lao
động chân tay, tri thức của nhân loại còn ít, chưa có sự phân ngành giữa triết
học với các khoa học cụ thể khác…, nên đối tượng của triết học là mọi lĩnh
vực tri thức. Triết học trong thời kỳ này được gọi là triết học tự nhiên và đã đạt
được nhiều thành tựu rực rỡ mà ảnh hưởng của nó còn in đậm dấu ấn trong sự
phát triển trên các lĩnh vực của khoa học hiện đại, như: toán học, vật lý học,
hoá học, thiên văn học, sinh vật học, y học, thẩm mỹ học, đạo đức học, dân tộc
học, xã hội học…
Thời trung cổ ở Tây Âu, do sự thống trị khắt khe của tôn giáo thần quyền
trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nên triết học trở thành một bộ môn và là nô
lệ của thần học. Nền triết học tự nhiên bị thay thế bởi nền triết học kinh viện phê
2



phán. Đối tượng của triết học trong giai đoạn này là các nội dung trong Kinh
thánh của giáo hội Thiên Chúa giáo, vì nó tập trung lý giải và chứng minh tính
đúng đắn của những tín điều tôn giáo; do vậy, trong điều kiện ràng buộc của
“đêm trường trung cổ”, triết học phát triển một cách chậm chạp.
Vào các thế kỷ XV - XVI, khi phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa
xuất hiện ở các nước Tây Âu, nhất là khi cách mạng tư sản nổ ra tại các nước
đó vào các thế kỷ XVII - XVIII; trong giai đoạn lịch sử này, mặc dù khoa học
tự nhiên phát triển và đã hình thành các bộ môn khoa học độc lập, nhưng triết
học vẫn gắn liền với khoa học tự nhiên, đối tượng của triết học vẫn là mọi lĩnh
vực tri thức. Cho đến lúc đó, triết học vẫn chưa có đối tượng nghiên cứu riêng.
Tuy nhiên, trước những phát minh mới về địa lý và thiên văn, cùng với những
thành tựu đạt được trên các lĩnh vực khoa học, cả khoa học tự nhiên lẫn khoa
học xã hội và nhân văn đã mở ra một thời kỳ mới cho sự phát triển triết học.
Triết học duy vật chủ nghĩa dựa trên cơ sở tri thức của khoa học thực nghiệm
đã phát triển một cách nhanh chóng trong cuộc đấu tranh với chủ nghĩa duy
tâm, tôn giáo và đã đạt tới đỉnh cao mới trong thời kỳ này, với những đại biểu
tiêu biểu như: Bê-cơn, Hốp-xơ (Anh), Đi-đrô, Hen-vê-ti-úyt (Pháp), Xpi-nô-za
(Hà Lan)… Bên cạnh đó, tư duy triết học cũng được phát triển trong các học
thuyết triết học duy tâm mà đỉnh cao là triết học Hê-ghen, đại biểu xuất sắc
của triết học cổ điển Đức.
Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản
và sự phát triển mạnh mẽ của khoa học tự nhiên đã đòi hỏi triết học phải được
phát triển lên tầm cao mới, phải xác định rõ đối tượng nghiên cứu của riêng
mình. Triết học Mác ra đời với đối tượng nghiên cứu là tiếp tục giải quyết mối
quan hệ giữa vật chất và ý thức trên lập trường duy vật triệt để và nghiên cứu
những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Như vậy, triết học
Mác ra đời đã đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn lúc bấy giờ, đồng
thời, sự kiện đó còn là mốc đánh dấu sự chấm dứt của thời kỳ “triết học là

khoa học của mọi khoa học”.
3


Vào đầu thế kỷ XX, với âm mưu chống chủ nghĩa xã hội và xét lại, hòng
kéo dài sự tồn tại của chủ nghĩa tư bản và bảo vệ lợi ích của các cộng đồng
thiểu số, các triết gia tư sản và bọn đội lốt chủ nghĩa Mác đã đưa ra các trào lưu triết học phi mác-xít. Đặc biệt, vào những thập kỷ cuối của thế kỷ XX và
những năm đầu của thế kỷ XXI, trước những mâu thuẫn không thể điều hoà được trong xã hội tư sản và trước những nguy cơ có tính toàn cầu, cũng như
những biến động lớn trên trường chính trị thế giới, cùng với những thành tựu
đạt được trong cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, ở các nước
tư bản phát triển đã xuất hiện nhiều trào lưu triết học khác nhau mà ta thường
gọi là “triết học phương Tây hiện đại”. Đó là các trào lưu triết học duy khoa
học, trào lưu triết học nhân bản phi lý tính, trào lưu triết học thần quyền tôn
giáo… với đối tượng nghiên cứu là những lĩnh vực riêng biệt của giới tự
nhiên, của con người và những sản phẩm tinh thần của chính họ, như: mô tả
những hiện tượng tự nhiên, tinh thần; phân tích ngữ nghĩa; chú giải văn bản…
Từ đối tượng nghiên cứu như vậy, có thể thấy, các trào lưu triết học nói trên
chỉ là sản phẩm tư biện của những triết gia đội lốt khoa học và thể hiện rõ tính
chất phản động của nó trong thực tiễn.
Xem xét sự thay đổi đối tượng nghiên cứu của triết học trong tiến trình
lịch sử, theo tôi, đó chẳng qua là sự thay đổi phạm vi, mức độ nội dung nghiên
cứu; bởi lẽ, mọi vấn đề mà triết học từ trước đến nay nghiên cứu đều không nằm
ngoài thế giới tự nhiên, xã hội và tư duy của con người. Điểm tương đồng trong
các học thuyết triết học là nghiên cứu những vấn đề chung nhất của giới tự nhiên,
của xã hội và con người, cũng như mối quan hệ của con người nói chung, của tư
duy con người nói riêng với thế giới xung quanh. Cái khác nhau căn bản về đối
tượng nghiên cứu của các trường phái triết học, xét đến cùng, tuỳ thuộc vào
quan điểm (duy vật hay duy tâm) và phương pháp (biện chứng hay siêu hình)
mà thôi.
Xuất phát từ mục đích nhận thức và cải tạo hiện thực của con người mà

triết học thể hiện rõ vai trò của nó trong đời sống xã hội. Vai trò ấy được thể
4


hiện thông qua các chức năng của triết học, trong đó, quan trọng nhất là chức
năng thế giới quan và chức năng phương pháp luận.
Những vấn đề được triết học đặt ra và lý giải một cách khoa học, trước
hết là những vấn đề thuộc về thế giới quan. Sự lý giải ấy hoàn toàn mang tính
tự giác, dựa trên sự tổng kết kinh nghiệm thực tiễn và những tri thức do các
khoa học đem lại. Vì thế, triết học là hạt nhân lý luận của thế giới quan, đóng
vai trò đặc biệt quan trọng trong cuộc sống của con người và xã hội loài người,
có thể xem thế giới quan triết học như một “thấu kính”, qua đó con người tiếp
tục nhận thức sâu sắc hơn bản chất của giới tự nhiên, của xã hội và của chính
bản thân mình để xác định cho mình mục đích, ý nghĩa cuộc sống và lựa chọn
phương thức hoạt động nhằm đạt được mục đích, ý nghĩa đó.
Như vậy, thế giới quan đúng đắn là tiền đề cho việc xác lập nhân sinh quan
tích cực, trình độ phát triển của thế giới quan là tiêu chí quan trọng đánh giá sự trưởng thành của mỗi cá nhân hoặc cộng đồng người trong xã hội.
Là hệ thống tri thức chung nhất của con người về thế giới và vai trò của
con người trong thế giới đó, cùng với việc nghiên cứu những quy luật chung
nhất của giới tự nhiên, xã hội và tư duy, triết học đã thể hiện rõ chức năng phương pháp luận chung nhất. Mỗi quan điểm lý luận của triết học cũng đồng
thời là một nguyên tắc trong việc xác định phương pháp, là lý luận về phương
pháp nhận thức và cải tạo hiện thực.
Các chức năng thế giới quan, phương pháp luận được thể hiện rõ ở các
học thuyết triết học khoa học, trong đó triết học Mác-Lênin là đỉnh cao của trí
tuệ nhân loại, chứa đựng khả năng cải tạo thế giới và trở thành công cụ hữu
hiệu trong hoạt động chinh phục giới tự nhiên cũng như trong sự nghiệp giải
phóng loài người của những lực lượng xã hội tiến bộ.
Như vậy, với tư cách là một hệ thống lý luận trang bị thế giới quan khoa
học, phương pháp luận chung nhất cho con người trong quá trình nhận thức và
cải tạo hiện thực; đương nhiên triết học bị quy định bởi đời sống vật chất của

