BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
KHOA NÔNG HỌC
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
BIẾN ĐỘNG QUẦN THỂ RỆP SÁP BỘT HỒNG (Phenacoccus
manihoti) TRÊN CÂY SẮN (Manihot esculenta) VÀ HIỆU LỰC
PHÕNG TRỪ CỦA MỘT SỐ HOẠT CHẤT TRỪ SÂU
TẠI TÂY NINH
Họ và tên sinh viên: NGÔ VĂN HẬU
Ngành: BẢO VỆ THỰC VẬT
Niên khóa: 2009 - 2013
TP. Hồ Chí Minh, tháng 08/2013
i
BIẾN ĐỘNG QUẦN THỂ RỆP SÁP BỘT HỒNG (Phenacoccus
manihoti) TRÊN CÂY SẮN (Manihot esculenta) VÀ HIỆU LỰC
PHÕNG TRỪ CỦA MỘT SỐ HOẠT CHẤT TRỪ SÂU
TẠI TÂY NINH
Tác giả:
NGÔ VĂN HẬU
Khóa luận này được đệ trình để đáp ứng yêu cầu
cấp bằng kỹ sư Bảo vệ Thực vật
Giáo viên hướng dẫn:
TS. TRẦN THANH TÙNG
TS. VÕ THÁI DÂN
TP. Hồ Chí Minh, tháng 08/2013
ii
LỜI CẢM ƠN
Con mãi khắc ghi công ơn sinh thành và dưỡng dục của cha mẹ cùng với gia
đình đã cho con có được ngày hôm nay.
Để hoàn thành được tốt đề tài này tôi xin chân thành cảm ơn:
- Ban Giám hiệu trường Đại học Nông Lâm thành phố Hồ Chí Minh.
- Quý thầy cô khoa Nông học trường Đại học Nông Lâm tp. HCM.
- Thầy Võ Thái Dân đã tận tình hướng dẫn trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
- TS. Trần Thanh Tùng cùng Ban lãnh đạo và Cán bộ Kỹ thuật tại Trung tâm
Kiểm định Thuốc Bảo vệ Thực vật phía Nam đã tận tình chỉ bảo những kiến thức cần
thiết để hoàn thành tốt đề tài.
- KS. Lê Thị Kiều Trang cùng các cán bộ kỹ thuật chi cục Bảo vệ Thực vật tỉnh
Tây Ninh đã tận tình chỉ bảo những kiến thức trong suốt quá trình thực hiện đề tài.
- Gia đình ông Ngô Minh Hoàng, chủ ruộng nơi thực hiện đề tài, đã giúp đỡ tôi
trong quá trình làm thí nghiệm tại Tây Ninh.
Cám ơn tất cả bạn bè đã luôn bên cạnh động viên và giúp đỡ tôi trong suốt thời
gian học tập và hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
TP. Hồ Chí Minh, tháng 8 năm 2013
Sinh viên thực hiện
Ngô Văn Hậu
iii
TÓM TẮT
Ngô Văn Hậu, 2013. Biến động quần thể Rệp sáp bột hồng (Phenacoccus manihoti)
trên cây sắn (Manihot esculenta) và hiệu lực phòng trừ rệp sáp bột hồng của một số
gốc thuốc trừ sâu.
Giáo viên hướng dẫn: TS. Trần Thanh Tùng và TS. Võ Thái Dân.
Đề tài gồm hai nội dung: đánh giá biến động quần thể rệp hồng trên các ruộng
sắn có và không có tưới và một thí nghiệm đánh giá hiệu lực phòng trừ rệp sáp bột
hồng của một số gốc thuốc trừ sâu. Thí nghiệm đánh giá hiệu lực phòng trừ rệp sáp bột
hồng của một số gốc thuốc trừ sâu đã được bố trí theo khối đầy đủ ngẫu nhiên
(RCBD), một yếu tố, từ tháng 3/2013 đến tháng 7/2013tại huyện Dương Minh Châu và
thị xã Tây Ninh, tỉnh Tây Ninh.
Kết quả thu được như sau: phần lớn các hộ nông dân đều trồng sắn một vụ/năm
(khoảng từ tháng 10 đến tháng 8 năm sau); sử dụng hai giống sắn phổ biến là KM 94
và KM 98-5; các giống sắn này đều do nông dân tự sản xuất. Diện tích trung bình của
mỗi hộ từ 0,8 đến 2,0 ha.Trên đồng ruộng, đa số nông dân đều nhận biết được một số
loại sâu hại như: rệp sáp bột hồng, nhện đỏ, sâu ăn lá, bọ phấn trắng và nông dân cũng
có biện pháp phòng trừ các loại sâu hại này rất tốt, riêng đối với đội tượng rệp sáp bột
hồng là một đối tượng mới xuất hiện và gây hại nặng, ảnh hưởng lớn đến năng suất
sắn; nông dân không biết các biện pháp phòng trừ cụ thể và cũng chưa có loại thuốc
nào đăng ký để phòng trừ đối tượng này tại Việt Nam. Bởi vậy khi rệp sáp bột hồng
xuất hiện và gây hại, nông dân thường sử dụng các loại thuốc trừ rệp sáp trên các cây
trồng khác để phun.
Về biến động quần thể rệp sáp bột hồng trongthời gian điều tra, rệp sáp bột hồng
xuất hiện và gây hại ở tất cả các giai đoạn sinh trưởng của cây sắn; diễn biến mật số
rệp sáp bột hồng ở hai điều kiện ruộng có tưới và không tưới là tương tự nhau. Trong
đó, mật số rệp sáp bột hồng tăng cao ở hai thời điểm giữa cuối tháng 4 và giữa tháng 5.
iv
Về hiệu lực phòng trự rệp sáp bột hồng của một số gốc thuốc trừ sâu, nhìn chung
các loại thuốc thí nghiệm đều có hiệu lực thấp trong phòng trừ rệp sáp bột hồng, ngoại
trừ nghiệm thức xử lý thuốc Movento 150OD (Spirotetramat) liều lượng 0,75 L/ha là
cho hiệu lực cao và kéo dài. Nghiệm thức xử lý thuốc Movento 150OD (Spirotetramat)
có mật số rệp sáp bột hồng giảm dần qua các thời điểm theo dõi ở cả hai thời điểm xử
lý thuốc: sau khi xử lý thuốc đợt một, mật số rệp sáp bột hồng giảm nhưng không đáng
kể; nhưng sau khi xử lý thuốc đợt hai nghiệm thức xử lý Movento 150OD
(Spirotetramat) có hiệu lực phòng trừ rệp sáp bột hồng khá và kéo dài.
