MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1 ........................................................................................................................ 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN .............................................................................................................. 2
1.1. TỔNG QUAN VỀ HỒI GIÁO ................................................................................. 2
1.1.1. Hồi giáo và người Hồi giáo ................................................................................ 2
1.1.2. Sự ra đời của Hồi giáo ....................................................................................... 2
1.1.3. Tiểu sử người sáng lập ....................................................................................... 3
1.1.4. Giáo lý cơ bản .................................................................................................... 4
1.1.5. Hôn nhân, quan hệ gia đình, tổ chức trong đạo Hồi .......................................... 7
1.1.6. Quá trình truyền bá ............................................................................................ 9
1.2. HỒI GIÁO VỚI KINH DOANH QUỐC TẾ ........................................................... 9
CHƯƠNG 2 ...................................................................................................................... 12
ẢNH HƯỞNG CỦA HỒI GIÁO ĐẾN KINH DOANH QUỐC TẾ ............................... 12
2.1. TỔNG QUAN VỀ KFC ......................................................................................... 12
2.1.1. Lịch sử hình thành của KFC ............................................................................ 12
2.1.2. Triết lý kinh doanh của KFC ........................................................................... 15
2.1.3. Slogan của KFC ............................................................................................... 16
2.2. ẢNH HƯỞNG CỦA HỒI GIÁO ĐẾN KFC ......................................................... 17
2.2.1. Chính trị ........................................................................................................... 17
2.2.2. Kinh tế .............................................................................................................. 17
2.2.3. Văn hóa ............................................................................................................ 18
CHƯƠNG 3 ...................................................................................................................... 25
NHẬN XÉT VÀ ĐÁNH GIÁ ........................................................................................... 25
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 26
MỞ ĐẦU
Hồi giáo là một trong ba tôn giáo lớn nhất thế giới. Hơn một tỷ người trên trái
đất này gắn bó với niềm tin của đạo Hồi. Tuy ra đời muộn nhưng nó được coi là một
hiện tượng tôn giáo bởi số lượng tín đồ tăng lên một cách nhanh chóng và phát triển
nhanh nhất trong số ba tín ngưỡng chiếm địa vị hàng đầu trên thế giới là Thiên Chúa
giáo, Hồi giáo và Phật giáo. Nó đã có ảnh hưởng lớn không những về mặt tín ngưỡng
mà còn về mặt xã hội, chính trị, kinh tế trên thế giới. Hồi giáo xuất phát từ Ả Rập, do
đó khi nói tới tôn giáo này người ta thường nghĩ ngay tới vùng đất “Nghìn lẻ một đêm”.
Cũng giống như các tôn giáo khác, Hồi giáo cũng có những quy định,
nguyên tắc, phong tục, văn hóa riêng về kinh tế, xã hội. Vì vậy bất kì công ty
nào muốn mở rộng mối quan hệ hay hợp tác kinh tế với các quốc gia khác, đều
phải tìm hiểu và nghiên cứu về thị trường, văn hóa xã hội của nước bạn, để từ
đó lựa chọn những phương thức thâm nhập và hình thức đầu tư kinh tế thích
hợp nhất. Cho nên có thể nói, các yếu tố văn hóa ấy có sự tác động cũng khá
mạnh mẽ đến các hoạt động kinh tế quốc tế.
1
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1. TỔNG QUAN VỀ HỒI GIÁO
1.1.1. Hồi giáo và người Hồi giáo
Theo sách Dẫn luận về Hồi giáo của Malise Ruthven, từ Islam (Hồi giáo) là một danh
từ có gốc động từ, nghĩa là sự quy phục (Thượng đế), được mặc khải qua thông điệp và
cuộc đời nhà tiên tri Mohammed. Tên gọi Hồi giáo nói lên tính chất sắc tộc và thành viên
của nhóm, không nhất thiết nói tới niềm tin tôn giáo của họ.
Cũng theo Malise Ruthven, từ Muslim (người Hồi giáo) ở ý nghĩa chủ yếu của nó
nói tới người dâng mình cho Thượng đế. Tuy nhiên, Muslim có ý nghĩa thứ yếu nhưng có
thể lấn vào ý nghĩa thứ nhất. Người Hồi giáo là một người có cha là Hồi giáo, nghĩa là
người đó lấy luôn nhân dạng tín ngưỡng của cha mẹ mình mà không nhất thiết đi theo
những niềm tin và thực hành của tín ngưỡng ấy.
