Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

BÀI THU HOẠCH VỀ CHUYẾN THAM QUAN BẢO TÀNG HỒ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (393.69 KB, 10 trang )

BÀI THU HOẠCH MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

2013

PHỤ LỤC
TRÍCH YẾU
PHẦN 1 : TÓM TẮT TIỂU SỬ HỒ CHÍ MINH.
PHẦN 2 : CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP.
PHẦN 3 : LỊCH SỬ BẢO TÀNG HỒ CHÍ MINH.
PHẦN 4 : CẢM NGHĨ VỀ HỒ CHỦ TỊCH.

ĐỀ TÀI: CẢM NHẬN VỀ CHUYẾN THAM QUAN BẢO TÀNG HỒ CHÍ MINH

Page 1


BÀI THU HOẠCH MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

2013

TRÍCH YẾU
Mục tiêu chính của cuốn “Báo cáo chuyến đi tham quan bảo tàng Hồ Chí Minh”
chính là viết lên “Cảm nghĩ về Hồ Chủ Tịch”.Vì Bảo tàng Hồ Chí Minh lưu giữ
hơn 12 vạn tài liệu, hiện vật, phim ảnh gốc về cuộc đời và sự nghiệp cách mạng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đây là tài sản vô giá của dân tộc Việt Nam trong
việc giáo dục chủ nghĩa yêu nước, học tập tư tưởng, đạo đức trong sáng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh; bồi dưỡng các thế hệ người Việt Nam kế tục trung thành và
xuất sắc sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Người. Qua đó Tôi có thể phần nào học
hỏi kinh nghiệm cũng như rèn luyện đạo đức để trở thành một người có ích cho
xã hội.


ĐỀ TÀI: CẢM NHẬN VỀ CHUYẾN THAM QUAN BẢO TÀNG HỒ CHÍ MINH

Page 2


BÀI THU HOẠCH MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

2013

PHẦN 1 : TÓM TẮT TIỂU SỬ HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Sinh Sắc (1862-1929) còn gọi là Nguyễn Sinh Huy, người dân còn gọi
tắt là Cụ Phó Bảng là thân sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ông là con của 1 gia
đình nông dân nghèo, chất phác. Cha mẹ mất sớm, năm 4 tuổi ông phải vất vả
lao động kiếm sống và có ý chí học hành. Là một cậu bé hiền lành, thông minh,
ham học, Nguyễn Sinh Huy được nhà nho Hoàng Xuân Đường cảm cảnh nhận
làm con nuôi và cho học hành tử tế. Năm 1894, ông tham dự kì thi Hương và đỗ
cử nhân tại trường thi Nghệ An. Ông được người cha nuôi, cũng là thầy giáo, gả
con gái của mình là Hoàng Thị Loan làm vợ. Năm 1901, ông đỗ Phó bảng. Sau
khi đỗ Phó bảng, ông chỉ ra làm quan một thời gian ngắn rồi bị nhà Nguyễn
cách chức do quan điểm chống tiêu cực chốn quan trường. Sau khi bị cách chứ,
ông và Nam bộ làm thầy thuốc giúp dân nghèo, sống cuộc đời thanh bạch cho
đến lúc qua đời, được người dân mến mộ và thương tiếc. Ông mất năm 1929,
lăng mộ của ông nằm ở huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Câu nói nổi tiếng:
“Quan trường thị nô lệ trung chi nô lệ, hựu nô lệ” (nghĩa là: Quan trường là nô
lệ trong những người nô lệ, lại càng nô lệ hơn).
Hoàng Thị Loan (1868-1901) là mẹ của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Sinh ra trong
một gia đình Nho học của truyển thống của làng Hoàng Trù, Nam Đàn, Nghệ
An. Cuối năm 1883 bà thành hôn cùng Nguyễn Sinh Sắc. Năm 1884, bà sinh
con gái đầu lòng là Nguyễn Thị Thanh (1888), sau đó là con trai cả Nguyễn

ĐỀ TÀI: CẢM NHẬN VỀ CHUYẾN THAM QUAN BẢO TÀNG HỒ CHÍ MINH

Page 3


BÀI THU HOẠCH MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

2013

Sinh Khiêm và năm 1890 là Nguyễn Sinh Cung chào đời, là lãnh tụ của Việt
Nam sau này. Năm 1900, bà hạ sinh thêm một người con trai út, đặt tên là
Nguyễn Sinh Nhuận (còn gọi là Xin). Từ đó cuộc sống trở nên quá thiếu thốn,
vì vất vả, kham khổ bà bị đau ốm luôn. Ngày 10 tháng 2 năm 1901, tức ngày 22
tháng Chạp năm Canh Tý bà qua đời ở tuổi 33.