Về ảnh hưởng của thuốc đến sinh trưởng của cây sắn, nhìn chung các loại thuốc
khảo nghiệm không gây ngộ độc đối với cây sắn ngoại trừ thuốc Sulfaron 250EC
(Carbosulfan 200 g/L + Cholorfluazuron 50 g/L) ở cả 2 liều lượng (0,4 L/ha và 0,5
L/ha) có ghi nhận hiện tượng lá sắn có những chấm màu vàng nhưng sau 5 ngày thì
cây phục hồi, lá chuyển sang màu xanh trở lại và không làm ảnh hưởng gì đến sinh
trưởng và phát triển của cây sắn.
v
MỤC LỤC
Trang
Trang tựa
i
Lời cảm ơn
ii
Tóm tắt
iii
Mục lục
v
Danh sách chữ viết tắt
viii
Danh sách các hình
ix
Danh sách các bảng
x
Chƣơng 1 MỞ ĐẦU
1
1.1 Đặt vấn đề
1
1.2 Mục tiêu của đề tài
2
1.3 Yêu cầu
2
1.4 Giới hạn đề tài
3
Chƣơng 2 TỔNG QUAN TÀI LIỆU
4
2.1 Giới thiệu chung về cây sắn
4
2.2 Nhu cầu sinh thái
5
2.3 Tình hình sản xuất, tiêu thụ sắn trên thế giới và Việt Nam
6
2.3.1 Tình hình sản xuất và tiêu thụ sắn trên thế giới
6
2.3.2 Tình hình sản xuất và tiêu thụ sắn tại Việt Nam
8
2.3.3 Thành phần sâu hại chính trên cây sắn
9
2.4 Quy trình kỹ thuật trồng sắn của nông dân tại Tây Ninh
9
2.5 Giới thiệu về rệp sáp bột hồng (Phenacoccus manihoti)
12
2.5.1 Tình hình thiệt hại của rệp sáp bột hồng trên sắn
12
vi
2.5.1.1 Thiệt hại do rệp sáp bột hồng gây ra trên sắn của thế giới
12
2.5.1.2 Sự xâm nhiễm của rệp sáp bột hồng ở tiểu vùng sông Mekong
13
2.5.1.3 Tình hình thiệt hại của rệp sáp bột hồng trên sắn tại Việt Nam
13
2.5.2 Đặt điểm của rệp sáp bột hồng P. manihoti
15
2.5.2.1 Điều kiện phát sinh và phát triển rệp sáp bột hồng P. manihoti
18
2.5.2.2 Thiên địch của rệp sáp bột hồng P. manihoti
18
2.6 Thông tin chung của các hoạt chất làm thí nghiệm
19
2.6.1 Hoạt chất Dinotefuran
19
2.6.2 Hoạt chất Imidacloprid
20
2.6.3 Hoạt chất Petroleum spray oil (PSO)
21
2.6.4 Nấm xanh (Metarhizium anisopliae)
21
2.6.5 Hoạt chất Carbosulfan 200 g/L + Cholorfluazuron 50 g/L
22
2.6.6 Hoạt chất Spirotetramat
23
Chƣơng 3 VẬT LIỆU VÀ PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
24
3.1 Thời gian và địa điểm nghiên cứu
24
3.2 Nội dung nghiên cứu
25
3.3 Vật liệu thí nghiệm
25
3.4 Phương pháp thí nghiệm
26
3.4.1 Khảo sát biến động quần thể của rệp sáp bột hồng (Phenacoccus manihoti)
26
3.4.2 Thí nghiệm đánh giá hiệu lực phòng trừ rệp sáp bột hồng của một số hoạt chất
thuốc trừ sâu
27
3.4.3 Thời điểm và phương pháp xử lí thuốc
28
3.4.4 Chỉ tiêu theo dõi
29
3.4.5 Xử lí số liệu
29
Chƣơng 4 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
30
vii
4.1 Biến động quần thể rệp sáp bột hồng (P. manihoti) trên sắn tại Tây Ninh trong giai
đoạn từ tháng 03 đến tháng 07 năm 2013
30
4.1.1 Hiện trạng canh tác của một số hộ nông dân ở Tây Ninh
30
4.1.2 Biến động quần thể rệp sáp bột hồng (P. manihoti) hại sắn tại các hộ điều tra từ
tháng 03 đến tháng 07 năm 2013
32
4.2 Đánh giá hiệu lực của một số gốc thuốc đối với rệp sáp bột hồng (P. manihoti) trên
sắn ở Tây Ninh
42
4.2.1 Ảnh hưởng của một số loại thuốc thí nghiệm đến mật số rệp sáp bột hồng
43
4.2.2 Hiệu lực phòng trừ rệp sáp bột hồng (P. manihoti) của các nghiệm thức xử lý
thuốc ở các thời điểm sau phun
48
4.2.3 Ảnh hưởng của thuốc đến sinh trưởng và phát triển của cây sắn
50
Chƣơng 5 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
51
5.1 Kết luận
51
5.2 Đề nghị
52
TÀI LIỆU THAM KHẢO
53
PHỤ LỤC
55
viii
DANH SÁCH CHỮ VIẾT TẮT
a.i:
Active ingredient (Hoạt chất)
BVTV:
Bảo vệ thực vật
ctv:
Cộng tác viên
g:
gam
ha:
Hectare (10.000 m2)
kg:
Kilogam
L:
lít
LD50:
Liều lượng gây chết 50% cá thể thí nghiệm
mg:
Miligam
NSP:
Ngày sau phun
NSP2:
Ngày sau phun đợt 2
NT:
Nghiệm thức
NTP:
Ngày trước phun
ppm:
Parts per million (một phần triệu; 1/1.000.000)
REP:
Replication (Lần lặp lại)
TB:
Trung bình
TGCL:
Thời gian cách ly
TT:
Trung tâm
ix
DANH SÁCH CÁC HÌNH
Trang
Hình 2.1 Vòng đời rệp sáp bột hồng (P. manihoti)
16
Hình 2.2 Sắn bị rệp sáp bột hồng tấn công và triệu chứng gây hại trên sắn
17
Hình 3.1 Rệp sáp bột hồng (Phenacoccus manihoti)
26
Hình 3.2 Sơ đồ bố trí thí nghiệm đánh giá hiệu lực phòng trừ rệp sáp bột hồng của một
số hoạt chất thuốc trừ sâu
27
Hình 3.3 Hình ảnh các loại thuốc sử dụng trong thí nghiệm
29
Hình 3.4 Điều tra mật độ rệp sáp bột hồng
29
Hình 4.1 Biến động mật độ quần thể rệp sáp bột hồng ở ruộng sắn KM94 5 tháng tuổi