1.1.2. Sự ra đời của Hồi giáo
Hồi giáo (tôn giáo của tộc người Hồi) là cách gọi của người Trung Quốc gọi đạo
Islam (theo tiếng Ảrập nghĩa là phục tùng theo ý chân chủ) xuất hiện ở bán đảo Ảrập vào
khoảng thế kỷ thứ VII. Bán đảo Ả Rập ở phía Tây nam Á châu, đại bộ phận là sa mạc và
gò núi, trình độ phát triển kinh tế xã hội còn thấp so với vùng Lưỡng Hà, Iran ở phía Bắc.
Trước thế kỷ VII, trên bán đảo vẫn còn chế độ trao đổi với hai thành phố là Mecca và
Yatơrép.
Hồi giáo ra đời do hàng loạt nguyên nhân kinh tế, xã hội, tư tưởng gắn liền với sự
chuyển biến từ chế độ công xã nguyên thủy sang xã hội có giai cấp của các tộc người vùng
Trung cận Đông. Do ở vào vị trí thuận lợi của sự giao lưu Á, Phi, Âu nên từ thế kỷ V, VI,
vùng này trở thành đối tượng tranh giành giữa các đế quốc. Thế kỷ VII, chế độ thị tộc bắt
đầu tan rã, nhưng các bộ tộc cũng thường xung đột nhau. Người Ba Tư và người Abixini
thường tấn công làm cho thương mại trên bán đảo gặp nhiều khó khăn. Chính trong tình
hình đó, yêu cầu về sự thống nhất các bộ lạc trong bán đảo Ảrập thành một nhà nước
2
phong kiến thần quyền là tất yếu, vì vậy cần một tôn giáo độc thần để thay thế những tôn
giáo đa thần tồn tại ở đó từ trước. Tôn giáo đó chính là Hồi giáo.
Hồi giáo đã trở thành một lực lượng chính trị làm hạt nhân trong việc thành lập nhà
nước thống nhất của toàn bộ bán đảo Ả Rập. Và khi Hồi giáo được phổ biến rộng rãi thì
đế quốc Ả Rập cũng được hình thành.
1.1.3. Tiểu sử người sáng lập
Sự ra đời của Hồi giáo gắn liền với tên tuổi của một người nổi tiếng là giáo chủ
Mohammed. Mohammed là người thành phố Mecca, miền trung tây Arập. Ông sinh năm 570,
trong một gia đình thương nhân, thuộc bộ tộc Quraysh danh giá ở Mecca, nhưng gia đình của
Mohammed lại rất nghèo. Cha Mohammed đã mất từ trước khi ông ra đời. Mẹ ông cũng chết
khi ông mới được sáu tuổi. Mohammed được ông nội, và sau đó là ông chú nuôi nấng. Ông
không được học hành tử tế, và người ta nói rằng ông không biết đọc biết viết. Từ bé
Mohammed đã phải làm việc trong nghề buôn bán. Đến năm hai mươi lăm tuổi, ông vào làm
việc cho Khadija, một góa phụ giàu có lớn tuổi hơn ông rồi ông lấy bà làm vợ và bà đã sinh
cho ông cô con gái Fatima. Kể từ đó, Mohammed đã có một cuộc sống dễ chịu hơn và hai
người đã có với nhau sáu người con.
Mohammed là một người lúc nào cũng nghiêm túc, hay suy nghĩ, không chan hòa
với họ hàng. Từ khi mới lớn lên, Mohammed đã thấy bất mãn với tôn giáo của bộ tộc ông.
Ông phản ứng mạnh mẽ với những bất công xã hội, những tục lệ vô đạo đức mà tôn giáo
đó cho phép người ta được làm. Dần dần ông kết luận rằng chính tôn giáo của bộ tộc ông
phải chịu trách nhiệm về những tội lỗi của họ.
