LỜI MỞ ĐẦU
1. Tầm quan trọng của đề tài
Năm 2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức
Thương mại thế giới (WTO), mở ra một trang mới cho nền kinh tế nước nhà. Cùng
với việc tham gia những tổ chức kinh tế khu vực và sửa đổi luật theo hướng mở cửa,
tạo điều kiện cho hội nhập và phát triển trong hơn 10 năm nay, làn sóng vốn FDI đổ
vào Việt Nam càng cao, tạo điều kiện cho nhiều đổi mới, học hỏi và phát triển trong
nước.
Tuy nhiên, một trong những bất cập nổi bật nhất từ xu hướng gia tăng doanh
nghiệp nước ngoài ở Việt Nam là vấn đề chuyển giá, gây tổn thất lớn cho nguồn thu
ngân sách Nhà nước và tác động xấu đến môi trường đầu tư nước nhà nhưng vẫn chưa
có biện pháp hiệu quả và triệt để. Trong tình hình này, tác giả thực hiện tiểu luận
“Hoạt động chuyển giá của các doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam” nhằm tìm
hiểu lý thuyết, thực trạng và đề xuất giải pháp khắc phục tình trạng chuyển giá của các
doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Người viết tập trung tìm hiểu cơ sở lý thuyết của hoạt động chuyển giá, phân
tích tình hình chuyển giá của các doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam, từ đó đề xuất
một số giải pháp, ngăn chặn, khắc phục tình trạng trên.
3. Nội dung của đề tài
Ngoài lời mở đầu và kết luận, nội dung tiểu luận gồm 3 chương chính:
Chương 1: Tổng quan về hoạt động chuyển giá
Chương 2: Thực trạng hoạt động chuyển giá ở các doanh nghiệp nước ngoài tại
Việt Nam
Chương 3: Giải pháp phòng chống hoạt động chuyển giá của các doanh nghiệp
nuuớc ngoài tại Việt Nam
1
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG CHUYỂN GIÁ
1.1 Khái niệm
Về mặt lý thuyết, chuyển giá được hiểu là việc thực hiện chính sách giá đối với
hàng hóa, dịch vụ và tài sản được chuyển dịch giữa các thành viên trong tập đoàn qua
biên giới không theo giá thị trường nhằm tối thiểu hóa số thuế của các công ty đa quốc
gia (MNC) trên toàn cầu (Andrew Lymer & Jonh Hasseldine, The Internatinal
Taxation System, Kluwer Academic Pblishers).
Bản chất của hoạt động chuyển giá là việc lựa chọn nơi ưu đãi nhất để nộp thuế
của một doanh nghiệp mà không làm trái các qui định pháp luật hiện hành. Như vậy,
chuyển giá là một hành vi do các chủ thể kinh doanh thực hiện nhằm thay đổi giá trị
trao đổi hàng hóa, dịch vụ trong quan hệ với các bên liên kết. Hành vi ấy có đối tượng
tác động chính là giá cả (Phạm Thanh Tâm, 2014).
Giao dịch như trên có thể xảy ra là do nhiều nguyên nhân. Thứ nhất, doanh
nghiệp có quyền tự do định đoạt trong kinh doanh, cụ thể là quyền quyết định giá cả
của một giao dịch. Do đó hàng hóa, dịch vụ được kê khai với giá mà chính doanh
nghiệp mong muốn. Thứ hai, vì có quan hệ gắn bó về lợi ích nhóm liên kết nên chủ
thể kinh doanh quy ước sự khác biệt về giá giao dịch để không làm thay đổi lợi ích
toàn cục. Thứ ba, trong điều kiện không thay đổi tổng lợi ích chung việc định giá lại
giúp nghĩa vụ thuế được chuyển từ nơi bị điều tiết cao sang nơi bị điều tiết thấp hơn
và ngược lại.
1.2 Nguyên nhân
Hoạt động chuyển giá giúp các doanh nghiệp đạt được nhiều lợi ích.
Chuyển giá giúp làm đẹp báo cáo tài chính của doanh nghiệp. Khi doanh
nghiệp pham sai lầm trong kinh doanh như chi phí quảng cáo quá cao, thất bại khi đưa
sản phẩm mới ra thị trường…, chuyển giá giúp các MNC chia sẻ lỗ với các thành
viên, làm giảm các khoản thuế phải nộp, giúp tình hình kinh doanh trông khả quan
hơn trước cổ đông và các bên liên quan khác.
2
Chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp chênh lệch giữa các quốc gia tạo điều
kiện cho các MNC thực hiện chuyển giá. Ví dụ, thuế suất TTNDN ở Nhật Bản 51,3%,
Campuchia: 21%, Việt Nam: 20%, Singapore: 18,4%, Qatar: 11,3% (năm 2016). Tồn
tại sự khác nhau về chính sách thuế của các quốc gia là điều không tránh khỏi do
chính sách kinh tế - xã hội của họ không thể đồng nhất, cũng như sự hiện hữu của các
quy định ưu đãi thuế là điều tất yếu. Bằng việc chuyển lợi nhuận từ nước có TTNDN
cao về nước có TTNDN thấp, giúp giảm nghĩa vụ thuế và tối đa hóa lợi nhuận.
Biến động tỷ giá và lạm phát là nguyên nhân tiếp theo thúc đẩy chuyển giá.