của Lê Văn Thình (tưới lần/tuần)
33
Hình 4.2 Biến động mật độ quần thể rệp sáp bột hồng ở ruộng sắn KM98-5 3 tháng
tuổi của Lê Văn Ngởi (tưới lần/tuần)
34
Hình 4.3 Biến động mật độ quần thể rệp sáp bột hồng ở ruộng sắn KM98-5 6 tháng
tuổi của Lê Đình Ngọc (tưới lần/tuần)
35
Hình 4.4 Biến động mật độ quần thể rệp sáp bột hồng ở ruộng sắn KM98-5 3 tháng
tuổi của Ngô Minh Hoàng (không tưới)
36
Hình 4.5 Biến động mật độ quần thể rệp sáp bột hồng ở ruộng sắn KM94 4 tháng tuổi
của Dương Trần Quang Chấn (không tưới)
37
Hình 4.6 Biến động mật độ quần thể rệp sáp bột hồng ở ruộng sắn KM98-5 4 tháng
tuổi của Ngô Thị Hồng Nhung (không tưới)
38
Hình 4.7 Biến động mật độ quần thể rệp sáp bột hồng trung bình các ruộng sắn tại Tây
Ninh giai đoạn từ tháng 03 đến 07 năm 2013
39
Hình 4.8 Biến động mật độ quần thể rệp sáp bột hồng ở ruộng sắn có tưới và ruộng
không tưới tại Tây Ninh giai đoạn tháng 3 đến tháng 7 năm 2013
40
x
DANH SÁCH CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1 Diện tích (ha), năng suất (tấn/ha) và sản lượng sắn năm 2011 của Việt Nam
và các vùng sinh thái chính
8
Bảng 2.2 Thành phần sâu hại chính trên sắn
9
Bảng 2.3 Diện tích (ha) nhiễm rệp sáp hồng tại tỉnh Tây Ninh
14
Bảng 2.4 Kích thước rệp non các tuổi
17
Bảng 3.1 Điều kiện thời tiết ở tỉnh Tây Ninh giai đoạn thí nghiệm (tháng 03 –
07/2013)
25
Bảng 3.2 Nội dung các nghiệm thức thí nghiệm
28
Bảng 4.1 Hiện trạng canh tác của một số hộ nông dân điều tra
31
Bảng 4.2 Biến động mật độ quần thể rệp sáp bột hồng hại sắn (con/cây) tại các hộ điều
tra giai đoạn từ tháng 03 đến tháng 07 năm 2013
32
Bảng 4.3 Biến động mật độ quần thể rệp sáp bột hồng trung bình các ruộng sắn tại Tây
Ninh giai đoạn từ tháng 03 đến 07 năm 2013 theo tuổi cây
41
Bảng 4.4 Thành phần côn trùng và thiên địch xuất hiện trên ruộng
42
Bảng 4.5 Mật độ rệp sáp bột hồng (con/cây) ở các nghiệm thức thí nghiệm tại các thời
điểm quan sát
47
Bảng 4.6 Hiệu lực phòng trừ rệp sáp bột hồng của các nghiệm thức xử lý thuốc ở các
thời điểm sau phun
49
1
Chƣơng 1
MỞ ĐẦU
1.1 Đặt vấn đề
Sắn (Manihot esculenta Crantz) không chỉ là cây lương thực truyền thống mà còn
là cây công nghiệp quan trọng, có bộ phận thu hoạch chính là củ, là nguồn nguyên liệu
cho công nghiệp chế biến tinh bột. Cây sắn được phân bố rộng rãi từ 30 vĩ độ Nam đến 30
vĩ độ Bắc, trên 90 nước nhiệt đới và cận nhiệt đới thuộc Châu Mỹ, Châu Phi và Châu Á –
Thái Bình Dương.
Hiện nay sắn có nhiều công dụng khác nhau trong lương thực và trong công nghiệp
như: chế biến tinh bột, làm bột ngọt, rượu, bánh kẹo, dược liệu, chế biến thức ăn gia súc
và là mặt hàng xuất khẩu có giá trị kinh tế cao trong tương lai.
Tuy sắn dễ trồng nhưng cũng bị nhiều loại côn trùng gây hại nghiêm trọng như: Bọ
phấn (Bemisia tabaci), bọ trĩ (Thrip sp.), rệp sáp (Phenacoccus sp.), rệp sáp bột hồng
(Phenacoccus manihoti). Trong đó rệp sáp bột hồng là một đối tượng dịch hại mới và có
khả năng gây hại nghiêm trọng đến năng suất và phẩm chất của sắn. Ở Châu Phi, đến năm
1986, rệp sáp bột hồng đã xâm nhiễm cây sắn ở 25 nước chiếm 70% diện tích trồng sắn ở
châu Phi, làm giảm năng suất củ sắn tới 80 – 84% (Neuenschwander và ctv.,1990). Ở Việt
Nam, rệp sáp bột hồng là đối tượng mới xuất hiện và gây hại nghiêm trọng tại Tây Ninh.
Theo Vương Quốc Thới (2012), ở Tây Ninh đã phát hiện khoảng hơn 80 ha sắn bị rệp sáp
bột hồng gây hại, sau đó tình hình cây sắn bị loại sâu hại này tấn công nhanh hơn, gây
thiệt hại cho người trồng sắn ngày càng nhiều hơn.
Theo Trung tâm Bảo vệ thực vật phía Nam (2013), rệp sáp hồng được phát hiện ở
Việt Nam vào tháng 06 năm 2012 tại Tây Ninh, với diện tích nhiễm lúc đó khoảng 78,5
2
ha và chủ yếu tập trung ở các huyện Dương Minh Châu, Tân Châu và thị xã Tây Ninh.
Ðến tháng 6 năm 2013, diện tích nhiễm lên đến 884,1 ha, và tập trung tại các huyện Tân
Châu, Châu Thành, thị xã Tây Ninh, Dương Minh Châu, Tân Biên, và Hòa Thành. Theo
điều tra của các cơ quan chuyên môn, tính đến thời điểm tháng 7 năm 2013, rệp sáp bột
hồng đã có mặt tại các tỉnh khác như Ðồng Nai (huyện Long Thành), Bình Phuớc (huyện
Lộc Ninh) và Bà Rịa – Vũng Tàu (huyện Xuyên Mộc và Châu Ðức).