Mohammed nghe nói người Do thái và người Thiên chúa giáo chỉ tin vào một
Thượng đế duy nhất. Ông bắt đầu tìm hiểu và nghiền ngẫm về các tôn giáo của người Do
thái và người Thiên chúa giáo đang sống thành nhều nhóm nhỏ quanh Mecca. Dần dần
ông tin theo họ rằng chỉ có một Thượng đế đích thực, duy nhất, đó là Thượng đế của người
Do thái và người Thiên chúa giáo.
Năm 610, trong tư duy của Mohammed đã bắt đầu hình thành một tôn giáo mới.
3
Rồi bốn năm sau, Mohammed đã tuyên truyền rằng mình là vị tiên tri do thượng đế Allah
giao cho số mệnh dẫn dắt dân tộc Ả Rập, dạy cho họ một luân lý mới, một tôn giáo mới tôn giáo nhất thần đó là thánh Allah, và Mohammed là người mang sứ mệnh đó để thuyết
giáo cho dân chúng khắp nơi. Lúc đầu Mohammed truyền giáo tại Mecca, quí tộc Mecca
khủng bố, năm 622 ông trốn đến vùng Yatơrép ở phía Bắc, cách Mecca hàng trăm cây
số. Trong lịch sử Hồi giáo, năm 622 được gọi là năm "chạy trốn" cũng là năm mở đầu của
kỷ nguyên Hồi giáo. Ở Yatơrép, Mohammed được quí tộc, thương nhân ủng hộ và ông đã
tổ chức được một lực lượng quân đội mạnh. Cuối năm 630, Mohammed được phần lớn
người Ả Rập công nhận là tiên tri, trở thành người đứng đầu tôn giáo, đứng đầu nhà nước.
Quí tộc ở Mecca trở thành quan chức cho một nhà nước mới dưới quyền ông. Ngày
07/6/632 Mohammed qua đời. Ông hưởng thọ 62 tuổi. Khi Mohammed mất, bán đảo Ả
Rập về cơ bản đã thống nhất.
1.1.4. Giáo lý cơ bản
Cũng như bất cứ một tôn giáo nào, giáo lý Hồi giáo cũng bao gồm những quan niệm về thế giới và
con người. Tuy nhiên, giáo lý Hồi giáo chứa đựng yếu tố tín ngưỡng cổ của người Ảrập. Cơ sở giáo lý Hồi
giáo là niềm tin vào Thượng đế Allah và Thiên sứ Mohammed, tin vào thiên thần và sự bất tử của linh hồn,
tin vào ngày phục sinh và phán xét cuối cùng. Đặc biệt là tin vào sự vĩnh cửu của kinh Koran và luật Sariat.
Hồi giáo quan niệm chỉ có thánh Allah là thánh duy nhất của vũ trụ, ngoài ra không còn
thánh nào khác. Hồi giáo là một tôn giáo không có hệ thống phẩm trật chức sắc, tuy nhiên giáo luật Hồi
giáo lại chứa đựng nhiều nội dung và hành vi xử thế có tính chất bắt buộc cao và rất khắt khe. Nó vượt ra
khỏi phạm vi đức tin và những sinh hoạt tôn giáo thuần tuý để trở thành tiêu chuẩn pháp lý trong đời sống,
chi phối mọi hoạt động của người Hồi giáo.
Giáo lý cơ bản của Hồi giáo là kinh Koran. Kinh Koran, cuốn Kinh thánh của đạo
Hồi, được viết bằng tiếng Ảrập, có nghĩa là “đọc lại” vì kinh Koran được hình thành từ
những gì mà Mohammed tuyên đọc hay đọc lại những lời của Thượng đế thần khải qua
ông cho người của ông khi thuyết giảng về tôn giáo mới. Chúng được tập hợp lại thành
sách hai mươi năm sau khi Mohammed chết. Không giống như kinh Thánh của đạo Do
thái hay đạo Thiên chúa, kinh Koran không phải là một tập hợp các tư liệu lịch sử và khải
4
thị đa dạng được góp nhặt lại trong suốt hàng ngàn năm. Nó gồm 114 chương (gọi là
surah), chia thành các tiết (gọi là ayah). Tiêu đề của các chương lấy từ các ayah trong
chương đó. Các chương trong kinh Koran có độ dài không tương xứng với nhau, vì chúng
được Mohammed đọc ra dần dần trong một quãng thời gian hơn 20 năm. Nội dung Kinh
Koran vô cùng phong phú đại thể bao gồm những tín ngưỡng cơ bản và chế độ tôn giáo
của đạo Hồi và những ghi chép về tình hình xã hội trên bán đảo Ảrập đương thời cùng với
những chính sách về chủ trương xã hội, quy phạm luân lý đạo đức… Giáo lý Hồi giáo
gồm các điểm cơ bản sau:
- Allah là đấng tối cao sinh ra trời đất.