5


xã hội, vì nó là một trong những hình thái ý thức xã hội, phản ánh tồn tại xã
hội và là một bộ phận của kiến trúc thượng tầng, phản ánh cơ sở hạ tầng. Do
đó, sự phát triển của các tư tưởng triết học bao giờ cũng bị quy định bởi sự
phát triển của nền sản xuất vật chất, nền sản xuất vật chất ấy càng đạt được
nhiều thành tựu bao nhiêu, thì triết học càng có cơ sở để phát triển bấy nhiêu.
Thực tiễn quá trình hình thành và phát triển của lịch sử triết học cho thấy: các
học thuyết triết học được hình thành phổ biến ở những nơi từng được coi là
trung tâm văn minh của nhân loại. Mặt khác, triết học và sự phát triển của nó
có tính độc lập tương đối. Tính độc lập tương đối ấy có quan hệ trực tiếp với
nguồn gốc nhận thức, với logic nội tại của các khuynh hướng và hệ thống triết
học; đồng thời, nó còn liên quan chặt chẽ đến cuộc đấu tranh giữa các giai cấp,
các lực lượng xã hội, đến sự giao lưu tư tưởng, đến những thành tựu đạt được
của khoa học và triết học trước đó. Vì thế, trong một phạm vi không gian và
thời gian nhất định, triết học vượt ra khỏi sự ràng buộc trực tiếp của đời sống
vật chất. Điều này còn thể hiện rõ tính quy luật về sự hình thành và phát triển
của triết học.
1.2. Một số vấn đề cơ bản về khoa học tự nhiên
Nhu cầu, quá trình nhận thức và cải tạo hiện thực của con người là
tất yếu khách quan, được hình thành từ khi con người mới xuất hiện; thế
nhưng, mọi tri thức thu được thông qua hoạt động nhận thức của con người
ngay từ đầu chưa phải là khoa học. Chỉ đến khi trình độ con người đạt được
một tầm cao nhất định, những tri thức đã thu nhận trong quá trình hoạt động
thực tiễn lâu dài được khái quát thành hệ thống, thì khi đó khoa học mới thực
sự ra đời. Sự xuất hiện của khoa học tự nhiên cũng tuân theo quy luật đó.
Những tri thức của con người về giới tự nhiên và bản thân mình được
khái quát thành hệ thống gọi là khoa học tự nhiên. Có nhiều cách định nghĩa về
khoa học tự nhiên, nhưng theo sự thống nhất chung của giới khoa học thì:


6


“Khoa học tự nhiên là lĩnh vực khoa học chuyên nghiên cứu về những quy luật
chung của các đối tượng vật chất trong giới tự nhiên, kể cả con người”.
Trong thời cổ, trung đại, do tri thức của con người còn ít, khoa học chưa
phát triển, các ngành khoa học tự nhiên còn đồng nhất với triết học, triết học được xem là khoa học của mọi khoa học, các nhà triết học cũng đồng thời là
những nhà khoa học tự nhiên, thể hiện rõ nhất ở phương Tây như: nhà toán học
- triết học Ta-lét, Ơcơ-lít, Pi-ta-go; nhà vật lý học - triết học Pla-tôn, ác-simét, ; nhà hoá học - triết học A na-xi-men, Đê-mô-crít; nhà sinh vật học - triết
học Ana-xi-man, Xô-crát… ở phương Đông cũng có biểu hiện nói trên, như:
người phát minh ra thuốc súng ở Trung Quốc là Lâm Lô - một đạo sĩ luyện đan
của Đạo giáo, các nhà triết học ấ n Độ cổ đại cũng là những người rất giỏi về
toán học, từng phát minh ra số “không” và số “Pi” nổi tiếng…
Trong đêm trường trung cổ, khoa học tự nhiên cũng bị bóp nghẹt bởi thần
quyền tôn giáo nên sự phát triển của nó hầu như hết sức chậm chạp. Đối tượng của
khoa học tự nhiên, cũng như triết học là Kinh thánh, nhiệm vụ của nó là phải tìm
mọi cách để lý giải và chứng minh cho tính “đúng đắn” của Kinh thánh. Các phát
minh khoa học trái với các tín điều trong Kinh thánh đều bị coi là sai trái, là sự phỉ
báng Giáo hội Thiên Chúa. Ga-li-lê và Bru-nô bị toà án Giáo hội Thiên Chúa thiêu
sống trong thời kỳ này bởi những phát minh về thiên văn của hai ông, là một trong
những bằng chứng không thể chối cãi.
Thời phục hưng và cận đại, Vật lý học là ngành khoa học tự nhiên xuất
hiện đầu tiên với các công trình nghiên cứu thực nghiệm về cơ học của Ga-li-lê.
Tiếp sau đó, toán học, hoá học, sinh vật học… cũng phát triển thành những khoa
học độc lập. Thế nhưng, đến khi triết học Mác ra đời thì những chuyên ngành
khoa học nói trên mới thực sự trở thành những ngành khoa học độc lập.
Từ cuối thế kỷ XIX đến nay, khoa học tự nhiên gồm nhiều chuyên ngành
khoa học khác nhau, chuyên sâu nghiên cứu về các lĩnh vực khác nhau; trong
đó, có các chuyên ngành chính là:

7


Toán học: Nghiên cứu các hình thức không gian và các quan hệ số lượng của thế giới hiện thực. Toán học được sử dụng hầu hết trong các lĩnh vực
nghiên cứu của khoa học, kể cả khoa học tự nhiên và khoa học xã hội.
Vật lý học: Nghiên cứu về cấu trúc, thuộc tính, quy luật vận động và các
hình thức không gian, thời gian của các đối tượng vật chất trong giới tự nhiên.
Đối tượng nghiên cứu của vật lý học rất rộng, từ giới siêu vĩ mô (vũ trụ và các
hành tinh trong vũ trụ), đến giới vĩ mô (từ nguyên tử đến các vật thể cụ thể mà
con người nhận biết được một cách trực tiếp thông qua các giác quan và các
công cụ hỗ trợ khác như kính hiển vi, máy đo vận tốc, gia tốc…) và giới vi mô
(các yếu tố cấu thành nguyên tử như pro-tôn, nơ-tơ-rôn, các hạt quắc, các hạt
sóng và trường điện tử…)
Hoá học: Nghiên cứu về cấu trúc, thuộc tính, sự chuyển hoá lẫn nhau
quy luật vận động và các hình thức không gian, thời gian của các nguyên tố
cấu thành vật chất trong giới vô cơ và hữu cơ.
Sinh vật học: Nghiên cứu về cấu trúc, thuộc tính, quy luật biến dị, di
truyền và các hình thức không gian, thời gian của các đối tượng trong giới
động, thực vật.
Như vậy, đối tượng nghiên cứu của khoa học tự nhiên rất rộng, gần như
đồng nhất với thế giới vật chất tồn tại khách quan xung quanh con người và
bản thân con người. Đây là một trong những cơ sở chủ yếu để phân tích làm rõ
điểm tương đồng và khác giữa triết học và khoa học tự nhiên sẽ được trình bày
ở cuối phần này.
Quá trình phát triển của khoa học tự nhiên, từ những chuyên ngành
chính nói trên đã hình thành nên các ngành khoa học khác như: thiên văn học,
nguyên tử học, tế bào học, y học… Đồng thời, quá trình nghiên cứu một loạt
các hình thức quan hệ qua lại lẫn nhau trong vận động của vật chất đã hình
thành nên các liên ngành khoa học như lý-hoá học, hoá-sinh học…