Theo Phạm Văn Lầm (2012), đến nay chưa có một công trình nghiên cứu nào về
rệp sáp bột hồng hại sắn ở Việt Nam. Trong năm 2012 và 2013, rệp sáp bột hồng gây hại
nghiêm trọng ở vùng trồng sắn tại Tây Ninh và Cục BVTV đã phải công bố dịch trên
phạm vi toàn tỉnh. Ngày 14 tháng 6 năm 2013 vừa qua, tại Hội nghị đánh giá về sâu bệnh
hại mới quan trọng do Cục BVTV tổ chức tại TT BVTV phía Nam, rệp sáp bột hồng được
liệt kê vào danh sách đối tượng dịch hại quan trọng nhất và ưu tiên tập trung nghiên cứu
phòng trừ.
Để có thể phòng trừ hiệu quả rệp sáp bột hồng thì việc nắm rõ đặc điểm sinh học,
sự biến động quần thể và các giải pháp trước mắt như việc sử dụng các loại thuốc hóa học
là quan trọng và có ý nghĩa thực tiễn. Chính vì vậy, đề tài “Biến động quần thể rệp sáp
bột hồng (Phenacoccus manihoti) trên cây sắn (Manihot esculenta) và hiệu lực phòng
trừ rệp bột hồng của một số hoạt chất trừ sâu” đã được thực hiện.
1.2 Mục tiêu của đề tài
Nắm được biến động quần thể rệp sáp bột hồng trên cây sắn ở thị xã Tây Ninh và
huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh từ tháng 03 đến tháng 07 năm 2013.
Đánh giá được hiệu lực phòng trừ rệp sáp bột hồng P. manihoti của một số hoạt
chất thuốc trừ sâu trong điều kiện ngoài đồng ruộng.
1.3 Yêu cầu
3
Đếm mật độ rệp sáp bột hồng trên các ruộng sắn có và không tưới ở các độ tuổi
khác nhau ở thị xã Tây Ninh và huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh từ tháng 03 đến
tháng 07 năm 2013.
Khảo nghiệm hiệu lực phòng trừ rệp sáp bột hồng của một số hoạt chất thuốc trừ
sâu. Từ đó chọn ra các thuốc có hiệu lực phòng trừ cao để khuyến cáo trong sản xuất
trong trường hợp rệp xuất hiện và gây hại nặng.
1.4 Giới hạn đề tài
Do giới hạn về thời gian, đề tài này chỉ được thực hiện từ tháng 03 đến tháng 07
năm 2013, tại thị xã Tây Ninh và huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh. Đây là vùng
xuất hiện rệp gây hại nặng nhất ở các tỉnh phía Nam trong thời gian gần đây.
Đề tài chỉ giới hạn khảo sát biến động quần thể của rệp sáp bột hồng và đánh giá
hiệu lực của một số hoạt chất thuốc trừ sâu đối với rệp sáp bột hồng trong điều kiện ngoài
đồng ruộng.
4
Chƣơng 2
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 Giới thiệu chung về cây sắn
Sắn (Manihot esculenta Crantz) là cây lương thực ăn củ hàng năm nhưng có thể
sinh sống nhiều năm, cây cao 2 – 3 m, có hoa, thuộc lớp hạt kín hai lá mầm, thuộc chi
Manihot, họ Euphobiaceae, bộ Euphobiaes, ngành Agiospermae.
Sắn có nguồn gốc ở vùng Châu Mỹ Latinh được trồng cách đây khoảng 5.000 năm
và trung tâm phát sinh cây sắn được giả thiết là vùng Đông Bắc của Brazil thuộc lưu vực
sông Amazon, nơi có nhiều chủng loại sắn trồng và hoang dại. Trung tâm phân hóa phụ
có thể tại Mexico ở Trung Mỹ và vùng ven biển phía Bắc của Nam Mỹ (Hoàng Kim và
Phạm Văn Biên, 1995).
Trên thế giới sắn được trồng ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới từ 300B – 300N,
nhiệt độ thích hợp từ 150 – 290C, thích hợp nhất là 230 – 270C. Sắn là cây cần ánh sáng
ngày ngắn, lượng mưa thích hợp từ 1.000 – 2.000 mm/năm.
Cây sắn được người Bồ Đào Nha đưa đến Congo (Châu Phi) khoảng thế kỷ 16. Ở
Châu Á, sắn được nhập vào Ấn Độ khoảng thế kỷ 17 và SriLanka đầu thế kỷ 18. Sắn
được nhập vào Trung Quốc, Myanmar và các nước Châu Á khác khoảng cuối thế kỷ 18,
đầu thế kỷ 19. Ở Việt Nam, sắn được nhập vào khoảng giữa thế kỷ 18 (Hoàng Kim và
Phạm Văn Biên, 1995). Hiện được canh tác phổ biến trong cả nước từ Bắc đến Nam. Diện
tích sắn tập trung nhiều nhất ở vùng núi và Trung Du phía Bắc, ven biển Nam Trung Bộ
và Đông Nam Bộ.
5
Sắn là cây trồng có nhiều công dụng trong chế biến công nghiệp, thức ăn gia súc
và lương thực thực phẩm. Sản phẩm sắn ngày càng thông dụng trong buôn bán, trao đổi
thương mại quốc tế. Đối với nhiều nước, sắn được xem như là cây dự trữ cứu đói, bổ sung
cho cây lúa trong những năm mất mùa.
Công dụng của sắn
- Sắn được sử dụng làm lương thực và rau: lá sắn tươi có nhiều protein, hydrat
cacbon, vitamin nên có thể làm rau ăn, làm bánh đa, hủ tiếu, sắn lát khô, bột sắn khô, củ
sắn khô, bột lọc sắn, làm các loại bánh. Sắn nén khô (pellet) xuất khẩu tiện lợi.
- Sắn dùng để làm thức ăn trong chăn nuôi.
- Sắn dùng trong công nghiệp thực phẩm như làm hạt trân châu nấu chè xuất khẩu,
bột bánh chế biến thủ công, chế tinh hồ, chế biến đường gluco hay dạng xiro kết tinh, cồn,
rượu, mỳ chính, làm giấy, dệt vải, làm dược phẩm (Hoàng Kim và Phạm Văn Biên,
1995).