MNC rút vốn đầu tư ở quốc gia có kỳ vọng đồng tiền nước đó sẽ giảm giá và ngược
lại đầu tư vào nước có đồng tiền có xu hướng mạnh lên trong tương lai. Doanh nghiệp
tiến hành chuyển giá ở nước có tỷ lệ lạm phát cao để bảo toàn vốn và lợi nhuận khi
đồng tiền của nước đang đầu tư bị mất giá.
Điều kiện kinh tế chính trị của nước nhận đầu tư quyết định hoạt động chuyển
giá của các MNC. Khi nước nhận đầu tư đang có những chính sách kinh tế bất lợi,
doanh nghiệp nước ngoài chuyển giá để tránh bị tác động. Chuyển giá còn giúpgiảm
các khoản lãi dẫn đến giảm áp lực đòi tăng lương từ người lao động. Ngược lại, khi
quốc gia có chính sách ưu đãi đối với đầu tư nước ngoài, MNC tập trung toàn bộ lợi
nhuận về đây, gây hậu quả xấu cho các nước tiếp nhận đầu tư còn lại.
1.3 Các phương pháp chuyển giá
Tùy điều kiện và hoàn cảnh mà doanh nghiệp nước ngoài chọn phương thức
chuyển giá phù hợp khác nhau nhằm tối đa hóa lợi nhuận:
- Chuyển giá thông qua hình thức nâng cao giá trị tài sản vốn góp. Ngay từ
đầu, doanh nghiệp đã chủ động nâng giá đầu vào (máy móc, thiết bị, bí
quyết kỹ thuật, sáng chế phát minh…) để tạo giá trị khủng về tài sản cố
định của doanh nghiệp. Trong sản xuất và kinh doanh, giá cả máy móc thiết
bị mới khi cần bổ sung, thay thế đều được khai tăng giá, tạo nên giá trị ảo
về vốn. Mức khấu hao tăng lên, giá thành cũng cao lên, lợi nhuận thấp, hoặc
không có lợi nhuận, doanh nghiệp tránh được nghĩa vụ thuế.
3
- Nhập khẩu nguyên vật liệu từ công ty mẹ ở nước ngoài, hoặc từ doanh
nghiệp đối tác liên doanh với giá cao. Doanh nghiệp FDI thực hiện chuyển
giá thông qua việc định giá cao khi nhập khẩu máy móc, thiết bị, nguyên
vật liệu… và giá bán thấp khi xuất khẩu sản phẩm.
- Chuyển giá thông qua hình thức tài trợ bằng nghiệp vụ vay từ công ty mẹ.
Sử dụng chi phí trả lãi tiền vay cũng là một cách làm khác mà các doanh
nghiệp FDI sử dụng. Công ty mẹ đưa nguyên vật liệu, vật tư linh kiện đầu
vào và cho trả chậm có lãi để sau khi bán sẽ trả. Khi doanh nghiệp bán hàng
ra có lãi đều tính vào chi phí trả lãi tiền vay, dẫn tới hết lãi. Phần lãi thực,
thông qua trả lãi, đã chuyển hết ra ngoài cho công ty mẹ.
- Chuyển giá bằng cách nâng khống giá trị tài sản vô hình như: công nghệ,
thương hiệu…
- Chuyển giá thông qua hình thức nâng chi phí các đơn vị hành chính và quản
lý.
- Chuyển giá thông qua việc điều tiết giá mua, bán hàng hóa.
- Chuyển giá thông qua các trung tâm tái tạo hóa đơn.
4
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHUYỂN GIÁ Ở CÁC DOANH
NGHIỆP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
2.1 Thực trạng chung hoạt động chuyển giá của các doanh nghiệp nước ngoài tại
Việt Nam
Theo số liệu của Cục Tài chính doanh nghiệp - Bộ Tài chính, giai đoạn
2012-2016, số lượng doanh nghiệp FDI báo lỗ hằng năm tăng từ 44%-51%. Theo báo
cáo gần đây nhất năm vào đầu năm 2018 của VCCI, có đến 37,9% doanh nghiệp FDI
báo cáo lỗ trong năm 2017 (Ngân Giang, 2018). Tỷ lệ này đã giảm rất nhiều so với tỷ
lệ bình quân 50% doanh nghiệp báo lỗ vài năm trước đây. Tuy nhiên, tình trạng
chuyển giá của các doanh nghiệp FDI vẫn là vấn đề khiến các cơ quan thuế phải đau
đầu.
Hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam phổ biến nhất với ba nhóm: sản xuất
hàng hóa tiêu thụ nội địa, làm hàng xuất khẩu và gia công hàng hóa xuất khẩu thì
trong 3 lĩnh vực này, hầu hết các nhà đầu tư nước ngoài đều có một điểm chung là
dùng thủ thuật chuyển giá. Những ngành đầu tư có tỷ lệ DN chuyển giá nhiều nhất
gồm: 90% DN kinh doanh lĩnh vực tài chính và bảo hiểm, 70% DN sản xuất dệt may,
51% DN sản xuất linh kiện ô tô…Với nhóm DN FDI sản xuất hàng hóa tiêu thụ nội
địa, hàng hóa tiêu thụ trong nước rất khó tùy tiện tăng giá so với mặt bằng chung nên
họ phải tìm mọi cách để nâng chi phí đầu vào sản xuất. Lỗ hổng để nâng giá dễ nhất là
điều chỉnh con số ở thiết bị vật tư, nguyên liệu, định mức tiêu hao vật tư trên một đơn
vi sản phẩm, chi phí phân bổ từ công ty mẹ ở nước ngoài. Theo đó, chi phí tăng sẽ kéo
giảm lợi nhuận, DN giảm hoặc không có lãi, thậm chí lỗ sẽ giảm và trốn được trách
nhiệm nộp thuế thu nhập DN. Cũng dùng thủ thuật nâng chi phí đầu vào, nhóm DN
FDI làm hàng xuất khẩu thì dùng thêm “kỹ thuật” ép giá bán sản phẩm xuống tối
thiểu. Ví dụ, chi phí làm ra một đôi giày xuất khẩu là 10 USD, thị trường châu Âu
chấp nhận mua vào với giá 12 USD, lợi nhuận tạm tính mỗi đôi giày 2 USD là phần
thu nhập chịu thuế. Thế nhưng, DN lại “biến hóa” để giá xuất khẩu thấp hơn để giảm
thuế. Liên quan đến thuế xuất nhập khẩu, DN FDI đã trốn thuế bằng cách hàng sản
xuất tại Việt Nam xuất khẩu lòng vòng qua một nước trung gian có thuế suất thấp,
5
thông qua một nhà thương mại để đưa hàng vào châu Âu…Với nhóm gia công hàng
hóa xuất khẩu, DN FDI vận dụng cả hai hình thức nâng chi phí đầu vào và ép giá đầu
ra. Vì nguyên liệu do công ty FDI nhập khẩu vào trong nước có thể được nâng giá,
trong khi công ty mẹ ở nước ngoài lại bao tiêu đầu ra nhiều khi với mức ghi trong hợp
đồng gia công rất vô lý. Chẳng hạn, khi chi phí gia công một chiếc áo của DN FDI tại
Việt Nam là 2 USD, công ty mẹ chỉ ký hợp đồng bao giá gia công 1,5 USD/chiếc, lập
tức DN phát sinh lỗ (Lê Văn Sua, 2015).
Mặc dù lỗ, thậm chí lỗ lũy kế đến mức âm vốn nhưng các doanh nghiệp vẫn
tiếp tục mở rộng quy mô kinh doanh thay vì đã phải phá sản hay đóng cửa sản xuất.
2.2 Một số trường hợp chuyển giá tiêu biểu
2.2.1 Coca-Cola Việt Nam và Pepsi Việt Nam
Với Coca Cola, theo Cục thuế TP.HCM, từ khi bắt đầu hoạt động ở Việt Nam
năm 1992, công ty liên tục báo lỗ cho đến cuối năm 2012. Việc thua lỗ của Coca-Cola
Việt Nam không phải do tăng trưởng doanh số yếu, thực tế sản lượng của công ty vẫn
tăng trưởng trên 25% mỗi năm. Đến thời điểm tháng 12/2012, tổng số lỗ lũy kế của
Coca-Cola Việt Nam lên đến 3.768 tỉ đồng, vượt quá số vốn đầu tư ban đầu 2.950 tỉ
đồng. Như vậy, về mặt kỹ thuật, lẽ ra Coca-Cola Việt Nam đã phải phá sản. Tuy
nhiên, thay vì đóng cửa hay thu hẹp quy mô hoạt động, năm 2014 Coca Cola tiếp tục
đầu tư thêm 210 triệu USD để mở rộng kinh doanh ở Việt Nam. Điều này đặt ra cho
các cơ quan thuế Việt Nam về nghi án chuyển giá của công ty này. Cách để Coca Cola
dù liên tục mở rộng mạng lưới kinh doanh, bán hàng tốt, nhưng vẫn lỗ nằm ở chi phí
nguyên phụ liệu, trong đó chủ yếu là hương liệu được nhập trực tiếp từ công ty mẹ với
giá rất cao. Tuy nhiên, bằng chứng để chứng minh Coca-Cola Việt Nam chuyển giá là
rất yếu. Sau nhiều nỗ lực đấu tranh từ phía Việt Nam, đến năm 2013 Coca Cola Việt
Nam đã bắt đầu báo lãi và nộp thuế thu nhập doanh nghiệp cho Chính phủ Việt Nam.
Trường hợp Pepsi Việt Nam cũng tương tự như Coca Cola. Vào Việt Nam sớm
hơn Coca Cola (năm 1991), nhưng trong suốt gần 20 năm hoạt động, Pepsi Việt Nam
cũng liên tục kê khai lỗ để không phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp. Tuy nhiên, do
mức tăng trưởng tiềm năng quá lớn của thị trường nước giải khát Việt Nam, Pepsi
6
Việt Nam vẫn tiếp tục đầu tư thêm nhiều nhà máy mới ở các tỉnh thành khác trong cả
nước để mở rộng thị phần. Việc tìm các bằng chứng chứng minh Pepsi Việt Nam
chuyển giá cũng rất khó khăn.