8


Trên thực tế, tri thức của con người về giới tự nhiên vốn có từ rất sớm,
khi con người mới xuất hiện; thế nhưng, khoa học tự nhiên lại xuất hiện muộn
hơn triết học và các ngành khoa học xã hội khác, nó xuất hiện cùng với sự ra
đời của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa trong lòng chế độ phong kiến ở
Tây Âu vào thế kỷ XV-XVI và thực sự trở thành các ngành khoa học độc lập
vào giữa thế kỷ XIX với sự ra đời của triết học Mác.
Xuất phát từ mục đích nhận thức và cải tạo hiện thực của con người mà
khoa học tự nhiên cũng có vai trò to lớn trong đời sống xã hội. Vai trò ấy được thể
hiện thông qua các chức năng của nó, như: chức năng nhận thức, chức năng đánh
giá, chức năng giáo dục (trong ứng xử với môi trường tự nhiên)…; trong đó, quan
trọng nhất là chức năng nhận thức và chức năng phương pháp luận.
Những vấn đề được khoa học tự nhiên đặt ra và lý giải tuy không trực
tiếp thuộc về thế giới quan nhưng lại có quan hệ chặt chẽ với chức năng thế
giới quan của triết học. Dựa trên những tri thức do khoa học tự nhiên đem lại
mà triết học khái quát thành lý luận, trở thành hạt nhân của thế giới quan. Vì
thế, khoa học tự nhiên cũng đóng vai trò đặc biệt quan trọng, không thể thiếu
được trong cuộc sống của con người và xã hội loài người, có thể xem mỗi phát
minh của khoa học tự nhiên như một sự hé mở, vén lên tấm màn bí mật trong
một lĩnh vực nào đó của tự nhiên và con người, giúp cho con người tiếp tục
nhận thức sâu sắc hơn bản chất của giới tự nhiên và của chính bản thân mình,
thông qua đó mà con người xác định thái độ ứng xử đúng mực với môi trường
sinh thái, đảm bảo cho sự tồn tại của mình.
Bên cạnh đó, với tư cách là hệ thống tri thức của con người về thế giới
và bản thân con người, cùng với việc nghiên cứu những quy luật chung của
giới tự nhiên và con người mà khoa học tự nhiên đã thể hiện rõ chức năng phương pháp luận. Mỗi phát minh của khoa học tự nhiên cũng đồng thời là một
nguyên tắc trong việc xác định phương pháp trong ứng xử và cải tạo hiện thực.
Thành tựu đạt được của khoa học tự nhiên là tiêu chí quan trọng đánh giá tầm

9


vóc văn minh của nhân loại trong tiến trình lịch sử, tạo điều kiện thuận lợi cho
con người trong quá trình hoạt động thực tiễn.
Một trong những vấn đề có tính quy luật của khoa học tự nhiên là quá
trình phát triển của nó luôn phụ thuộc vào sự phát triển của nền sản xuất vật
chất. Nền sản xuất vật chất càng phát triển thì càng tạo ra môi trường thuận lợi
cho khoa học tự nhiên phát triển và ngược lại. Sự phát triển của khoa học tự
nhiên còn phụ thuộc vào tính chất của các chế độ chính trị xã hội, vào cuộc
đấu tranh giai cấp của các lực lượng tiến bộ, vào thành tựu của chính nó trước
đó, vào sự mở rộng hợp tác, giao lưu và những yếu tố khác. Thực tiễn cho
thấy, khoa học tự nhiên thường được phát triển ở những nơi có đời sống vật
chất phát triển cao. Thời cổ đại, khoa học tự nhiên phát triển ở những vùng vốn
được xem là trung tâm văn minh của nhân loại như: Hy Lạp, La Mã, Trung
Quốc, ấn Độ… Thời trung cổ ở Tây Âu, khoa học tự nhiên phát triển chậm
chạp như đã nêu trên. Khi chủ nghĩa tư bản phát triển, giai cấp tư sản còn giữ
vị trí trung tâm của thời đại thì khoa học tự nhiên được phục hồi và phát triển
mạnh. Hiện tại, các nước tư bản phát triển đang tạm thời chiếm ưu thế về khoa
học tự nhiên, riêng Mỹ hiện có các trung tâm nghiên cứu khoa học tự nhiên lớn
(tiêu biểu là khu công nghệ cao ở thung lũng Si-li-con) và sở hữu trên 80% số nhà
khoa học hàng đầu của thế giới. Với sự bùng nổ của cách mạng công nghệ thông
tin, thế giới như xích lại gần nhau hơn, tạo điều kiện thuận lợi cho các nước đang
phát triển, đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá như nước ta tiếp
cận và phát triển các lĩnh vực của khoa học tự nhiên, phục vụ tốt hơn cho cuộc
sống và góp phần duy trì nền hoà bình thế giới.
Đáng chú ý là, tuỳ thuộc vào quan điểm, lập trường khác nhau mà các
giai cấp, các lực lượng chính trị sử dụng thành tựu của khoa học tự nhiên vào
những mục đích khác nhau. Chủ nghĩa tư bản khi mới phát triển đã tận dụng
những thành tựu của khoa học tự nhiên trên các lĩnh vực thiên văn, địa lý để

chế tạo nên những con tàu vượt đại dương và cải tiến vũ khí, nhằm thực hiện
mục đích xâm chiếm thuộc địa và khai thác tài nguyên, thị trường… Khi phát
10


triển đến đỉnh cao là chủ nghĩa đế quốc, với bản chất phản động và hiếu chiến,
nó đã trở thành “bạn đường của chiến tranh”. Các nước đế quốc, đứng đầu là
Mỹ đã lợi dụng những thành tựu của khoa học tự nhiên để hiện đại hoá vũ khí,
lôi cuốn thế giới vào cơn lốc chạy đua vũ trang… hòng thực hiện âm mưu bá
chủ thế giới của mình. Chỉ khi nào các giai cấp, các lực lượng tiến bộ sử dụng
thành tựu của khoa học tự nhiên để phục vụ cho cuộc sống của nhân loại, thì
khi đó khoa học tự nhiên mới phát huy tối đa tác dụng và thực hiện được ý
nghĩa nhân văn của nó.
Từ những vấn đề nêu trên, có thể khẳng định rằng: giữa triết học và
khoa học tự nhiên có những điểm tương đồng và khác biệt sau đây:
Điểm tương đồng:
- Đối tượng nghiên cứu của triết học và khoa học tự nhiên đều là những
quy luật sự vật hiện tượng cụ thể tồn tại trong thế giới khách quan. Riêng đối tượng nghiên cứu của vật lý học thì hầu như đồng nhất với thế giới vật chất là
đối tượng nghiên cứu của triết học.
- Triết học và khoa học tự nhiên đều có các chức năng như: chức năng nhận
thức, chức năng phương pháp luận, chức năng đánh giá, chức năng giáo dục…
- Mục đích của triết học và khoa học tự nhiên đều nhằm khám phá bản
chất, quy luật của thế giới vật chất, thoả mãn nhu cầu nhận thức và cải tạo hiện
thực để đáp ứng tốt hơn cho cuộc sống của con người.
- Sự phát triển của triết học và khoa học tự nhiên đều bị chi phối bởi đời
sống vật chất của xã hội; đồng thời, triết học và khoa học tự nhiên đều có tính
độc lập tương đối, giữa chúng có mối quan hệ biện chứng với nhau.
Điểm khác biệt:
- Đối tượng nghiên cứu của triết học rộng hơn đối tượng nghiên cứu của
khoa học tự nhiên. Ngoài quy luật của giới tự nhiên, đối tượng nghiên cứu của