2.2 Nhu cầu sinh thái
Sắn là cây trồng của vùng nhiệt đới ẩm. Sắn sinh trưởng và phát triển ở vĩ tuyến
300B – 300N. Nhiệt độ trung bình thích hợp cho sắn là 23 – 270C. Sắn ngừng sinh trưởng,
thân lá bị chết héo khi nhiệt độ xuống thấp hơn 100C và phát triển rất chậm khi nhiệt độ
vượt quá 400C. Dựa vào nhu cầu về nhiệt độ, sắn có thể được trồng hầu hết các vùng của
Việt Nam. Tuy nhiên, ở vùng núi cao phía Bắc nơi có mùa đông lạnh nhiều và có sương
muối, sắn kém phát triển (Hoàng Kim và Phạm Văn Biên, 1995).
Sắn rất cần ánh sáng ngày ngắn. Giảm bức xạ mặt trời thì chiều dài lóng tăng lên,
lá dưới rụng sớm, chóng tàn, thân nhỏ, phân hóa củ chậm và hình thành bột chậm, năng
suất củ bị giảm rõ rệt. Trong điều kiện 8 giờ chiếu sáng/ngày sự hình thành củ xảy ra sớm
hơn điều kiện 14 – 20 giờ nắng/ngày, tuy nhiên không ảnh hưởng tới số lượng củ sau 16
tuần lễ (Hoàng Kim và Phạm Văn Biên, 1995).
6
Sắn là cây có khả năng chịu hạn nhưng phải đủ ẩm cần thiết mới đạt năng suất cao.
Lượng mưa trung bình năm thích hợp đối với sắn trong khoảng 1.000 – 2.000 mm. Sắn
mới trồng cần đủ ẩm để phục hồi, ra rễ và mọc mầm. Mưa nhiều, hom sắn dễ bị thối.
Ngược lại, khô hạn kéo dài sắn mọc chậm, sinh trưởng kém hoặc bị chết.
Cây sắn non từ 5 – 20 lá, nhu cầu về nước tăng lên nhưng đồng thời cây cũng chịu
đựng khô hạn cao hơn. Giai đoạn phình to của củ và tích lũy bột, nhu cầu về nước giảm.
Thiếu nước ở giai đoạn cuối làm giảm năng suất sắn nhưng nếu mưa nhiều lúc thu hoạch
thì tỉ lệ bột trong củ sẽ bị giảm (Hoàng Kim và Phạm Văn Biên, 1995).
Sắn là loại cây trồng lấy củ rất dễ tính, có thể trồng trên nhiều loại đất khác nhau,
từ đất cát ven biển đến đất phù sa, đất xám, đất đồi núi, đất đỏ bazal, pH 3,5 – 7,8. Nhưng
thích hợp nhất ở đất có tưới, sa cấu đất trung bình, hàm lượng dinh dưỡng cao với pH 5,5
– 7,5, ngoại trừ đất úng nước (Hoàng Kim và Phạm Văn Biên, 1995).
Chất dinh dưỡng quan trọng nhất với sắn là kali. Sắn hút kali mạnh ngay từ đầu.
Tháng thứ hai sắn hút kali gấp 10 lần so với tháng thứ nhất, tháng thứ ba gấp 3 lần so với
tháng thứ hai, trước lúc thu hoạch lượng kali được hút gấp 2,5 lần tổng lượng đạm và lân.
Sắn cũng rất cần đạm để phát triển thân lá và cành. Tốc độ hút đạm tăng khá nhanh trong
các tháng đầu. Lân là yếu tố dinh dưỡng cần thiết cho sắn. Lân được cây hút đều trong
suốt quá trình sinh trưởng. Ca và Mg cũng quan trọng đối với sắn. Trong suốt thời gian
sinh trưởng, sắn hút một lượng Ca nhiều gấp đôi lượng lân được sử dụng. Mg được hút ít
hơn, chỉ bằng 1/3 lượng Ca (Hoàng Kim và Phạm Văn Biên, 1995).
2.3 Tình hình sản xuất, tiêu thụ sắn trên Thế giới và Việt Nam
2.3.1 Tình hình sản xuất và tiêu thụ sắn trên Thế giới
Sắn hiện được trồng trên 102 nước có khí hậu nhiệt đới và cận nhiệt đới thuộc ba
châu lục: châu Phi (40 nước), châu Mỹ (35 nước),châu Á (15 nước), và châu Đại dương
(12 nước) (FAO, 2013).Tổ chức Nông lương thế giới (FAO – Food and Agriculture
Organization) xếp sắn là cây lương thực quan trọng ở các nước đang phát triển sau lúa
7
gạo, ngô và lúa mì. Tinh bột sắn là một thành phần quan trọng trong chế độ ăn của hơn
một tỷ người trên thế giới. Đồng thời, sắn cũng là cây thức ăn gia súc quan trọng tại nhiều
nước trên thế giới và cũng là cây hàng hóa xuất khẩu có giá trị để chế biến bột ngọt, bánh
kẹo, mì ăn liền, ván ép, bao bì, màng phủ sinh học và phụ gia dược phẩm.
Trong thời gian tới, sắn là nguyên liệu chính cho công nghiệp chế biến nhiên liệu
sinh học (ethanol). Năm 2008, Trung Quốc đã sản xuất một triệu tấn ethanol, họ đã thoả
thuận với một số quốc gia lân cận để cung cấp nguyên liệu cho ngành công nghiệp sản
xuất ethanol. Tại Thái Lan, nhiều nhà máy sản xuất ethanol sử dụng sắn đã được xây
dựng năm 2008. Indonesia đã lên kế hoạch sử dụng sắn sản xuất ethanol để pha vào xăng
theo tỷ lệ bắt buộc 5% bắt đầu từ năm 2010. Các nước như Lào, Papua New Guinea, đảo
quốc Fiji, Nigeria, Colombia và Uganda cũng đang nghiên cứu thử nghiệm cho sản xuất
ethanol.
Diện tích, năng suất và sản lượng sắn trên thế giới có chiều hướng gia tăng từ năm
1995 đến nay; theo FAO (2013), diện tích sắn của thế giới các năm 1990, 1995, 2000,
2005, 2010 và 2012 lần lượt là 15.208.620; 16.448.139; 16.970.058; 18.400.508;
19.293.280 và 19.990.556 ha; sản lượng đạt tương ứng lần lượt là: 152.444.682;
162.266.343; 176.277.210; 205.647.597; 240.658.746; 256.529.314 tấn. Năm 2009 sản
lượng và giá trị xuất khẩu của sắn khô và tinh bột sắn của thế giới đạt lần lượt là
6.952.472 tấn và 1.026.070.000 USD; 1.821.938 tấn và 520.338.000 USD (FAO, 2013).