2.2.2 Adidas
Một trong những trường hợp điển hình trong lĩnh vực phân phối có thể kể đến
là Adidas. Adidas AG là một công ty đa quốc gia được thành lập vào năm 1948 tại
Đức, hoạt động trong lĩnh vực thiết kế và sản xuất dụng cụ thể thao. Các sản phẩm của
Adidas đã đến Việt Nam rất sớm từ năm 1993 và đến năm 2009 thì một công ty con
của Adidas mới được thành lập ở Việt Nam. Từ cuối năm 2012, báo chí Việt Nam đã
đăng một số bài báo nghi vấn về việc Adidas Việt Nam chuyển giá. Nhiều lập luận
cho rằng Adidas Việt Nam đăng ký hoạt động kinh doanh tại Việt Nam trong vai trò là
nhà phân phối bán buôn nhưng thực tế lại phát sinh chi phí của nhà bán lẻ, và đặt nghi
vấn đây chính là cách mà Adidas dùng để chuyển giá theo phương thức liên kết giữa
công ty mẹ và các công ty con thuộc tập đoàn Adidas nhằm tránh thuế thu nhập tại
Việt Nam.
Cụ thể, theo lãnh đạo của Cục thuế TP.HCM, Adidas Việt Nam hoạt động theo
giấy phép đăng ký kinh doanh là quyền phân phối bán buôn, nhưng danh mục chi phí
của doanh nghiệp này lại xuất hiện nhiều chi phí của một doanh nghiệp bán lẻ, như chi
phí hỗ trợ vật dụng cho nhà bán lẻ, tiền tiếp thị quốc tế, phí quản lý vùng, tiền hoa
hồng mua hàng và đặc biệt, Adidas Việt Nam không phải là nhà sản xuất, nhưng phát
sinh khoản tiền bản quyền. Thực tế, Adidas Việt Nam thanh toán cho Công ty Adidas
AG phí bản quyền 6%, chi phí tiếp thị quốc tế 4% doanh thu ròng đối với các sản
phẩm được tiêu thụ và cả giá trị sản phẩm được cấp phép. Ngoài ra, Adidas Việt Nam
cũng phải trả chi phí hoa hồng mua hàng cho Addias International Trading B.V, với tỷ
lệ 8,25% giá trị mỗi giao dịch. Bên cạnh đó, theo hợp đồng dịch vụ Đông Nam Á giữa
Adidas Singapore và Adidas Việt Nam, Adidas Singapore và các công ty con địa
phương, trong đó có Adidas Việt Nam cung cấp một dịch vụ và thỏa thuận việc thu
các khoản phí liên quan. Chính ví phát sinh quá nhiều chi phí trung gian đầu vào đã
khiến cho giá thành nhập khẩu các sản phẩm Adidas tại thị trường Việt Nam bị nâng
7
cao một cách vô lý, dẫn đến Adidas Việt Nam luôn rơi vào tình trạng thua lỗ và không
phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp.
2.2.3 Metro Việt Nam
Metro Việt Nam bắt đầu thành lập ở Việt Nam từ đầu năm 2002 với số vốn ban
đầu là 120 triệu USD, vốn pháp định là 36 triệu USD. Sau khoảng 12 năm hoạt động,
2002-2013, Metro Việt Nam đã 6 lần thay đổi giấy phép kinh doanh, nâng tổng vốn
đầu tư tại Metro Việt Nam lên hơn 301 triệu USD vào tháng 5/2013. Trong giai đoạn
này, Metro Việt Nam liên tục kê khai lỗ với số lỗ lũy kế lên đến 1.657 tỉ USD và chỉ
duy nhất năm 2010 là có lãi 173 tỉ đồng.
Mặc dù lỗ nhưng Metro Việt Nam vẫn tiếp tục mở thêm 19 điểm bán lẻ trên
toàn quốc. Từ kết quả này, cơ quan thanh tra thuế đã vào cuộc và xác định có hành vi
chuyển giá, qua đó yêu cầu Metro Việt Nam điều chỉnh giảm lỗ, giảm khấu trừ và truy
thu thuế với số tiền lên đến hơn 500 tỉ đồng, đồng thời xác định Metro Việt Nam đã có
lãi trong 2 năm 2010 và 2011 với số tiền 234,8 tỉ đồng. Trong số này, khoản điều
chỉnh giảm lỗ lớn nhất liên quan đến phí nhượng quyền thương mại, các khoản chi phí
không liên quan đến hoạt động kinh doanh của Metro Việt Nam, chi phí dự phòng
giảm giá hàng tồn kho, chi phí trích lập dự phòng nợ phải thu khó đòi,… với số tiền
lên đến 335 tỉ đồng. Khoản điều chỉnh thuế nhà thầu đối với các khoản chi phí bồi
hoàn tiền lương trả cho Metro Cash & Carry Đức để trả cho các nhân viên nước ngoài
làm việc tại Metro Việt Nam khoảng 62 tỉ đồng; điều chỉnh giảm thuế GTGT đầu vào
đối với khoản tiền thu hỗ trợ quảng cáo, tiếp thị, khuyến mại từ các nhà cung cấp lên
đến 110 tỉ đồng. Do những khoản chi phí quá lớn và bất hợp lý được hạch toán vào chi
phí của Metro Việt Nam, trong đó đáng kể nhất là chi phí nhượng quyền thương mại,
đã khiến cho công ty này liên tục báo lỗ trong hàng chục năm.