Người con gái đầu lòng của ông bà là Nguyễn Thị Thanh (1884-1954) hiệu là
Bạch Liên. Bà đã tham gia hoạt động trong phong trào Duy Tân hội của Phan
Bội Châu, nhiều lần bị thực dân Pháp bắt giam. Bà sống độc thân cho đến khi
qua đời tại quê hương năm 1954, thọ 70 tuổi.
Người con trai lớn của ông bà là Nguyễn Sinh Khiêm (1888-1950), tự Tất Đạt.
Thời thanh niên, ông tham gia các hoạt động yêu nước chống thực dân Pháp và
phong kiến nên từng bị tù đày nhiều năm. Do hành nghề thầy thuốc và thầy địa
lý, ông còn có biệt danh là “Thầy Nghệ”. Nguyễn Sinh Khiêm qua đời năm
1950, thọ 62 tuổi.
Chủ tịch Hồ Chí Minh (tên lúc nhỏ là Nguyễn Sinh Cung, tên khi đi học là
Nguyễn Tất Thành, trong nhiều năm hoạt động cách mạng lấy tên là Nguyễn Ái
Quốc), sinh ngày 19/5/1890 trong một gia đình trí thức yêu nước, nguồn gốc
nông dân ở làm Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, nơi có truyền thống
đấu tranh kiên cường chống ách thống trị nặng nề của thực dân phong kiến.
Hoàn cảnh xã hội và giáo dục gia đình đã ảnh hưởng sâu sắc đến Hồ Chủ tịch

ngay từ thời niên thiếu.

ĐỀ TÀI: CẢM NHẬN VỀ CHUYẾN THAM QUAN BẢO TÀNG HỒ CHÍ MINH

Page 4


BÀI THU HOẠCH MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

2013

Năm 1895 Nguyễn Sinh Cung cùng cha mẹ và anh trai vào Huế lần đầu tiên.
Sau khi mẹ ông mất (1901), ông được đưa về Nghệ An cho bà ngoại chăm sóc
một thời gian ngắn rồi theo cha về quê nội.
Năm 1906 Nguyễn Tất Thành theo cha và Huế lần thứ 2 và học ở trường tiểu
học Pháp-Việt Đông Ba. Sau khi học xong tiểu học, tháng 9 năm 1907, Nguyễn
Tất Thành vào học ở trường Quốc Học, Huế, nhưng bị đuổi vì tham gia phong
trào chống thuế ở Trung Kỳ.
Từ tháng 9 năm 1910 đến trước tháng 2 năm 1911, ông vào Phan Thiết dạy chữ
Hán và chữ Quốc Ngữ cho học sinh lớp nhì tại trường Dục Thanh do một số
nhân sĩ yêu nước lập ra năm 1907. Sau đó ông vào Sài Gòn.