- Allah là đấng tối cao sinh ra muôn loài trong đó có con người.
- Con người là bình đẳng trước Allah nhưng số phận và tài năng tạo nên sự khác
nhau giữa những con người.
- Số phận con người có tính định mệnh và do Allah sắp đặt.
- Tín đồ Hồi giáo phải luôn có thái độ đúng: trong cộng đồng (Hồi giáo) thì phải kiên
nhẫn chịu đựng, phục tùng Allah, đối với người ngoài thì phải kiên quyết bảo vệ mọi lợi
ích của Hồi giáo và phải có tinh thần thánh chiến.
- Về y lý: khuyên bảo con người phải giữ gìn sức khỏe.
- Những lời khuyên về đạo lý:
Tôn thờ thần cao nhất là Allah.
Sống nhân từ độ lượng.
Thưởng phạt công minh, trừng phạt chủ yếu đối với kẻ thù.
Thánh chiến là thiêng liêng và bắt buộc.
Kiên định và nhẫn nại trong mọi thử thách.
Tin vào định mệnh và sự công minh của Allah.
Cấm một số thức ăn: thịt heo, rượu bia và các chất có men. (Heo là con vật gắn với
khởi nguyên: phát triển là nhờ chăn nuôi).
Trung thực.
5
Không tham của trộm cắp.
Làm lễ và tuân thủ các nghi lễ Hồi giáo.
Các tín đồ Hồi giáo tin rằng kinh Koran là những lời từ chính miệng của Thượng đế
nói ra. Họ nói Mohammed đọc lại kinh Koran y như nó đã được thiên thần Gabriel đọc
cho ông nghe và sau đó ông lại đọc cho những người Ảrập, và họ ghi nhớ nó. Kinh Koran
cũng trình bày quan điểm Hồi giáo về lịch sử các tôn giáo tiền thân của nó, nhất là về
những vị tiên tri trước như Abraham, Moses và Jesus.
Một tín đồ Hồi giáo cần phải thực hiện năm bổn phận quan trọng thường được gọi
là năm cột trụ của Hồi giáo. Đó là:
- SHAHADAH, hay tuyên xưng đức tin. Cá tín đồ Hồi giáo phải tuyên xưng đức tin
của mình rằng chỉ có một Thượng đế duy nhất, và Mohammed là tiên tri và là sứ giả của
Ngài. Niềm tin Mohammed là tiên tri và là sứ giả của Thượng đế chính là cái phân biệt
đạo Hồi với đạo Do thái và đạo Thiên chúa giáo, là những tôn giáo cũng tin vào một
thượng đế duy nhất như đạo Hồi.
- SALAT, hay cầu nguyện. Các tín đồ Hồi giáo phải cầu nguyện mỗi ngày năm lần
vào sáng, trưa, chiều, tối và đêm. Thứ sáu hàng tuần thì làm lễ tại thánh đường một lần
vào buổi trưa. Trước khi cầu nguyện, tín đồ phải ở trong một trạng thái tinh thần và thể
xác thanh khiết. Trước tiên họ phải súc miệng, sau đó rửa mặt, tay, rồi dấp nước lên đầu
và chải tóc, và rửa chân. Khi cầu nguyện phải hướng về thánh địa Mecca và phải phủ phục
trán chạm đất.
- ZAKAT, hay là bố thí cho người nghèo. Trừ phi quá nghèo túng, còn không thì các
tín đồ Hồi giáo phải cho đi một phần của cải của mình để giúp đỡ những người nghèo khó.