Theo số liệu của Tổng cục Thuế, trong giai đoạn 2002 - 2013, chi phí nhượng
quyền thương mại mà Metro Việt Nam phải trả cho công ty mẹ ở Đức đã lên tới 731 tỉ
đồng. Bên cạnh đó, chi phí lương, thưởng và phụ cấp cho ban giám đốc và chuyên gia
nước ngoài trả cho các cá nhân thông qua Metro Cash & Cary GmbH (MCC) tại Đức
8
cũng là một con số rất lớn, lên tới 699 tỉ đồng. Theo Tổng cục Thuế, đây là những
giao dịch liên kết mánh lới để Metro Việt Nam chuyển giá.
2.3 Môi trường kinh doanh ở Việt Nam tạo điều kiện cho doanh nghiệp nước
ngoài thực hiện chuyển giá
2.3.1 Chế tài xử lý còn nhẹ
Đánh giá về sự phức tạp của hoạt động chuyển giá, TS. Hồ Đức Phước, Ủy
viên Trung ương Đảng, Tổng Kiểm toán nhà nước cho rằng, mặc dù thời gian qua,
Việt Nam đã nỗ lực xây dựng và ban hành nhiều chủ trương và chính sách nhằm thiết
lập và dần hoàn thiện khung pháp lý nhằm chống chuyển giá, tuy nhiên, hành lang
pháp lý về chống chuyển giá ở Việt Nam hiện nay vẫn thiếu đồng bộ, chưa bịt kín lỗ
hổng, hiệu lực thấp. Việc thực hành pháp luật trong việc chuyển giá chưa hiệu quả,
hiệu lực chưa cao. Hoạt động chuyển giá đang có diễn biến phức tạp, tinh vi và không
ngừng gia tăng không chỉ ở các doanh nghiệp FDI mà ngay cả ở các doanh nghiệp
trong nước đã đặt ra những thách thức không nhỏ đối với công tác quản lý nhà nước
về hoạt động chuyển giá, TS. Hồ Đức Phớc cho hay.
Còn các chuyên gia nhận định, một trong những nguyên nhân dẫn đến hành vi
chuyển giá là có sự chênh lệch thuế do áp dụng thuế suất ưu đãi và các ưu đãi khác
như miễn, giảm thuế là tiền đề để các doanh nghiệp thực hiện hành vi chuyển giá.
PGS., TS. Nguyễn Đình Hòa, quyền giám đốc Trường Đào tạo và Bồi dưỡng
nghiệp vụ kiểm toán cho rằng, khó xác định quan hệ liên kết để từ đó áp dụng các quy
trình, thủ tục kiểm tra đánh giá về mức phù hợp của giá giao dịch. Tình trạng thanh
toán dùng tiền mặt còn phổ biến ở nước ta là mảnh đất màu mỡ, thuận lợi để các tổ
chức có mưu đồ trốn thuế có thể che giấu, không khai báo đầy đủ các giao dịch mà
các cơ quan chức năng khó lòng kiểm soát được.
Thiếu sự phối hợp đồng bộ giữa cơ quan thuế và các cơ quan chức năng trong
công cuộc chống chuyển giá, tạo kẽ hở để các đối tượng lợi dụng. Trình độ của các
kiểm toán viên nhà nước còn hạn chế về ngoại ngữ, tin học, về các chuẩn mực kế
9
toán, kiểm toán quốc tế và hiểu biết chung về khung pháp lý liên quan đến các lĩnh
vực kinh doanh và luật pháp quốc tế, PGS.TS. Nguyễn Đình Hòa nêu rõ.
TS. Đỗ Thiên Anh Tuấn, Đại học Fulbright Việt Nam khẳng định, thiết chế
pháp lý của Việt Nam còn yếu kém gây khó khăn cho công tác chống chuyển giá.
Ngoài các lỗ hổng của quy định pháp luật thì năng lực xử lý, chế tài đối với các hành
vi vi phạm pháp luật thuế còn nhẹ, chưa đủ sức ngăn ngừa và răn đe. Nhiều doanh
nghiệp nợ thuế kéo dài nhưng cơ quan chức năng không xử lý hình sự được. Các vụ
kiện về thuế thường đi vào bế tắc, tốn kém nhưng không mang lại kết quả tích cực.
2.3.2 Rào cản vô hình
Thực tế trong điều kiện kinh tế còn khó khăn, các tập đoàn đa quốc gia hoạt
động ở Việt Nam giành được sự quan tâm và ưu ái rất nhiều của Chính phủ, các bộ ngành và địa phương nên việc thanh tra, kiểm tra đối với hoạt động của các DN này ít
nhiều cũng bị trở ngại bởi các rào cản vô hình đó. Chỉ khi có những bằng chứng khá
rõ ràng, có cơ sở và vấn đề đủ nghiêm trọng thì cơ quan thuế mới có thể tiến hành
thanh tra, kiểm tra, song tất cả đều phải lên kế hoạch cẩn trọng, cụ thể và phải báo
trước.