Năm 2012, mười nước có diện tích sắn lớn nhất thế giới là Nigeria (3.850.000 ha);
Cộng hòa Dân chủ Congo (2.200.000 ha); Brazil (1.703.733 ha); Thái Lan (1.250.000 ha);
Indonesia (1.119.784 ha); Angola (1.062.865 ha); Cộng hòa liên bang Tanzania (954.509
ha); Ghana (868.550 ha); Mozambique (762.598 ha) và Việt Nam (550.810,5 ha) (FAO,
2013). Năng suất sắn của Việt Nam chỉ xếp thứ 13, đạt 17,7 tấn/ha. Mười nước có năng
suất săn cao nhất thế giới là: Ấn Độ (36,5 tấn/ha); đảo Cook (26,3 tấn/ha); Cộng hòa Dân
chủ nhân dân Lào (24,1 tấn/ha); Suriname (23,3 tấn/ha); Malawi (22,4 tấn/ha); Bahamas
(22,3 tấn/ha); Cambodia (21,7 tấn/ha); Indonesia (21,4 tấn/ha); Jamaica (18,9 tấn/ha) và
8
French Polynesia (18,6 tấn/ha). Sản lượng sắn của mười nước cao nhất thế giới là: Nigeria
(54.000.000 tấn); Indonesia (23.922.075 tấn); Brazil (23.414.267 tấn); TháiLan
(22.500.000 tấn); Cộng hòa Dân chủ Congo (16.000.000 tấn); Ghana (14.547.279 tấn);
Angola (10.636.400 tấn); Mozambique (10.051.364 tấn); Việt Nam (9.745.546 tấn) và Ấn
Độ (8.076.000 tấn) (FAO, 2013).
2.3.2 Tình hình sản xuất và tiêu thụ sắn tại Việt Nam
Cây sắn là nguồn thu nhập quan trọng của các hộ nông dân nghèo do sắn dễ trồng,
ít kén đất, ít vốn đầu tư, phù hợp sinh thái và điều kiện kinh tế nông hộ (Hoàng Kim và
Phạm Văn Biên, 1995).
Sắn được canh tác phổ biến ở hầu hết các tỉnh của các vùng sinh thái nông nghiệp.
Diện tích, năng suất và sản lượng sắn Việt Nam năm 2011 được tổng hợp và trình bày
trong Bảng 2.1.
Bảng 2.1 Diện tích (ha), năng suất (tấn/ha) và sản lượng sắn năm 2011 của Việt Nam và
các vùng sinh thái chính
Vùng sinh thái
Cả nước
Diện tích (ha) Năng suất (tấn/ha) Sản lượng (tấn)
558.400
17,7
9.897.900
6.900
15,0
103.300
Trung du và miền núi phía Bắc
112.600
12,7
1.425.000
Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung
174.200
17,6
3.073.600
Tây Nguyên
158.800
16,8
2.662.100
99.500
25,7
2.552.700
6.400
12,7
81.200
Đồng bằng sông Hồng
Đông Nam Bộ
Đồng Bằng sông Cửu Long
Diện tích sắn nhiều nhất ở vùng Bắc Trung bộ và Duyên hải miền Trung (174.200
ha). Tây Nguyên là vùng sản xuất sắn lớn thứ hai của cả nước, tập trung chủ yếu ở bốn
9
tỉnh Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk và Đăk Nông. Năm 2011, diện tích sắn của Tây Nguyên
đạt 158.800 ha, tổng sản lượng 2.662.100 tấn. Ở Tây Ninh năm 2011, diện tích cây sắn
đạt 45.700 ha, tổng sản lượng đạt 1,325 triệu tấn (Tổng cục thống kê, 2011).
Sản lượng và giá trị xuất khẩu sắn khô của Việt Nam năm 2009 và 2010 đạt lần
lượt là 2.294.131 tấn và 316.556.000 USD; 1.070.891 tấn (giảm 53,3% so với năm 2009)
và 196.300.000 USD (giảm 38% so với năm 2009) (FAO, 2013).
2.3.3 Thành phần sâu hại chính trên cây sắn
Bảng 2.2 Thành phần sâu hại chính trên sắn
Sâu hại
Bộ
Họ
Bộ phận gây hại
Rệp sáp bột hồng (Phenacoccus
Hemiptera
manihoti)
Pseudococcidae
Đỉnh sinh trưởng
Bọ phấn (Bemisia tabaci)
Hemiptera
Aleyrodidae
Trên lá
Bọ trĩ (Caliothrips sp.)
Thysanoptera
Thripidae
Lá non
Sâu ăn lá (Erinnyis ello)
Lepidoptera
Sphingidae
Lá non
Nhện đỏ (Tetranychus urticae)
Arachnida
Tetranychidae
Mặt dưới lá
2.4 Quy trình kỹ thuật trồng sắn của nông dân tại Tây Ninh
Trong quá trình điều tra biến động quần thể rệp sáp bột hồng,quy trình kỹ thuật
trồng sắn của nông dân Tây Ninh đã được ghi nhận như sau:
Sau khi thu hoạch sắn, tiến hành thu gom cây lại, dọn rễ cây và tàn dư thực vật.
Chọn những cây to, khỏe, không có mầm bệnh để lại dùng làm giống cho vụ sau, các cây
còn lại đem thiêu hủy bằng cách đốt để phòng ngừa mầm bệnh.
Sau đó khoảng 3 – 5 ngày tiến hành làm đất: đầu tiên dùng máy cày, cày lật đất lại,
phơi đất trong khoảng 15 – 20 ngày, sau đó tiến hành bón vôi để sát khuẩn đất, kế đến
bón các loại phân chuồng để cải tạo và làm tăng màu mỡ cho đất.Cày trở đất lại, cày sâu
10
khoảng 20cm để làm tăng độ sâu và làm đất tơi xớp, đồng thời cũng bảo quản phân không
bị bốc hơi rửa trôi, sau đó san lấp đất cho bằng mặt và tiến hành lên luống. Lưu ý lên
luống phải vuông góc với độ dốc, không nên lên luống theo chiều dọc của đất có thế làm
đất bị rửa trôi theo nước khi tưới hoặc mưa. Trong giai đoạn làm đất nếu thời tiết có mưa
lớn làm đất không còn tơi xớp thì phải tiến hành khâu làm đất lại.
Xử lý giống: chọn những cây sắn to, khỏe và không có mầm bệnh;chặt hom dài
khoảng 10cm ở phần giữa của cây; các phần còn lại đem thiêu hủy để đảm bảo không có
mầm bệnh. Xử lý giống: dùng các dụng cụ chứa nước (thùng) để ngâm hom giống với
thuốc kích thích ra rễ Atonik 1.8DD (Sodium - S - Nitrogualacolate 0,03%, Sodium - O Nitrophenolate 0,06%, Sodium - P - Nitrophenolate 0,09%) với liều lượng pha một gói
10mL cho 8 lít nước (nhằm kích thích ra rễ, tăng khả năng nẩy mầm). Ngâm khoảng 15 –
20 phút sau đó đem ra ruộng trồng.