triết học còn bao hàm cả những quy luật trong lĩnh vực xã hội của con người
11


và vai trò của con người trong thế giới. Khoa học tự nhiên chỉ nghiên cứu
những quy luật riêng rẽ của các sự vật hiện tượng tồn tại trong giới tự nhiên và
bản thân con người mà thôi.
- Triết học là hạt nhân lý luận trang bị thế giới quan cho con người,
trong khi hệ thống tri thức của khoa học tự nhiên không thể hiện rõ chức năng
này. Triết học trang bị phương pháp luận chung nhất, còn khoa học tự nhiên
chỉ trang bị phương pháp luận chung trên từng lĩnh vực của tự nhiên cho con
người trong quá trình nhận thức và cải tạo thế giới.
- Triết học thể hiện tính đảng sâu sắc, khoa học tự nhiên không có tính
đảng. ý nghĩa nhân văn của khoa học tự nhiên tuỳ thuộc vào mục đích sử dụng
của các giai cấp, các lực lượng xã hội.
1.3. Mối quan hệ giữa triết học với khoa học tự nhiên
Đề cập đến mối quan hệ giữa triết học với khoa học tự nhiên, từ trước
đến nay có nhiều ý kiến khác nhau.
Thời cổ, trung đại, hầu hết các nhà khoa học đều cho rằng: khoa học tự
nhiên hoàn toàn phụ thuộc vào triết học theo quan niệm “Triết học là khoa học
của mọi khoa học”. Quan niệm trên phần nào phù hợp với thực tiễn và nhận
thức thời đó. Riêng trong thời trung cổ ở Tây Âu, cả triết học và khoa học tự
nhiên đều hoàn toàn lệ thuộc vào thần học.
Vào thế kỷ XV - XVI, các khoa học cụ thể tuy được phát triển thành các
ngành khoa học độc lập, nhưng lúc đó mối quan hệ giữa triết học và khoa học
tự nhiên cũng chưa được nhìn nhận đúng đắn, thậm chí đối tượng của triết học
còn bị thu hẹp lại.
Những năm gần đây lại xuất hiện quan điểm cho rằng, do ngày nay khoa
học tự nhiên đã phát triển khá mạnh trong kỷ nguyên cách mạng khoa học
công nghệ, cho nên triết học và khoa học tự nhiên hoàn toàn không có liên hệ

gì với nhau, thậm chí triết học cũng chẳng còn gì để nghiên cứu. Họ lý giải
triết học cũng giống như giang sơn của vua Lia, một nhân vật trong vở kịch
12


của Sếch-xpia - nhà vua đã phân chia toàn bộ đất nước cho các con gái của
mình, về sau ông ta bị lũ con gái vứt ra ngoài lề của cuộc sống và trở thành
một kẻ ăn xin. Quan niệm này hoàn toàn sai lầm và phản động.
Đối lập với quan niệm nêu trên, chủ nghĩa Mác-Lênin cho rằng, mặc dù
triết học có vai trò rất quan trọng trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực
tiễn thông qua các chức năng thế giới quan, phương pháp luận của nó; thế
nhưng, triết học không thể thay thế cho các khoa học khác, đặc biệt là khoa
học tự nhiên trong quá trình nhận thức và cải tạo thế giới. Triết học Mác-Lênin
hoàn toàn phủ nhận quan niệm xem triết học là khoa học của mọi khoa học,
mà xem triết học với các khoa học khác, trong đó có khoa học tự nhiên có mối
quan hệ biện chứng với nhau. Mối quan hệ đó biểu hiện:
Sự gắn bó giữa triết học với khoa học tự nhiên là điều kiện tiên quyết cho
sự phát triển của triết học. Một trong những vấn đề có tính quy luật là: sự phát
triển của các tư tưởng triết học bao giờ cũng phụ thuộc vào sự phát triển của các
khoa học, trong đó có khoa học tự nhiên. Triết học là hệ thống lý luận chung
nhất trang bị thế giới quan, phương pháp luận; hệ thống ấy được hình thành khi
có các quan điểm, quan niệm riêng (thành tựu của khoa học tự nhiên). Cái hệ
thống chung chỉ khái quát được khi khoa học tự nhiên phát triển phù hợp với
yêu cầu thực tiễn. Mỗi khoa học cụ thể nghiên cứu quy luật của sự vật hiện
tượng trong giới tự nhiên cung cấp cho con người tri thức từng mặt về thế giới,
tổng hợp các tri thức đó là những cơ sở tư liệu để triết học rút ra những kết luận
của mình. Những kết luận ấy, đến lượt mình lại đem đến thế giới quan, phương
pháp luận đúng đắn cho sự phát triển của khoa học tự nhiên.
Mặt khác, khoa học tự nhiên không thể phát triển được nếu không có sự
chỉ đạo của một thế giới quan khoa học. Dù muốn hay không, dù tự giác hay tự

phát, thì các nhà khoa học tự nhiên cũng vẫn bị triết học chi phối. Vấn đề là ở
chỗ các nhà khoa học ấy được chi phối bởi tư tưởng lý luận của hệ thống triết
học tiến bộ hay phản động. Nếu được sự định hướng bởi một tư duy lý luận
khoa học thì khoa học tự nhiên có điều kiện phát triển, ngược lại thì nó sẽ bị
13


kìm hãm sự phát triển. Lênin viết: “Đương nhiên, khi phân tích vấn đề mối
quan hệ giữa một trường phái của các nhà vật lý học mới nhất với sự hồi phục
của chủ nghĩa duy tâm triết học, chúng ta không hề có ý đề cập đến những học
thuyết chuyên môn của vật lý học, chúng ta chỉ quan tâm đến những kết luận
nhận thức luận, rút ra từ những mệnh đề nhất định nào đó và từ những phát
minh mà người ta biết đến”.
Đề cập đến vấn đề này, Anh-xtanh, nhà vật lý học nổi tiếng của thế kỷ
XX đã nhận xét: “Các khái quát của triết học cần phải dựa trên các kết quả
khoa học. Tuy nhiên, mỗi khi đã xuất hiện và được truyền bá rộng rãi, chúng
thường ảnh hưởng đến sự phát triển của tư tưởng khoa học khi chúng chỉ ra
một trong rất nhiều phương hướng phát triển có thể có”. Trước đó, Ph. Ăngghen, nhà kinh điển vĩ đại của triết học Mác cũng cho rằng, cứ sau mỗi phát
minh đánh dấu thời đại, ngay cả là một phát minh trong lĩnh vực lịch sử tự
nhiên, thì chủ nghĩa duy vật đều không tránh khỏi phải thay đổi hình dạng của
mình. Sự đánh giá, nhận xét của các nhà khoa học lớn đã cho thấy thực chất
mối quan hệ biện chứng giữa triết học và khoa học tự nhiên.
Chính vì vậy, sự hợp tác chặt chẽ giữa triết học và khoa học tự nhiên là
điều hết sức cần thiết. Sự hợp tác này làm cho lý luận triết học không khô cứng
và lạc hậu, làm cho sự phát triển của các khoa học không mất phương hướng và
đạt được những thành quả cao nhất mà nó có thể đạt được. Đặc biệt, trong giai
đoạn hiện nay, khi mà tri thức của nhân loại ngày càng phát triển nhanh chóng,
nếu xa rời miếng đất sinh động của tri thức khoa học hiện đại, triết học sẽ không
tránh khỏi biến thành một kết cấu kinh viện, tư biện và xa rời thực tiễn.
Ngoài chức năng thế giới quan, phương pháp luận, triết học Mác-Lênin