ĐỀ TÀI: CẢM NHẬN VỀ CHUYẾN THAM QUAN BẢO TÀNG HỒ CHÍ MINH

Page 5


BÀI THU HOẠCH MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

2013


PHẦN 2 : CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP
Cậu bé Nguyễn Sinh Cung – Nguyễn Tất Thành được sinh ra và lớn lên trong hoàn
cảnh đen tối của dân tộc. Sớm có tinh thần yêu nước, từ năm 15 tuổi Người đã
tham gia công tác bí mật, làm liên lạc cho các chiến sĩ yêu nước như Phan Bội
Châu, Phan Châu Trinh nhưng không tán thành đường lối cách mạng của hai
người. Do vậy, khi trưởng thành người thanh niên Nguyễn Tất Thành quyết định
sang phương Tây để xem có gì ở đằng sau những khái niệm “tự do”, “bình đẳng”,
“bác ái” mà bọn thực dân Pháp luôn rêu rao ở thuộc địa và đặc biệt là: “Tôi muốn
đi ra nước ngoài xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm như
thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta.”
Với tinh thần yêu nước nồng nàn, với sự sáng suốt về chính trị, Hồ Chí Minh đã
bắt đầu suy nghĩ về những nguyên nhân thành bại của các phong trào yêu nước hồi
bấy giờ và quyết tâm đi tìm con đường đúng đắn để cứu dân, cứu nước. Người đã
từng nói : “vào trạc tuổi 13, lần đầu tiên tôi nghe những từ Pháp tự do – bình đẳng
– bái ái...và từ thuở ấy tôi rất muốn làm quen với nền văn minh Pháp, muốn tìm
xem những gì ẩn nấu đằng sau những từ ấy.”
I. Hoạt động Cách mạng ở nước ngoài
Với mục đích rõ ràng là ra đi để xem người khác làm rồi trở về giúp đồng bào,
mùa thu năm 1910 Nguyễn Tất Thành vào Sài Gòn, đến ngày 3/6/1911 Người mới
xin được làm phụ bếp trên tàu La Touche Tresville với tên gọi Nguyễn Văn Ba.
Ngày 5/6/1911 tàu nhổ neo mang theo hoài bão đi tìm con đường cứu nước của
người thanh niên Việt Nam vừa tròn 21 tuổi. Từ đó Nguyễn Tất Thành – Nguyễn
Ái Quốc trở thành người vô sản, làm bất cứ việc gì để sinh sống, đi hầu hết khắp
các nước châu Âu, châu Mỹ, châu Phi để tìm hiểu. Bôn ba gần 10 năm, mãi đến
khi cách mạng tháng 10 Nga thành công, được đọc bản sơ thảo “Đề cương về các
vấn đề dân tộc và thuộc địa” của Lê-nin, Nguyễn Ái Quốc mới tìm được “cái cần
thiết cho đồng bào chúng ta hoàn toàn giải phóng”. Từ chủ nghĩa yêu nước Người
đã tìm đến chủ nghĩa Mác Lê-nin. Đây là bước ngoặt quan trọng trên con đường
cách mạng cứu dân cứu nước của Bác, đã mở ra một thời kì đổi mới đưa cách

mạng Việt Nam vượt qua phong ba bão táp đi đến thắng lợi hoàn toàn.
Mùa xuân ấy, năm 1911, Người chưa mang tên Nguyễn Ái Quốc hay Hồ Chí
Minh. Khi ấy Người vẫn mang tên là Nguyễn Tất Thành, cái tên “vào làng” mà
thân phụ của Người đặt cho. Như chúng ta đều biết, ngày 2 tháng 6 năm 1911,
Nguyễn Tất Thành đã bàn với một người bạn thân về ý định ra nước ngoài của
mình. Anh nói “Tôi muốn đi ra nước ngoài, xem nước Pháp và các nước khác. Sau
khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”.
ĐỀ TÀI: CẢM NHẬN VỀ CHUYẾN THAM QUAN BẢO TÀNG HỒ CHÍ MINH

Page 6


BÀI THU HOẠCH MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

2013

Nhưng nếu đi một mình, thật ra cũng có điều mạo hiểm, ví như khi đau ốm.... Anh
muốn đi với tôi không? Khi người bạn hỏi lấy đâu ra tiền, anh Thành đã giơ hai
bàn tay lên và nói : Đây, tiền đây... Chúng ta sẽ làm việc ở tàu Amiran Latuso
Torevin đang chuẩn bị rời cảng Sài Gòn đi Mác- Xây, Pháp. Ngày 3/6/1911
Nguyễn Tất Thành nhận thẻ nhân viên trên con tàu nói trên với cái tên Nguyễn
Văn Ba. Hai ngày sau con tàu rời cảng đưa Văn Ba rời xa Tổ Quốc, đến ngày
6/7/1911 thì đến Mác-xây(Pháp) . Theo nhiều tài liệu còn lưu giữ được của mật
thám Pháp thì ngày 15-12-1911(bản sao lưu ở Bảo tàng Hồ Chí Minh) Nguyễn Tất
Thành đã đến nước Mỹ. Sau này, khi tiếp nhà văn Mỹ Anna Luy Xtorong, Hồ Chí
Minh đã kể lại rằng : Nhân dân Việt Nam trong đó có ông cụ thân sinh ra tôi, lúc
này thường tự hỏi nhau ai là người sẽ giúp mình thoát khỏi ách thống trị của
Pháp. Người này nghĩ là người Nhật, người khác nghĩ là Anh, có người lại cho là
Mỹ. Tôi thấy phải đi ra nước ngoài xem cho rõ, Sau khi xem xét học làm ăn ra
sao, tôi sẽ trở về giúp đồng bào tôi.