Phương pháp trồng: đặt hom nằm ngang trên những chân đất tương đối bằng
phẳng; ở những diện tích đất có mưa nhiều, thoát nước kém, có thể kéo luống hoặc lên líp
để trồng với các phương pháp hom đứng và hom xiên. Ngoài ra, nếu trồng vào vụ cuối
mưa, ẩm độ đất thấp thì nên trồng hom đứng.
Khoảng cách trồng: đối với đất tốt và trung bình trồng với khoảng cách 1,0 x 1,0m
(tương đương với 10.000 cây/ha), đất xấu trồng với khoảng cách 1,0 x 0,8m và 0,8 x 0,8m
(tương đương với 12.500 cây/ha và 16.000 cây/ha). Sau 10 – 15 ngày nên đi kiểm tra
ruộng nếu thấy có hom không nảy mầm hoặc nảy mầm yếu thì trồng lại.
Sau khi trồng khoảng 3 – 5 ngày tiến hành phun thuốc diệt mầm Dual Gold 960EC
(hoạt chất S-Metolachlor 960 g/L) với liều lượng 1,5 L/ha; phun trên mặt đất, có thể trộn
thêm với thuốc diệt rệp để khử rệp có thể còn ở vụ trước trong đất.
Khoảng một tháng sau khi trồng, tiến hành bón phân ure liều lượng khoảng 100
kg/ha; lưu ý bón phân lúc khô để tránh gây cháy lá sắn. Trong giai đoạn này nếu thấy trên
11
ruộng có cỏ thì tiến hành làm cỏ có thể làm thủ công nếu ít hoặc phun thuốc diệt cỏ
Cariza 5EC (Quizalofop-P-Ethyl 5%) với liều lượng 0,8 – 1,2 L/ha.
Khi sắn được 3 – 4 tháng tuổi, tiến hành bón phân, cày úp đất lại để bảo quản phân
không bị trôi rửa, bốt hơi.Có thể bón NPK 16-16-8+TE hoặc NPK 20-20-15+TE với
lượng bón khoảng 250 – 300 kg/ha, tùy theo mức độ tăng trưởng của sắn. Nông dân cũng
có thể sử dụng phân đơn. Khi sắn đạt 5 – 6 tháng trong ruộng có cỏ thì có thể phun thuốc
trừ cỏ lưu dẫn như Niphosate 480SL (Glyphosate IPA SALT 480g/L) liều lượng 2 – 3
L/ha và trong giai đoạn này thấy sắn tăng trưởng mạnh, phát triển thân lá có thể sẽ cho
năng suất, sản lượng củ kém, có trử lượng bột thấp thì có thể bón phân kali để hạn chế sự
tăng trưởng thân lá và tăng sản lượng củ, trữ lượng bột.
Trong suốt quá trình sinh trưởng đến lúc thu hoạch của cây sắn có thể phun phân
bón lá vi lượng (NQ - vi lượng) liều lượng 1,5 L/ha để tạo củ 3 lần: lần thứ nhất là lúc cây
khoảng 2 tháng, lần thứ hai lúc cây khoảng 6 tháng và lần thứ ba phun trước khi thu
hoạch khoảng 2 – 3 tuần, với liều lượng 1,5 L/ha phun ướt đều lá.
Trong quá trình trồng trên cây sắn thường xuất hiện một số sâu bệnh như: nhện đỏ
(Tetranychus sp.) thường xuất hiện vào mùa khô gây cho sắn bị cháy khô có thể dùng
Supracide 40EC (Methidathion 40%) với liều lượng 1,0 – 1,5 L/ha, ngoài ra người nông
dân còn dùng nước để tưới cũng có thể làm giảm được nhện đỏ tiết kiệm được chi phí
phun thuốc. Bọ phấn (Bemisia tabaci) cũng có xuất hiện trên ruộng nhưng mật số không
cao, bọ phấn chích hút dinh dưỡng nước làm lá cây bị vàng, cây cần cõi, kém phát triển,
để trừ bọ phấn có thể dùng bẫy dính màu vàng để thu hút con trưởng thành hoặc sử dụng
thuốc Actara 25WG (Thiamethoxam 25%) với liều lượng 30 g/ha. Ngoài ra trên sắn còn
có bệnh cháy lá có thể dùng thuốc Kasuran 47WP (Kasugamycin 2%, Copper oxychloride
45%) với liều lượng 1,5 L/ha.
Tùy theo thời gian sinh trưởng của từng giống sắn mà xác định thời gian thu hoạch
cho hợp lý, để bảo đảm năng xuất và tỉ lệ bột cao. Thu hoạch đúng thời điểm khi cây đã
12
rụng gần hết lá ngọn (còn lại khoảng 6 – 9 lá) và chuyển từ màu xanh sang vàng nhạt là
có thể thu hoạch được.
2.5 Giới thiệu về rệp sáp bột hồng (Phenacoccus manihoti)
Năm 1973, một loài rệp sáp bột ngẫu nhiên nhập nội vào nước Congo, Zaire và trở
thành sâu hại nguy hiểm trên cây sắn ở các nước này. Năm 1977, Matile-Ferrero đã mô tả
loài rệp sáp bột này là loài mới cho khoa học, đặt tên là Phenacoccus
manihoti (Neuenschwander và Muaka, 1990). Loài Phenacoccus manihoti có tên tiếng
Anh là “cassava pink mealybug”. Tên tiếng Việt của loài này đề nghị gọi là “rệp sáp bột
hồng” vì nó thuộc họ rệp sáp bột Pseudococcidae và có màu hồng.
2.5.1 Tình hình thiệt hại do rệp sáp bột hồng trên sắn
2.5.1.1 Thiệt hại do rệp sáp bột hồng gây ra trên sắn của thế giới
Phenacoccus manihoti là một trong những loài gây thiệt hại nghiêm trọng nhất của
sắn trên thế giới. Rệp sáp bột hồng sinh sản đơn tính và lây lan rất nhanh. Từ hai nước
Congo và Zaire bị xâm nhiễm đầu tiên vào năm 1973, rệp sáp bột hồng lây lan sang
Senegal-Gambia năm 1976, Nigeria-Benin năm 1979, Sierra Leone, Malawi năm 1985.