còn giúp cho con người tự giác trong quá trình trau dồi phẩm chất chính trị,
tinh thần và năng lực tư duy sáng tạo, đáp ứng những đòi hỏi của công cuộc
đổi mới, thực hiện thành công hai nhiệm vụ chiến lược của cách mạng nước ta
trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, triết học Mác-Lênin không phải là đơn
thuốc vạn năng, chứa sẵn cách giải quyết mọi vấn đề trong cuộc sống. Bởi vậy,
14


trong nhận thức và hoạt động thực tiễn cần tránh cả hai thái cực sai lầm: hoặc
là xem thường vai trò của triết học mà tuyệt đối hoá vai trò của khoa học tự
nhiên, hoặc tuyệt đối hoá vai trò của triết học mà xem thường vai trò của khoa
học tự nhiên. Xem thường triết học, tuyệt đối hoá khoa học tự nhiên sẽ sa vào
tình trạng mò mẫm, dễ bằng lòng với những giải pháp cụ thể nhất thời, dễ mất
phương hướng, thiếu chủ động và sáng tạo. Ngược lại, nếu tuyệt đối hoá vai
trò của triết học, xem thường vai trò của khoa học tự nhiên sẽ sa vào chủ nghĩa
giáo điều, thiếu sức sống, áp dụng máy móc những nguyên lý, những quy luật
chung mà không tính đến tình hình cụ thể trong những trường hợp riêng, dẫn
đến những vấp váp, dễ thất bại.
Cũng khía cạnh trong mối quan hệ triết học và khoa học tự nhiên chúng
ta cần phân biệt các khái quát khoa học và các khái quát triết học. Trong vật lý
học sự khái quát là do các nhà vật lý tiến hành, từ đó rút ra bức tranh vật lý về
thế giới. Các bức tranh này tuỳ theo mục đích của việc khái quát, và có người
coi đó là triết học, thực ra đó là một quan điểm khoa học
Mối quan hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên được biểu hiện trong
thực tiễn
Thời cổ đại, dù nhân loại mới thoát khỏi xã hội nguyên thuỷ nhưng triết học
phát triển; thời trung cổ do tôn giáo thần quyền thống trị, kìm hãm sự phát triển của
khoa học nên triết học không phát triển; thời cận đại và hiện đại triết học phát triển
nhanh nhờ khái quát từ những thành tựu phát minh của khoa học tự nhiên, dưới sự
định hướng bởi thế giới quan, phương pháp luận của triết học, khoa học tự nhiên đã

có những bước tiến vượt bậc trong thời kỳ này. Như vậy, thời kỳ nào khoa học phát
triển thì triết học cũng phát triển theo và ngược lại.
Ở phương Đông thời cổ đại, từ kết quả quan sát sự vận hành của mặt
trăng và các vì sao, từ việc phát hiện ra tính chu kỳ của thuỷ triều và quy luật
sinh trưởng của cây cối mà người phương Đông đã phát minh ra hệ can - chi
và lịch mùa để ghi thời gian, cùng với việc phát minh ra chữ viết, phát triển
15


toán học, chế tạo công cụ bằng sắt thay cho công cụ bằng đá và đồng trước
đây, đô thị và thương mại phát triển và những thành tựu đạt được trong y
học… đã phản ánh tri thức khoa học tự nhiên thời ấy và đã trở thành công cụ
quan trọng để cư dân nông nghiệp chinh phục tự nhiên có hiệu quả. Tuy nhiên,
khoa học thời cổ đại ở phương Đông không thể thoát khỏi ảnh hưởng của
những quan niệm tôn giáo thần bí, như những tưởng tượng thần thoại về sự
vận hành của các thiên thể trong vũ trụ, quan niệm ghi mùa gắn liền với việc
cũng giỗ tổ tiên… dẫn đến hình thành tư tưởng triết học với quan niệm chung
theo xu thế là sợ trời, kính trời, vâng theo “mệnh trời”, trời - đất và người hợp
nhất… có trường phái duy vật, duy tâm lẫn lộn, thậm chí lẫn lộn ngay trong
một trường phái cùng thời, hoặc trước thì thiên về duy vật sau đó lại thiên về
duy tâm… Tư duy phổ biến là biện chứng có tính chất tự phát…
Ở phương Tây cổ đại (Hy Lạp và La Mã), chính sự xuất hiện các tri thức
khoa học sơ khai, như việc phát minh ra lịch một năm gồm 12 tháng, với 365
ngày của Talét, những phát kiến về toán học của Talét và Pitago, hình học của
Ơclít, vật lý học của ác-si-mét… đã tạo điều kiện rất lớn thúc đẩy sự hình
thành triết học. Chúng làm cho các quan niệm thần thoại truyền thống và các
tôn giáo nguyên thuỷ vào khoảng thế kỷ VII - VI tr. CN đã không còn đáp ứng
và lý giải được những vấn đề mới của thế giới quan. Những khám phá khoa
học đầu tiên của người cổ đại đã cho thấy sự giả dối của bức tranh vũ trụ quan
và nhân sinh quan của các tôn giáo và thần thoại, đòi hỏi con người phải có

cách lý giải mới về thế giới xung quanh và cuộc sống của mình.
Thời trung đại, cả ở phương Đông và phương Tây, với sự thống trị của
hệ tư tưởng phong kiến và tôn giáo, nên cả triết học và khoa học tự nhiên hầu
như dậm chân tại chỗ.
Thời cận đại, do yêu cầu phát triển của chủ nghĩa tư bản và sự phát triển
của khoa học tự nhiên, nên triết học duy vật phát triển, mở ra một thời kỳ mới
cho sự phục hưng triết học, nhất là ở Pháp. V.I. Lênin đặc biệt đánh giá công
lao của các nhà duy vật Pháp thời kỳ này đối với sự phát triển chủ nghĩa duy
16


vật trong lịch sử triết học trước Mác: “Trong suốt cả lịch sử hiện đại của châu
Âu và nhất là cuối thế kỷ XVIII, ở nước Pháp, nơi đã diễn ra một cuộc quyết
chiến chống tất cả những rác rưởi của thời trung cổ, chống chế độ phong kiến
trong các thiết chế và tư tưởng, chỉ có chủ nghĩa duy vật là triết học duy nhất
triệt để, trung thành với tất cả mọi học thuyết của khoa học tự nhiên, thù địch
với mê tín, với thói đạo đức giả…”.
Thời hiện đại, vào đầu thế kỷ XIX, hoàn cảnh kinh tế - xã hội và sự
phát triển mạnh mẽ của khoa học tự nhiên, nhất là ba phát minh có ý nghĩa
“vạch thời đại” đã dẫn đến sự ra đời của chủ nghĩa Mác, nghiên cứu thế giới
bằng phương pháp của riêng mình, khác với các lĩnh vực của khoa học tự
nhiên:
Thứ nhất, định luật bảo toàn và chuyển hoá năng lượng của May-e
người Đức, một thành tựu khoa học hiện đại được kết tinh từ toàn bộ những
thành tựu của vật lý học, của hoá học, sự phát triển của khoa học kỹ thuật. Nó
đã phá tan khuôn khổ trật hẹp của chủ nghĩa duy vật siêu hình và mở ra một
hướng phát triển mới trong triết học và khoa học. Định luật đó đã có đầy đủ,
những cơ sở lý luận, và thực nghiệm chứng minh cho tính đúng đắn của nó, đã
vạch ra một cách rõ ràng phép biện chứng khách quan của tự nhiên, nó đã chỉ
ra vận động gắn liền với vật chất, vận động không do ai sáng tạo ra và cũng