Con số thông thường là 2,5 phần trăm thu hoạch hàng năm, hay mười phần trăm lợi tức từ
mùa màng hay kinh doanh của họ. Những người giàu có được khuyến khích cho nhiều
hơn. Những ai cho nhiều hơn số lượng theo qui định được coi là một sadagah, tức là người
thiện tâm.
- SAWM, hay nhịn ăn trong tháng chay Ramadan. Mỗi năm đến tháng Ramadan phải
6
trai giới một tháng, tháng Ramadan là tháng 9 lịch Hồi. Trong tháng này mọi tín đồ không
ăn uống, hút thuốc và những ham muốn khác từ khi mặt trời mọc đến khi mặt trời lặn, trừ
trẻ con, người già, người ốm, phụ nữ có thai hoặc đang cho con bú, người đi đường xa.
Kết thúc tháng này là lễ phá bỏ sự nhịn đói, các tín đồ sẽ cùng nhau cầu nguyện, sau đó
tặng quà cho nhau và bố thí.
- HAJJ, tức là hành hương về Mecca. Trong suốt đời người, nếu có khả năng phải đi
hành hương đến Kaaba một lần. Việc hành hương thể hiện sự phục tùng Chúa Trời và diễn
ra vào tháng thứ 12. Lễ hiến tế, đánh dấu ngày kết thúc kì hành hương, kéo dài trong mười
ngày.
Đạo Hồi không có mười điều răn như đạo Kitô nhưng kinh Koran cũng liệt kê mười
điều tương tự:
- Chỉ tôn thờ một Thiên Chúa (Allah).
- Vinh danh và kính trọng cha mẹ.
- Tôn trọng quyền của người khác.
- Hãy bố thí rộng rãi cho người nghèo.
- Cấm giết người, ngoại trừ trường hợp đặc biệt: một là trong khi kháng cự hoặc
chiến đấu chống lại những kẻ lùng giết người đạo mình nhằm cưỡng bách bỏ đạo. Nhưng
nếu chiến thắng, phải noi gương thiên sứ Mohammed, tha thứ và đối xử nhân đạo với phần
đông kẻ bại trận. Hai là giết những tên sát nhân để trừ hại cho dân lành. - Cấm ngoại tình.
- Hãy bảo vệ và chu cấp trẻ mồ côi.
- Hãy cư xử công bằng với mọi người.
- Hãy trong sạch trong tình cảm và tinh thần.
- Hãy khiêm tốn.
1.1.5. Hôn nhân, quan hệ gia đình, tổ chức trong đạo Hồi
Về nếp sống cộng đồng, nếp sống cộng đồng của các tín đồ Hồi giáo, có thể nói được
quy định bởi giáo lý trong kinh Koran và Hadith. Những mối quan hệ con người đa dạng,
gần gũi và tình cảm cộng đồng là điều cực kỳ quan trọng ở một xã hội Hồi giáo. Dù ở một
7
làng vùng núi hay trong một thành phố lớn, thì ở đâu người ta cũng dành nhiều thời gian
để tiếp xúc với những người láng giềng và các tín đồ trong cùng một cộng đồng nhỏ.
Thánh đường chính là nơi thể hiện nổi bật nhất lối sống cộng đồng của người Hồi giáo.
Cái sân của thánh đường khong chỉ là nơi cầu nguyện mà còn là nơi tụ tập ưa thích của
mọi người, cho nên ngay cả những người nông dân Hồi giáo nhìn chung cũng muốn sống
quy tụ trong những làng xóm có thánh đường.
Về hôn nhân, Luật Hồi giáo cho phép chế độ đa thê. Một người đàn ông có thể lấy
đến bốn vợ với điều kiện phải cư xử với các bà vợ bình đẳng như nhau. Đàn ông Hồi giáo
cũng có thể lấy người theo đạo Do Thái hoặc đạo Kitô làm vợ nhưng không được cưới
người theo đa thần giáo. Anh ta có thể cố lấy nhiều vợ để chứng tỏ rằng anh ta là một
người Hồi giáo chân chính. Tuy cho lấy nhiều vợ nhưng đạo Hồi lại cấm việc lấy nàng
hầu. Riêng Mohammed thì ngoại lệ. Ông có 10 vợ và 2 nàng hầu.