Đến năm 1986, nó đã xâm nhiễm cây sắn ở 25 nước chiếm 70% diện tích dải trồng sắn ở
châu Phi. Vào năm 1987 đã ghi nhận rệp sáp bột hồng có mặt ở Tanzania, Mozambique.
Rệp sáp bột hồng lây lan trên cây sắn ở châu Phi với tốc độ khoảng 300 km/năm. Đến
năm 1987, nó đã xâm nhiễm cây sắn ở 31/35 nước thuộc dải trồng sắn ở châu Phi
(Neuenschwander và ctv., 1990). Năm 2006, P. manihot được phát hiện đầu tiên ở Thái
Lan, sau đó lan rộng ra các vùng trồng sắn của Thái Lan và xâm nhập vào các nước láng
giềng và Indonesia.
Tại châu Phi, cây sắn là ký chủ tự nhiên duy nhất của rệp sáp bột hồng. Rệp sáp
bột hồng gây tác hại nặng nề cho cây sắn. Nó tấn công điểm sinh trưởng của cây sắn, gây
hiện tượng chùn ngọn. Ngọn chính bị rệp sáp bột hồng gây hại dẫn đến cây sắn trở nên
lùn. Bị nhiễm với mật độ cao, đôi khi gây rụng toàn bộ lá của cây sắn.Rệp sáp bột hồng
13
gây hại, làm giảm năng suất củ sắn ở châu Phi tới 80 – 84% (Neuenschwander và ctv.,
1990).
2.5.1.2 Sự xâm nhiễm của rệp sáp bột hồng ở tiểu vùng sông Mekong
Cây sắn là một trong các cây trồng chính của các nước ở tiểu vùng sông Mekong.
Cây sắn trồng ở tiểu vùng sông Mekong nhằm đáp ứng một phần lương thực cho người,
thức ăn cho gia súc và nguyên liệu cho sản xuất năng lượng sinh học. Rệp sáp bột hồng P.
manihoti đã xâm nhiễm hai nước ở tiểu vùng sông Mekong. Tại Thái Lan, lần đầu tiên rệp
sáp bột hồng được ghi nhận vào cuối năm 2006. Đến tháng 4/2008 diện tích sắn ở Thái
Lan bị nhiễm rệp sáp bột hồng là 48.000 ha và diện tích này tăng lên 166.700 ha vào
tháng 5/2010. Tại Campuchia, một số đồng sắn ở các tỉnh biên giới với Thái Lan đã ghi
nhận có sự hiện diện của rệp sáp bột hồng. Năm 2009, diện tích sắn bị nhiễm rệp sáp bột
hồng ước khoảng hơn 100 ha và năm 2010 khoảng 137 ha. Trên sắn ở Lào, Trung Quốc
chưa ghi nhận thấy rệp sáp bột hồng.
Nghiên cứu của Thái Lan cho thấy trong điều kiện nhất định, rệp sáp bột hồng có
thể chuyển sang sống trên các lộc non của cây cao su. Như vậy, tác hại kinh tế do rệp sáp
bột hồng gây ra sẽ còn lớn hơn nhiều đối với các nước ở tiểu vùng sông Mekong có trồng
cây cao su.
2.5.1.3 Tình hình thiệt hại do rệp sáp bột hồng trên sắn tại Việt Nam
Ở Việt Nam, lần đầu tiên phát hiện rệp sáp hồng vào tháng 6/2012 ở Tây Ninh
(Chi cục BVTV Tây Ninh), đây là đối tượng mới xuất hiện và đã gây hại nghiêm trọng tại
Tây Ninh. Theo Vương Quốc Thới (2012), ở Tây Ninh đã phát hiện khoảng hơn 80 ha sắn
tại tỉnh bị rệp sáp bột hồng gây hại, sau đó tình hình cây sắn bị loại sâu hại này tấn công
nhanh hơn, gây thiệt hại cho người trồng sắn ngày càng nhiều hơn.
Tại huyện Châu Thành, Trạm Bảo vệ thực vật huyện đã phát hiện 8,5 ha nhiễm rệp
sáp bột hồng trên cây sắn tại ấp 2 xã Phước Vinh. Để phòng trừ sự lây lan của rệp sáp bột
hồng, Trạm đã tiến hành điều tra, phân loại những diện tích bị nhiễm và vận động bà con
14
thu gom tiêu huỷ. Tại huyện Tân Biên, địa bàn có diện tích là hơn 8.100 ha sắn. Thời gian
qua, trên địa bàn huyện xuất hiện tình trạng cây sắn bị nhiễm rệp sáp bột hồng với diện
tích 78,1 ha ở các xã Thạnh Tây, Thạnh Bắc, Hòa Hiệp, Trà Vong, Mỏ Công, Tân Phong
và thị trấn Tân Biên. Hiện nay toàn huyện còn khoảng hơn 40 ha cây sắn bị nhiễm, trong
đó xã Thạnh Bắc còn hơn 20 ha, xã Thạnh Tây hơn 10 ha, các xã khác còn rải rác trên
một số diện tích cây sắn, cần được theo dõi, xử lý kịp thời.
Bảng 2.3 Diện tích (ha) nhiễm rệp sáp hồng tại tỉnh Tây Ninh
6/2012
6/2013
Tăng (lần)
Tổng diện tích nhiễm (ha)
78,5
884,1
11,3
Diện tích nhiễm nhẹ (ha)
57,5
386,5
6,7
8,0
132,4
16,6
13,0
250,2
19,2
-
17,0
Diện tích nhiễm trung bình (ha)
Diện tích nhiễm nặng (ha)
Diện tích nhiễm khi thu hoạch (ha)
Địa điểm xuất hiện rệp sáp bột hồng
Tân Châu, Châu
Dương Minh
Thành, Thị xã Tây
Châu,
Tân
Ninh, Dương Minh
Châu,Thị
xã
Châu, Tân Biên, và
Tây Ninh
Hòa Thành
(Chi cục BVTV tỉnh Tây Ninh, 2013)
Rệp sáp hồng cũng được ghi nhận xuất hiện ở một số tỉnh miền Đông Nam Bộ:
- Bình Phước: tháng 10/2012, tại huyện Lộc Ninh gần cửa khẩu Hoa Lư trên nguồn
hom giống mua từ Campuchia.
- Đồng Nai: tháng 01/2013, tại huyện Long Thành trên cây sắn 4 – 5 tháng tuổi.
- Bà Rịa – Vũng Tàu: ngày 14/5/2013, trên hom giống tại huyện Xuyên Mộc và
Châu Đức; nguồn giống mua từ Tây Ninh và Đồng Nai.