không thể bị tiêu diệt được, hình thức vận động trong vũ trụ vô cùng phong
phú và đa dạng, giữa các hình thức vận động đều có sự liên hệ, có sự chuyển
hoá lẫn nhau, thế giới là một chu trình bất tận của sự vận động chuyển hoá lẫn
nhau của các sự vật hiện tượng, các quá trình. vì vậy định ấy như đột phá đối
với quan điểm siêu hình và là một bằng chứng khoa học hùng hồn không thể
bác bỏ phép biện chứng khách quan của giới tự nhiên.
Thứ hai, Học thuyết tế bào của Slây- đen và Svan, một trong những
thành tựu lớn nhất trên lĩnh vực sinh học cũng là hòn đá thử vàng phép biện
chứng của tự nhiên. Nó đã chứng minh tất cả các cơ thể động vật và thực vật
đều được cấu tạo nên từ tế bào, các tế bào phát triển bằng hình thức nhân đôi.
17


Chính từ phát hiện này đưa tới việc thừa nhận sự thống nhất của toàn bộ thế
giới tự nhiên, từ vô cơ đến hữu cơ, sự thống nhất của toàn bộ quá trình lịch sử
của sự sống từ hình thức đơn giản nhất, đến những cơ thể có cấu trúc phức tạp
nhất. Phát hiện đó cho phép nhìn vào bản chất sự sống theo quan điểm về mối
liên hệ, về sự thống nhất các hình thức của nó và về sự phát triển của các hình
thức ấy, và về sự nhảy vọt.
Thứ ba, Đến năm 1859, với học thuyết tiến hóa của Đác uyn ông đã làm
cho thuyết tiến hoá trở thành khoa học (thuyết tiến hoá do Vôn phơ công bố
năm 1759) như vậy sau 100năm đã được hoàn thiện với thuyết tiến hoá của
Đác uyn. Thuyết tiến hoá đã vạch ra những chứng cứ không thể nào chối cãi
để luận chứng cho sự phát triển của các loài sinh vật, nó là cơ sở luận giải tính
phong phú đa dạng của giới sinh vật, nó chứng minh rằng các loài sinh vật,
động vật kể cả loài người sống trong trái đất đều là sản phẩm tiến hoá của tự
nhiên. Sự tiến hoá đó diễn ra theo con đường biến dị và di truyền do tác động
của môi trường. Từ những phát minh đó đã giáng một đòn chí mạng vào các
quan điểm siêu hình và quan điểm duy tâm về tự nhiên và xã hội.
Tóm lại, với sự phát triển lâu dài bền bỉ của khoa học, với những phát

minh khoa học, nhất là những phát minh có tính chất vạch thời đại, quan niệm
siêu hình về tự nhiên hoàn toàn mất chỗ đứng trong khoa học và quan niệm
mới về tự nhiên đã được hoàn thành trên những nét cơ bản. Như Ph.Ăng ghen
viết: “Tất cả cái gì cứng nhắc đều bị tan ra, tất cả cái gì cố định đều biến thành
mây khói, tất cả cái gì đặc biệt mà người ta cho là tồn tại vĩnh cửu thì đã trở
nên nhất thời, và người ta chứng minh rằng toàn bộ giới tự nhiên đều vận động
theo một dòng và một tuần hoàn vĩnh cửu. Như thế là chúng ta đã trở về với
quan niệm của những người sáng vĩ đại ra triết học Hy Lạp, cho rằng toàn bộ
giới tự nhiên, từ cái nhỏ nhất đến cái lớn nhất, từ hạt cát cho đến mặt trời, tự
những sinh vật nguyên thuỷ cho đến con người nằm trong tình trạng không
ngừng sinh ra và diệt vong, lưu động không ngừng vận động và biến hoá bất
tận”. Như vậy có thể khẳng định rằng, khoa học tự nhiên đến những năm 40
18


của thế kỷ XIX đã chuẩn bị xong xuôi những tiền đề cần thiết cho sự ra đời
của một triết học mới, đó là triết học duy vật biện chứng. Từ những sự phát
triển của khoa học tự nhiên, các điều kiện về lý luận, về điều kinh tế xã hội,
cùng với thiên tài và tình bạn chí nghĩa chí tình của Mác và Ph.Ăng ghen. Hai
ông đã nhận trách nhiệm lớn lao mà lịch sử giao cho, các ông đã kế thừa
những tinh hoa của nhân loại, tuy nhiên không phải kế thừa một cách máy
móc, nguyên xy mà kế thừa có sự chọn lọc đồng thời phê phán những hạn chế
của triết học nhân loại đặc biệt triết học cổ điển Đức, chủ nghiã xã hội không
tưởng ở Pháp, kinh tế chính trị học của Anh. Các ông đã khái quát những thành
tựu mới nhất của khoa học tự nhiên, giải phóng phép biện chứng khỏi chủ
nghĩa duy tâm, giải phóng chủ nghĩa duy vật khỏi phép siêu hình xây dựng
thành chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật, đồng thời vận
dụng chúng vào nghiên cứu đời sống và xã hội hình thành nên chủ nghĩa duy
vật lịch sử. Vì vậy triết học đó mang tính cách mạng, và là học thuyết phục vụ
cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng giai cấp của giai cấp công nhân và giải

phóng toàn thể nhân loại.
Cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, trước những phát minh mới của khoa
học tự nhiên đã dẫn đến cuộc khủng hoảng trong vật lý học, khiến cho một số
nhà triết học không đứng vững trên lập trường duy vật biện chứng đã trượt dài
sang chủ nghĩa duy tâm, với quan niệm “vật chất bị tiêu tan”. V.I. Lênin là
người đã khắc phục được tình trạng này và bảo vệ thành công chủ nghĩa Mác
nói chung, triết học Mác nói riêng.
Thời cận đại, nhất là từ những năm thập kỷ 80 của thế kỷ XX đến nay,
khoa học tự nhiên phát triển như vũ bão, hình thành nên các công nghệ mũi
nhọn như: công nghệ thông tin, công nghệ năng lượng mới, công nghệ vật liệu
mới… Những thành tựu nói trên của khoa học tự nhiên càng chứng minh thêm
tính đúng đắn của triết học Mác-Lênin; đồng thời, các nhà triết học Mác-xít
chân chính đã ứng dụng các thành tựu của khoa học tự nhiên vào việc bổ sung,
phát triển và bảo vệ thành công triết học Mác-Lênin, làm cho nó luôn có sức
19