2.4 Hậu quả từ hoạt động chuyển giá của các doanh nghiệp nước ngoài tại Việt
Nam
Thứ nhất, hoạt động chuyển giá gây thất thu lớn cho ngân sách Nhà nước. Theo
Tổng cục Thuế (Bộ Tài chính), trong năm 2010, đã thanh kiểm tra thuế tại các sản
xuất, lắp ráp ô tô và các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh chè tại Lâm Đồng... truy
thu hơn 133 tỷ đồng, giảm lỗ hơn 1.400 tỷ đồng. Trong cuộc thanh tra doanh nghiệp
FDI lỗ trong các năm từ 2005-2009, kết quả giảm lỗ hơn 4.000 tỷ đồng và truy thu
thuế hơn 212 tỷ đồng. Trong đó, phát hiện 43 doanh nghiệp FDI có quan hệ giao dịch
liên kết có dấu hiệu chuyển giá, xử phạt 37 doanh nghiệp, giảm lỗ 887 tỷ đồng, truy
thu thuế và phạt 27 tỷ đồng. Trong năm 2011, theo kế hoạch của Tổng cục Thuế, có
1.267 doanh nghiệp có vốn FDI thuộc diện phải kiểm tra việc chuyển giá, trốn thuế.
Tính đến tháng 9-2011, toàn ngành đã thực hiện thanh tra 585 doanh nghiệp, trong đó
có 76 doanh nghiệp có dấu hiệu chuyển giá. Ngành Thuế đã có kết luận thanh tra và
10
quyết định xử lý 494 doanh nghiệp lỗ. Kết quả, đã giảm lỗ 3.754 tỷ đồng, truy thu
thuế hơn 978 tỷ đồng, giảm khấu trừ 86,9 tỷ đồng, xử phạt 272 tỷ đồng.
Thứ hai, chuyển giá dẫn đến môi trường cạnh tranh không lành mạnh, tạo sức
ép bất bình đẳng, gây tổn hại cho các DN chấp hành tốt nghĩa vụ thuế. Chuyển giá còn
làm suy giảm hiệu lực quản lý nhà nước trong việc thực hiện các chủ trương kêu gọi
đầu tư để phát triển kinh tế. Ngoài ra, hoạt động chuyển giá còn là một trong những
nguyên nhân dẫn đến tình trạng nhập siêu của quốc gia do nhập khẩu máy móc thiết
bị, nguyên liệu, vật tư với giá cao, nhưng sản phẩm xuất khẩu với giá thấp (số lượng
ngoại tệ dùng để nhập khẩu nguyên liệu vật tư luôn lớn hơn số ngoại tệ thu về khi xuất
khẩu bán sản phẩm, vì giá bán thấp hơn giá vốn).
Thứ ba, các doanh nghiệp nước ngoài (có hiện tượng chuyển giá) thường kê
khai tỷ lệ giữa tổng tiền lương, tiền công trả cho người lao động Việt Nam, trên doanh
thu khai thuế của họ, đạt tỷ lệ khá cao so với các DN sản xuất trong nước. Trong khi
đó, trên thực tế, số tiền lương thực tế mà người lao động nhận được từ các công ty
FDI lại thấp hơn nhiều so với các DN trong nước (do các công ty FDI đã tối thiểu hóa
doanh thu và tối thiểu hóa thu nhập phát sinh tại Việt Nam). Ðây cũng là một trong
những nguyên nhân xảy ra các cuộc đình công của công nhân Việt Nam tại các công
ty vốn đầu tư nước ngoài, gây ảnh hưởng đến trật tự xã hội.
11
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÒNG CHỐNG HOẠT ĐỘNG CHUYỂN GIÁ CỦA
CÁC DOANH NGHIỆP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM
3.1 Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về chống chuyển giá
Nhà nước cần củng cố lại cơ sở pháp lý về quản lý hoạt động chuyển giá bằng
việc ban hành và hướng dẫn đầy đủ các phương pháp xác định giá chuyển giao phù
hợp với trình độ phát triển kinh doanh trong nước và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Bên cạnh đó, các quy định, chế tài và hình thức xử phạt cũng như quy định các
“ngưỡng an toàn” cho hoạt động chuyển giá cần lập ra, tạo thuận lợi cho DN khi áp
dụng, nhưng cũng xử lý nghiêm khắc khi có vi phạm. Nhà nước cần hạn chế tối đa các
chính sách xã hội trong ưu đãi thuế; chuyển giao quyền điều tra cho cơ quan thuế từ
cấp Tổng cục và lâu dài đến cơ quan thuế cấp tỉnh, thành phố; hoàn thiện hệ thống
thông tin, dữ liệu về người, DN nộp thuế để từ đó theo dõi những thay đổi về doanh
thu, lợi nhuận của các doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam.
Hiện tại, cần bổ sung một số điều luật về chống chuyển giá vào Luật Quản lý
thuế, cụ thể:
+ Áp dụng phương thức ấn định số thuế dựa trên doanh số khi doanh nghiệp kê khai
bất hợp lý, trong điều kiện cơ quan thuế có thể chứng minh được doanh nghiệp có dấu
hiệu chuyển giá. Tỷ lệ ấn định dựa trên so sánh giá giao dịch với giá tương đương
ngoài thị trường; nếu không có giá tương đương thì áp dụng phương pháp ấn định giá
mua hay giá bán trên tỷ lệ lợi nhuận trung bình của các doanh nghiệp tương tự.
+ Đối với doanh nghiệp nước ngoài sang Việt Nam, đầu tư không ở dạng tư cách pháp
nhân có thể quy định thuế khoán ấn để nhà đầu tư biết trước để đấu thầu.