Nguyễn Tất Thành ra đi vì cảm nhận nỗi đau của một dân tộc bị nô lệ. Người bắt
đầu từ mưu giải phóng cho đồng bào của Người, nhưng từ tinh thần nhân văn thắm
đượm trong sâu thẳm huyết quản của mình. Nguyễn Tất Thành đã đồng cảm với
những người lao khổ, những người da đen bị phân biệt đối xử và những người phụ
nữ bị hạ nhục về tinh thần và thể xác ngay trên đất Mỹ, của hương của bức tượng
Nữ thần tự do. “Ánh sáng trên đầu thần Tự Do tỏa rộng khắp trời xanh, còn dưới
chân Tượng Thần Tự Do thì người da đen đang bị chà đạp, số phận người phụ nữ
bị chà đạp. Bao giờ người da đen được bình đẳng với người da trắng? Bao giờ có
sự bình đẳng giữa các dân tộc? Và bao giờ người phụ nữ được bình đẳng với nam
giới”.
Như vậy đó, người thanh niên 23 tuổi ấy, đón xuân trên quê hương của Nữ thần Tự
do, anh đã nhìn thấy số phận con người, cuộc đời thực của con người không bị che
khuất bởi ánh sáng hào quang tỏa sáng từ tượng Nữ thần. Sau mùa xuân ấy, anh
Thành đã qua nước Anh rồi về Pháp, lao động, học tập, chiêm nghiệm tìm
đường....
Mùa hè năm 1911, Bác đặt chân lên đất Pháp, đối với Bác, kể từ thời điểm đó mọi
việc từ sinh hoạt hằng ngày, đến công việc, nhằm mục đích tìm ra con đường cứu
nước, cứu dân đều phải sử dụng bằng tiếng Pháp. Vì thế, nếu không biết tiếng
Pháp thì đó là trở ngại lớn nhất trên con đường cứu dân cứu nước. Bác đặt ra quyết
tâm “Nhất định phải học viết cho kì được”. Vì thế, dù trong hoàn cảnh thiếu thốn
mọi thứ, nhưng Người cũng tìm ra phương pháp học cho riêng mình. Biết tiếng
Pháp rồi, Bác đã tìm sang tận đất Anh, đặt chân lên đất nước Anh, bác đã tìm ngay
cho mình một công việc để làm, công việc đầu tiên của Bác là đốt lò, cào tuyết vì
quá vất vả khiếm Bác ốm mất 2 tuần, Bác liền chuyển sang xin làm thuê tại khách
ĐỀ TÀI: CẢM NHẬN VỀ CHUYẾN THAM QUAN BẢO TÀNG HỒ CHÍ MINH

Page 7


BÀI THU HOẠCH MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH


2013

sạn Calton. Thương ngày Bác phải làm từ 8 giờ sáng tới 12 giờ, chiều từ 5 giờ tới
10 giờ đêm. Bắc “thắt lưng buộc bụng” để có chút tiền mua sách vở.
Phương tiện học duy nhất của Người cũng chỉ có vài quyển vở và một cây bút chì.
Sớm chiều Bác ra vườn hoa Haydo, nơi có nhiều cây to, cột đèn xưa để tự học.

Sau này Bác tiết lộ, sở dĩ Bác thường ra đó để học “vì ở đó thời tiết rất lạnh,
nên khi học sẽ không thể buồn ngủ được, có như thế mới tập trung vào học”. Và
theo kết quả cho biết Bác biết sành sỏi ít nhất 5 ngoại ngữ (Anh, Pháp, Nga, Trung
Quốc, Tây Ban Nha). Ngoài ra, Bác còn có thể sử dụng thông thạo khá nhiều
ngoại ngữ khác nữa như : Xiêm, Ý, Đức, Ả Rập, tiếng của nhiều dân tộc thiểu số
Việt Nam....
Nguyễn Tất Thành đã len lỏi trong quần chúng cần lao, trong giới thợ thuyền,
những người nông dân nghèo khổ, đến các nông thôn hẻo lánh ở New York, Luân
Đôn, Pari, Thái Lan, Trung Quốc....để tìm hiểu, tham gia vận động và tổ chức các
phong trào cách mạng. Song, lúc đó Người chưa có điều kiện đầy đủ để bắt gặp
chủ nghĩa Mác Lê-nin. Ở châu Âu, chủ nghĩa Mác ra đời trên 60 năm (1847-1911),
nhưng trên thế giới chauw có cuộc CMXHCN nào giành được thắng lợi. Những
nơi mà Nguyễn Tất Thành đặt chân đến tìm hiểu, nghiên cứu cũng chưa có Đảng
Cộng Sản, và trước năm 1919 Quốc tế Cộng Sản chưa ra đời. Người nghiên cứu
những cuộc cách mạng đã giành thắng lợi tại những nước tư bản phát triển nhất.
Đó là cách mạng Mỹ năm 1776, cách mạng tháng 7/1789 và phong trào giải phóng
dân tộc ở các nước thuộc địa chống chủ nghĩa thực dân. Người rất khâm phục tinh
thần cách mạng ở những nước này, nhưng không thể đi theo con đường cách mạng
của họ được vởi vì như Người đã nói : “Cách mệnh Mỹ cũng như cách mệnh Pháp
nghĩa là cách mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hòa dân chủ,
kỳ thực thì nó tước đoạt công nông, ngoài đó thì nó áp bức thuộc địa”. Năm 1917,
Người trở lại Pháp tham gia phong trào công nhân Pháp, tháng 11 năm đó, diễn ra