sống, luôn đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn. Mặt khác, dưới ánh sáng của
chủ nghĩa duy vật biện chứng mà khoa học tự nhiên cũng không ngừng phát
triển.
Chương 2
Ý NGHĨA CỦA VẤN ĐỀ ĐỐI VỚI VIỆC NGHIÊN CỨU VÀ PHÁT
TRIỂN TRIẾT HỌC MÁC-LEENIN TRONG ĐIỀU KIỆN HIỆN NAY
2.1. Tính tất yếu phải nghiên cứu và phát triển triết học Mác-Lênin
trong tình hình hiện nay
Chủ nghĩa Mác-Lênin, trong đó có triết học - bộ phận cấu thành và là
hạt nhân lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ thống mở. Tính mở, tính
sáng tạo đối lập với tính khép kín, biệt phái, bảo thủ và tính giáo điều, xa lạ
với chủ nghĩa lạc quan không tưởng và duy ý chí.
Theo V.I. Lênin: “Chúng ta không hề coi lý luận của C. Mác như là một

cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận
đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần
phải phát triển hơn nữa về mọi mặt, nếu họ không muốn trở thành lạc hậu so với
cuộc sống… Lý luận của C. Mác chỉ đề ra những nguyên lý chỉ đạo chung, còn
việc áp dụng những nguyên lý ấy thì, xét riêng từng nơi, ở Anh không giống ở
Pháp, ở Pháp không giống ở Đức, ở Đức không giống ở Nga”.
Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng từng nhấn mạnh rằng: “Dù sao thì cũng không
thể cấm bổ sung “cơ sở lịch sử” của chủ nghĩa Mác bằng cách đưa thêm vào đó
những tư liệu mà Mác ở thời mình không thể có được. Mác đã xây dựng học
thuyết của mình trên một triết lý nhất định của lịch sử, nhưng lịch sử nào? Lịch sử
châu Âu. Mà châu Âu là gì? Đó chưa phải là toàn thể nhân loại”.
Hiểu đúng tính mở của chủ nghĩa Mác-Lênin là động lực, là cơ sở hình
thành hướng nghiên cứu di sản tinh thần của các nhà kinh điển trong quá trình
đổi mới đất nước theo xu thế vận động chung của lịch sử, có tính đến những
nét đặc thù của điều kiện Việt Nam. Tìm hiểu các vấn đề triết học: từ vấn đề
20


bản thể luận, nhận thức luận đến vấn đề nhân sinh, xã hội; từ những quan điểm
cách mạng, hiện thực, đến những dự báo khoa học; từ cách tiếp cận thế giới
quan đến cách tiếp cận các giá trị trong tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa MácLênin; được gắn chặt với hoạt động thực tiễn, khái quát những thành tựu mới
nhất của khoa học, trong đó có khoa học tự nhiên, là công việc luôn luôn bổ
ích, trước hết đối với những người mác-xít, với mong muốn bổ sung, phát triển
học thuyết đó. Tinh thần phát triển và phê phán khoa học trong việc nghiên
cứu di sản tinh thần của quá khứ, theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa MácLênin, là đòi hỏi khách quan của cuộc sống.
Có thể khẳng định rằng, trong cuộc đời hoạt động của mình, các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã để lại cho nhân loại một kho tàng lý
luận đồ sộ quý gia qua những tác phẩm nổi tiếng của các ông. Với những giá
trị khoa học và cách mạng, tư tưởng thiên tài của C. Mác, Ph. Ăng-ghen và V.I.
Lênin đã làm nên học thuyết vĩ đại, sống mãi cùng thời gian, là đỉnh cao của

tư tưởng nhân loại cho đến thời điểm này. Tính mở của học thuyết ấy là cơ sở
làm cho nó có sức sống mãnh liệt và đảm bảo cho sự trường tồn của nó.
Thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga và sự ra đời của hàng loạt
nhà nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới là cơ sở thực tiễn chứng minh hùng
hồn cho tính đúng đắn và sức sống của học thuyết Mác-Lênin về quy luật vận
động và phát triển của lịch sử, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản của nhân loại. Thế nhưng, những năm gần đây, tình hình chính
trị, kinh tế-xã hội trên thế giới có nhiều biến động lớn. Sự sụp đổ của mô hình
chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu đã làm một số người hoang mang, lo
lắng, thậm chí hoài nghi, dao động; đặc biệt các nhà tư tưởng chống chủ nghĩa
xã hội được dịp phê phán, đã kích chủ nghĩa Mác-Lênin, thực hiện “diễn biến
hoà bình” trên lĩnh vực tư tưởng - văn hoá, hòng làm lung lay nền tảng tư tưởng trong cán bộ và nhân dân ta.
Mặt khác, những việc làm không khoa học, như: sự khai thác di sản của
các bậc tiền bối theo hướng kinh điển hoá máy móc, sự cắt gọt các tư
21


tưởng cách mạng và khoa học, những biểu hiện của chủ nghĩa kinh viện mới…
đã khiến cho một học thuyết mang ý nghĩa cách mạng, không chỉ giải thích thế
giới một cách khoa học mà còn có tác dụng cải tạo thế giới, mất đi sức mạnh
của mình - đó là biểu hiện nhân danh Mác chống lại Mác một cách vô tình.
Trước tình hình đó, một vấn đề được đặt ra hết sức cấp bách và cần thiết
là chúng ta cần phải tiếp tục nghiên cứu một cách sâu sắc, nghiêm túc chủ nghĩa
Mác-Lênin, phải thật sự nắm vững lý luận và phương pháp luận của học thuyết
này để, một mặt, vận dụng đúng đắn, sáng tạo học thuyết đó trong tiến trình
cách mạng của nước ta, mặt khác, phải bảo vệ và phát triển học thuyết cách
mạng và khoa học đó lên tầm cao mới, đảm bảo cho nó luôn phù hợp với thực
tiễn, luôn phát huy được giá trị định hướng cho mọi hoạt động thực tiễn.
2.2. Một số ý nghĩa rút ra có tính chất phương pháp luận định
hướng cho việc nghiên cứu và phát triển triết học Mác-Lênin trong tình

hình hiện nay
Mỗi một học thuyết, mỗi tư tưởng ra đời, đều có điều kiện khách
quan, và nhân tố chủ quan của nó.Triết học ra đời cũng không thể nằm ngoài
những qui luật ấy, nó luôn có mối quan hệ khăng khít với những qui luật đó,
đồng thời triết học ra đời nó gắn liền với sự phát triển của khoa học tự nhiên,
mỗi bước tiến của khoa học tự nhiên đều đòi hỏi sự phát triển của triết học, sự
phát triển của triết học là cơ sở, là thế giới quan, phương pháp luận khoa học
đúng đắn để khoa học tự nhiên khẳng định tính cách mạng của mình, là cơ sở
để luận giải một cách biện chứng khách quan của sự vật. Như ở trên đã phân
tích, khi nhận thức của con người đạt đến một trình độ nhất định của vật lý,
những quan niệm về vật chất là nguyên tử bị phá vỡ, thì con người lại lúng
túng rơi vào quan điểm duy tâm tôn giáo. Thì đòi hỏi phải có triết học mới có
thể khái quát được, Lênin đã cho rằng đó là khả năng nhận thức của con người
có bước phát triển, chứ không phải là vật chất bị tiêu tan. Chính vì vậy, càng
khẳng định khoa học tự nhiên và triết học luôn có mối quan hệ khăng khít với
nhau, hỗ trợ thúc đẩy nhau cùng phát triển.
22