+ Áp dụng phương pháp “thỏa thuận trước về giá giao dịch liên kết” (APA). Thỏa
thuận này được thiết lập trên cơ sở thương lượng giữa cơ quan thuế và doanh nghiệp
đầu tư vào nước sở tại và có mối quan hệ liên kết với các doanh nghiệp khác. Theo cơ
chế này, các MNC phải chủ động đề xuất biện pháp tính giá hoặc mức giá mua, bán
hàng hóa, dịch vụ giữa các thành viên trong tập đoàn, trước khi kê khai và nộp thuế.
Cơ quan thuế sẽ phối hợp với cơ quan thuế nước ngoài đã ký kết hiệp định tránh đánh
thuế hai lần với Việt Nam tổ chức giám sát, kiểm soát để chống gian lận thuế.
12
APA có thể giúp giảm bớt tình trạng khai gian giá. Tuy nhiên, vì APA áp dụng trên
nguyên tắc tự nguyện, cơ quan thuế không thể ép DN phải thực hiện nên cần có cơ chế
khuyến khích các DN có giao dịch liên kết áp dụng APA để tránh bị thanh tra về
chuyển giá.
Cần ban hành quy chế xử phạt cụ thể cho các trường hợp phát hiện hành vi
chuyển giá. Việc cụ thể hóa hình thức phạt và mức phạt sẽ tạo nên sự công bằng và
hiệu quả trong công tác kiểm tra và xử lý các trường hợp vi phạm, đồng thời giảm các
tiêu cực có thể xảy ra. Mức phạt phải đảm bảo tính răn đe, thời hiệu truy thu thuế có
thể tăng lên tùy mức độ vi phạm. Có quy định pháp lý cụ thể về các khoản chi từ ngân
sách nhà nước cho các hoạt động kiểm tra, thanh tra và điều tra chống chuyển giá;
hoàn thiện quy chế phối hợp giữa các cơ quan chức năng có liên quan với cơ quan
thuế trong hoạt động chống chuyển giá, đặc biệt là sự phối hợp của các cơ quan ngoại
giao của Việt Nam ở nước ngoài.
Về lâu dài, nên ban hành Luật Chống chuyển giá, vì đây là cơ sở pháp lý quan
trọng nhất cho hoạt động chống chuyển giá, không chỉ có ý nghĩa đối với quản lý thuế
thu nhập doanh nghiệp còn liên quan đến quản lý thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ
đặc biệt, thuế tài nguyên...
3.2 Kiện toàn bộ máy kiểm soát và quản lý hoạt động chuyển giá
Tổng cục Thuế đã thành lập Phòng Thanh tra giá chuyển nhượng. Lực lượng
thanh tra giá chuyển nhượng được thành lập tại 4 Cục thuế địa phương có nhiều rủi ro
liên quan đến chuyển giá như: Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương và Đồng Nai.
Đây là lực lượng chuyên trách làm việc chống chuyển giá tại cơ quan Thuế Trung
ương đến địa phương, cũng như tiến hành thu thập xử lý thông tin từ các DN có quan
hệ liên kết từ cơ quan thuế và bên thứ ba.
Nghiên cứu giao quyền điều tra cho cơ quan thuế là cần thiết. Từ cấp Tổng cục,
về lâu dài, khi lực lượng công chức thuế đã được đào tạo, bồi dưỡng đáp ứng tốt chức
năng điều tra thì có thể mở rộng quyền điều tra cho cơ quan thuế cấp tỉnh. Điều này
vừa giúp cơ quan thuế có điều kiện làm tốt hoạt động chống chuyển giá, vừa tạo điều
kiện làm tốt hiệu quả quản lý thuế nói chung.
13
Cơ quan thuế các cấp cần tăng cường thanh tra giá chuyển giao, chú trọng việc
thanh tra, kiểm tra đối với các DN có nhiều thành viên; các ngành nghề có dấu hiệu
rủi ro lớn về thuế do hành vi chuyển giá của DN liên kết, các DN đã và đang thực hiện
tái cơ cấu có khả năng lợi dụng chuyển giá để tránh thuế. Đối với các trường hợp
chuyển giá, phải có chế tài xử phạt theo hướng tăng mức phạt và hình thức phạt so với
quy định hiện tại để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật.
3.3 Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu và liên thông dữ liệu
Một hệ thống thông tin về DN FDI cần được xây dựng trong các cơ quan chức
năng của Việt Nam để có sự phối hợp đồng bộ, thông suốt trong kiểm soát chuyển giá
của các cơ quan chức năng. Trong đó, ngành Thuế, cơ quan cấp phép đầu tư, hải quan,
công an, ngân hàng... cần tăng cường xây dựng cơ sở dữ liệu và kết nối thông tin để
có được một hệ thống thông tin đảm bảo cho quá trình quản lý thuế nói chung và hoạt
động phân tích rủi ro, thanh tra, xử lý vi phạm về giá chuyển giao giữa các thành viên
liên kết nói riêng. Các cơ quan thuế cần khẩn trương xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu
để đáp ứng được yêu cầu khai thác, phân tích rủi ro và làm căn cứ để xác định giá thị
trường đối với giao dịch liên kết.