một sự kiện rung chuyển toàn thế giới, đánh dấu bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử xã
hội loài người. Đó là cách mạng tháng Mười Nga vĩ đại thắng lợi, mở đầu một thời
đại mới trong lịch sử loài người, thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH.
ĐỀ TÀI: CẢM NHẬN VỀ CHUYẾN THAM QUAN BẢO TÀNG HỒ CHÍ MINH

Page 8


BÀI THU HOẠCH MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

2013

Cùng năm ấy, Người thành lập Hội những người Việt Nam yêu nước để tập hợp
Việt Kiều ở Pháp. Năm 1919, Người gia nhập Đảng Xã Hội Pháp và hoạt động
trong phong trào công nhân Pháp. Đầu năm đó, Người gửi đến Hội Nghị Véc-xây
(Pháp) “Bản yêu sách của nhân dân Việt Nam”, đòi chính phủ Pháp phải thừa nhận
các quyền tự do và bình đẳng của các dân tộc Việt Nam.

Tháng 12/1920, trong Đại hội lần thứ 18 của Đảng Xã hội Pháp, Người bỏ
phiếu tán thành gia nhập Quốc tế cộng sản và tham gia thành lập Đảng Cộng
Sản và tham gia thành lập Đảng Cộng sản Pháp. Sự kiện trên đây đánh dấu
bước ngoặt trong đời hoạt động cách mạng của Người, bước ngoặt từ chủ nghĩa
yêu nước đến chủ nghĩa cộng sản. Năm 1921, Người tham gia thành lập Hội
liên hiệp các dân tộc thuộc địa và năm 1922 xuất bản báo “Người cùng khổ” ở
Pháp. Tháng 6/1923, Người từ Pháp đi Liên Xô, nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên
trên thế giới, tiếp tục nghiên cứu chủ nghĩa Mác Lê-nin và tham gia công tác
của Quốc tế cộng sản. Cùng năm đó, Người được bầu vào Đoàn Chủ tịch Quốc
tế nông dân, năm 1924, người dự Đại hội lần thứ 5 của Quốc tế cộng sản và
được cử làm Ủy viên Bộ phương Đông, phụ trách Cục Phương Nam, hướng dẫn
và xây dựng phong trào cách mạng và phong trào Cộng sản ở các nước ĐôngNam châu Á.

Cuối năm 1924, Nguyễn Ái Quốc rời Liên Xô tới Quảng Châu, lấy tên là Lý
Thụy, làm phiên dịch trong phái đoàn cố vấn của chính phủ Liên Xô bên cạnh
chính phủ Trung Hoa Dân quốc.
Năm 1925, ông thành lập tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí
Hội ở Quảng Châu (Trung Quốc) để truyền bá chủ nghĩa Marx-Lenin (thường
được phiên âm là Mác–Lê-nin) vào Việt Nam. Cuốn Đường Kách mệnh, mà
ông là tác giả, tập hợp các bài giảng tại các lớp huấn luyện chính trị của Việt
Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí Hội, được xuất bản năm 1927.

ĐỀ TÀI: CẢM NHẬN VỀ CHUYẾN THAM QUAN BẢO TÀNG HỒ CHÍ MINH

Page 9


BÀI THU HOẠCH MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

ĐỀ TÀI: CẢM NHẬN VỀ CHUYẾN THAM QUAN BẢO TÀNG HỒ CHÍ MINH

2013

Page 10



×