Để bảo vệ và phát triển triết học một vấn đề không thể thiếu được là chúng ta phải
không ngừng củng cố liên minh giữa triết học và khoa học trong giai đoạn hiện nay.
Trong giai đoạn hiện nay việc tiếp tục xây dựng và củng cố mối quan hệ
giữa triết học Mác và khoa học nói chung , khoa học tự nhiên nói riêng có một
ý nghĩa hết sức quan trọng để bảo vệ và phát triển nó. Triết học Mác- Lênin
với tính cách là vũ khí tinh thần của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh giải
phóng mình và giải phóng nhân loại, triết học Mác ngay từ khi mới ra đời đã là
thế giới quan phương pháp luận khoa học cho giai cấp vô sản, là thế đối trọng
của giai cấp tư sản. Bởi vì triết học Mác đã luận giải một cách khoa học sự diệt
vong tất yếu của chủ nghĩa tư bản và sự ra đời của chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản. Triết học mác-Lênin trở thành ngọn cờ tư tưởng, trở thành cơ

sở lý luận trực tiếp cho cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân chống giai cấp
tư sản. Cho nên ngay từ khi mới ra đời và cho đến ngày nay, triết học MácLênin luôn luôn là đối tượng chống phá của các nhà lý luận tư sản. Mục tiêu
của sự chống phá đó bác bỏ triết học Mác-Lênin trên những vấn đề cơ bản nhất
của nó, từ đó đi tới làm phá sản hoàn toàn hệ tư tưởng của giai cấp vô sản.
Ngày nay với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và công nghệ, các nhà
lý luận tư sản cho rằng đã đến lúc con người đi tới một xã hội đạt tới kỷ
nguyên duy lý khoa học, ở đó mọi vấn đề có thể tìm được lời giải đáp kỹ thuật
mà không kêu gọi đến lý luận, đến triết học, sự giải trừ hệ tư tưởng là điều tự
nhiên. Thông qua đó mà phủ nhận vai trò của triết học mà trước hết là triết học
mác xít, nó tước bỏ vũ khí tinh thần của giai cấp vô sản. Đồng thời các học giả
tư sản đang tìm mọi cách cắt xén, bôi nhọ chủ nghĩa Mác-Lênin nói chung và
triết học Mác- Lênin nói riêng, chúng cho rằng hệ thống lý luận của MácLênin chỉ là sự sáng tạo thuần tuý, thiếu các cơ sở khoa học vững chắc mà chủ
yếu mang tính tư biện và chúng cho hệ thống lý luận đó không còn phù hợp,
không theo kịp sự phát triển của những điều kiện kinh tế xã hội, ngày nay khoa
học đã vượt xa thời đại của Mác-Lênin vì vậy hệ thống lý luận của Mác- Lênin
trở nên thừa và lạc hậu, không có ý nghĩa khoa học, ví dụ như lý luận về giai
23


cấp và đấu tranh giai cấp, cách mạng xã hội, vấn đề con người…mà MácLênin đưa ra chỉ là ảo vọng. Vì sự phát triển của chủ nghĩa tư bản đã xoá bỏ
được mọi đối kháng trong xã hội, chúng cho rằng nhà nước tư bản là nhà nước
phúc lợi chung chứ không phải là cơ quan quyền lực của giai cấp tư sản, nhất
là từ sau khi chủ nghĩa xã hội ở Liên xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông
Âu sụp đổ thì chúng lại càng cho rằng những điều mà chúng đưa ra hoàn toàn
có lý.
Trước tình hình hiện nay, việc bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin
có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, làm cho nó luôn đóng vai trò là hạt nhân lý luận,
là vũ khí tinh thần của giai cấp vô sản trong sự nghiệp đấu tranh cách mạng của
mình. Ngày nay trong sự phát triển của khoa học trên tất cả các lĩnh vực kể cả
khoa học tự nhiên và khoa học xã hội đã tiến những bước dài chưa từng có thì

triết học lại chưa có sự phát triển lớn, thiếu những bước tiến đột phá. Có thể nói
rằng, sau khi Lênin mất, triết học Mác-Lênin và chủ nghĩa Mác-Lênin được xem
như một hệ thống đã xong xuôi không cần phải bổ xung và phát triển. Chính
điều đó đã làm cho hệ thống lý luận bị đóng kín không được phát triển. Do vậy
vấn đề đặt ra là triết học Mác- Lênin nói riêng và chủ nghĩa Mác nói chung cần
phải tự vươn mình để thực sự ngang tầm với sự phát triển của thời đại. Triết học
cần phải khái quát những thành tựu khoa học và làm sâu sắc thêm các nguyên
lý, các qui luật, phạm trù của triết học Mác, từ đó làm sức sống của triết học và
chủ nghĩa Mác- Lênin có sức sống trường tồn.
Để thực hiện tốt việc nghiên cứu và phát triển triết học Mác-Lênin, cần
thực hiện tốt một số vấn đề có tính phương pháp luận được rút ra thông qua
việc nghiên cứu mối liên hệ giữa triết học và khoa học tự nhiên, cụ thể là:
Những nhà lý luận Mác-xít hiện nay phải nhận thức sâu sắc mối liên hệ
biện chứng giữa triết học với khoa học tự nhiên theo quan điểm triết học MácLênin, trên cơ sở đó, kịp thời nắm bắt những thành tựu mới nhất của khoa học
tự nhiên, khái quát nó và bổ sung vào kho tàng lý luận của triết học MácLênin, đảm bảo cho nó luôn có một sức sống bền vững.
24


Để nhanh chóng nắm bắt những thành tựu mới nhất của khoa học tự
nhiên, kịp thời khái quát nó và bổ sung vào nội dung của triết học Mác-Lênin,
đòi hỏi các nhà lý luận Mác-xít còn phải tích cực học tập, tiếp thu tri thức trên
các lĩnh vực của khoa học tự nhiên, việc làm này còn có ý nghĩa tích cực trong
việc nghiên cứu các tác phẩm kinh điển của triết học Mác-Lênin, bởi lẽ, nếu
không có một trình độ nhất định về khoa học tự nhiên thì không thể hiểu được
bản chất của những nội dung được nêu trong các tác phẩm kinh điển ấy.
Các nhà lý luận Mác-xít nhất thiết phải đứng vững trên lập trường chủ
nghĩa duy vật biện chứng để lý giải đúng đắn những vấn đề nảy sinh trong
thực tiễn, đây là cơ sở để tiếp thu và khái quát những thành tựu mới nhất của
khoa học tự nhiên đạt hiệu quả cao nhất.
Kiên quyết đấu tranh, chống lại các quan điểm sai trái, lợi dụng những

thành tựu mới của khoa học tự nhiên để giải thích một cách xuyên tạc triết học
Mác-Lênin; đồng thời, trên tinh thần phủ định biện chứng, đòi hỏi các nhà lý
luận Mác-xít trong quá trình đấu tranh chống lại các quan điểm phi Mác-xít
trong triết học phương Tây hiện đại, cần tìm ra những yếu tố hợp lý để tiếp thu,
bảo vệ và phát triển triết học Mác-Lênin đáp ứng được yêu cầu đặt ra.
Bản thân tôi cũng tự nhận thấy những vấn đề nêu trên thuộc trách nhiệm
của mình, vì thế, trong quá trình nghiên cứu, học tập triết học Mác-Lênin và
trong thực tiễn công tác sau này tôi sẽ quyết tâm thực hiện tốt chức trách của
mình, góp phần cùng các nhà lý luận Mác-xít bảo vệ và phát triển thành công
triết học Mác-Lênin.
Ngày nay với sự phát triển mạnh mẽ của các ngành khoa học, đặc biệt là
khoa học tự nhiên với sự phát hiện của các hạt và phản hạt của vật lý học hiện
đại, nó càng làm cho quan niệm nguyên tử là phần tử nhỏ nhất bị phá vỡ và
ngày càng sáng tỏ hơn. Với định nghĩa vật chất của Lê nin giúp con người hiểu
rõ về vật chất, tuy nhiên cần có tư duy biện chứng để ngày càng hiểu bản chất
của sự vật.
25


×