3.4 Xem xét lại chính sách ưu đãi thuế đối với doanh nghiệp nước ngoài tại Việt
Nam
Chính phủ và các cơ quan chức năng cần rà soát, điều chỉnh theo hướng thu
hẹp khoảng cách về các ưu đãi thuế giữa các ngành, lĩnh vực và vùng miền, địa
phương. Một trong những nguyên nhân dẫn đến hành vi chuyển giá là có sự chênh
lệch thuế thu nhập DN giữa các quốc gia, chênh lệch thuế suất thuế thu nhập DN trong
một quốc gia do áp dụng thuế suất ưu đãi và các ưu đãi khác như miễn, giảm thuế.
Việt Nam không còn ở giai đoạn tích cực thu hút FDI bằng mọi giá, hiện tại nên cân
nhắc, chỉ cho phép ưu đãi thuế đối với một số ngành nghề, lĩnh vực, vùng miền và
trong những trường hợp có lợi nhất so với các hình thức ưu đãi khác.
Bên cạnh việc cần phải thực hiện ưu đãi thuế, cần cân nhắc các cách thức khác
để điều tiết các vấn đề kinh tế, chỉ sử dụng ưu đãi thuế trong những trường hợp có lợi
14
nhất so với các hình thức ưu đãi khác, chẳng hạn như trợ cấp, trợ giá, hỗ trợ phát triển
kết cấu hạ tầng...
3.5 Tăng cường đào tạo, phát triển nguồn nhân lực
Một bộ phận chuyên trách quản lý thuế đối với hoạt động chuyển giá tại cơ
quan thuế cần được thành lập. Bộ phận này có chức năng chuyên thu thập thông tin
phục vụ quản lý thuế ở cả trong nước và quốc tế. Cần đào tạo đội ngũ cán bộ có nhiệm
vụ theo dõi, kiểm soát chuyển giá, trong đó chú trọng đào tạo về kỹ năng xác định giá
thị trường, trang bị kiến thức về kinh tế ngành, kỹ năng tin học, ngoại ngữ. Công việc
kiểm soát giá cả còn phải được thực hiện thường xuyên, nhằm tránh tình trạng các
doanh nghiệp FDI lách luật.
15
KẾT LUẬN
Nguồn vốn FDI đổ vào Việt Nam những năm qua đã đóng góp rất lớn cho nền
kinh tế nước nhà. Những doanh nghiệp nước ngoài ở Việt Nam là những đầu tàu, giải
quyết được nhiều vấn đề về việc làm, gia tăng xuất nhập khẩu và nguồn thu thuế quan
trọng. Tuy nhiên, những bất cập cũng nảy sinh khi Nhà nước và Chính phủ tạo khá
nhiều ưu đãi cho các doanh nghiệp này, và hoạt động chuyển giá tránh thuế là một
trong số đó, ngày càng phổ biến và tinh vi. Về lâu dài, hoạt động chuyển giá không
chỉ gây tổn thất cho nguồn thu ngân sách Nhà nước mà còn tác động xấu đến hình ảnh
môi trường đầu tư của Việt Nam và nhiều tiêu cực khác ảnh hưởng đến kinh tế xã hội.
Do đó, chính phủ và các cơ quan liên quan cần tập trung theo dõi sát sao hiện
tượng này; có những giải pháp cụ thể và kịp thời để ngăn chặn và xử lý nghiêm các
trường hợp vi phạm. Bắt đầu từ việc hoàn thiện chính sách thuế, ưu đãi thuế đến ban
hành Luật chống chuyển giá; từ việc đào tạo lực lượng cán bộ có chuyên môn đến tổ
chức cơ quan chuyên trách điều tra và kiểm soát hoạt động chuyển giá trong nước.
Tóm lại, hoạt động chuyển giá của các doanh nghiệp nước ngoài cần được nghiên cứu
sâu hơn, hành động nhanh, mạnh mẽ hơn nhưng cũng phải thận trọng và cân nhắc
nhiều mặt để bảo toàn lợi ích công bằng cho các bên, đảm bảo nền kinh tế phát triển
bền vững.
16
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chuyển giá thông qua thủ thuật tách lợi nhuận ở Việt Nam, Nguyễn Hoàng Giang,
2016, Nghiên cứu khoa học
2. Chuyển giá trong các doanh nghiệp ở Việt Nam, Đỗ Thiên Anh Tuấn, 2014,
Chương trình giảng dạy Kinh tế Fullbright.
3. Thực trạng chuyển giá ở Việt Nam và giải pháp khắc phục, PGS.TS Nguyễn Ngọc
Hùng, 2012, Tiểu luận
4. Bàn về chống chuyển giá trong giai đoạn hiện nay, TS. Phạn Hùng Tiến, 2012,
Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Kinh tế và Kinh doanh 28 (2012) 36‐48
5. Những phi vụ chuyển giá “kinh điển” ở Việt Nam, Ngân Giang, 2018,
/>57.chn
6. Chặn lỗ ảo của doanh nghiệp FDI, Phương Nhung, 2018,
/>7. Chuyển giá trong các doanh nghiệp FDI: Thực trạng và giải pháp, TS.
Nguyễn Thị Thu Hoài, 2016, Bài đăng trên Tạp chí Tài chính kỳ 2 số tháng
12-2015
8. Một số giải pháp chống chuyển giá, Nguyễn Trọng Hạnh, 2011,
/>
17