Về gia đình, gia đình là trung tâm cuộc sống cá nhân của người Hồi giáo. Gia đình
là tất cả những người thân thuộc cùng sống chung dưới một mái nhà. Đời sống gia đình
Hồi giáo tuân theo chế độ gia trưởng chặt chẽ và dựa trên cơ sở của gia đình mở rộng,
nghĩa là có ba hay thậm chí bốn thế hệ cùng sống chung với nhau. Kính trọng và chăm lo
người già là một phần quan trọng trong việc thể hiện đức tin của một người Hồi giáo. Thứ
bậc theo tuổi tác là đặc điểm cơ bản trong gia đình. Có một luật lệ bất thành văn là những
người già cả trong gia đình phải được chăm sóc sau khi họ không còn làm việc được nữa
và do đó các cha mẹ khi về già sẽ sống với con cái.
Về tổ chức Hồi giáo: Thánh đường Hồi giáo là nơi sinh hoạt tập thể và có tính thiêng
với các tín đồ. Thánh đường gồm có Đại Thánh đường và Tiểu Thánh đường. Trong Thánh
đường bài trí đơn giản, không bàn ghế, không có đồ thờ quý hay nhạc cụ, không có tượng
và tranh ảnh, chỉ có chiếc gậy mà theo truyền thuyết là của giáo chủ Mohammed đã dùng
nó để đi truyền đạo. Chỉ riêng trong đền Kaaba ở Mecca có thờ một phiến đá đen từ xưa
để lại mà thôi. Hệ thống chức sắc gồm có Giáo chủ (Mufty), phó giáo chủ (Naib Mufty),
Giáo cả (Ha Kim), phó giáo cả (Naib Ha Kim), Imân, Khatib, Tuan, Bilat, Slak, HaDji.
8
1.1.6. Quá trình truyền bá
Giai đoạn 1: Từ 610 đến 632 dưới thời Mohamed, là thời kỳ đạo hồi hình thành và
truyền bá đạo Hồi trên toàn bán đảo Ả Rập và trở thành tôn giáo chính thức trên bán đảo
Ả Rập. Giai đoạn này gắn liền với sự hình thành nhà nước Ả Rập thống nhất.
Giai đoạn 2: Từ 632 đến 661, là thời kì Hồi giáo trải qua dưới 4 thời kì Caliph (Caliph
như là giáo chủ hay vua). Giai đoạn này Hồi giáo có xu hướng ly tâm. Bốn đệ tử thập tín
của Mohammed lần lượt nắm chính quyền.
Giai đoạn 3: Là giai đoạn Omeyat nắm quyền. Thánh địa Mecca được tu sửa hoàn
chỉnh và các Caliph (người đứng đầu) đã trở thành các Hoàng Đế chuyên chế và hồi giáo
đã mở ra tận phương Đông ở Ấn Độ, Trung Quốc, Trung Á (những nước Cộng hòa liên
bang Liên Xô cũ).
Giai đoạn 4: Là giai đoạn triều đại Apbaxit được thành lập, lãnh thổ của đế quốc Ả
Rập ngày càng rộng lớn và được chia thành ba tiểu quốc với ba kinh đô khác nhau.
1.2. HỒI GIÁO VỚI KINH DOANH QUỐC TẾ
Kinh Koran thiết lập một số nguyên tắc kinh tế rõ ràng, và nhiều nguyên tắc
trong số đó nói về doanh nghiệp tự do. Kinh Koran đồng tình với những doanh
nghiệp tự do và thu được lợi nhuận hợp pháp bằng thương mại (nhà tiên tri
Mohammed cũng là một thương nhân). Việc bảo đảm cho quyền sở hữu tư nhân
cũng được đề cập trong Hồi giáo, mặc dù Hồi giáo khẳng định rằng mọi tài sản
đều là đặc ân của thánh Allah, người tạo ra mọi thứ và do đó sở hữu tất cả mọi
thứ. Những ai đang nắm giữ tài sản được coi là người được ủy thác trông nom tài
sản chứ không phải là chủ sở hữu theo nghĩa của người phương Tây. Là người
được ủy thác, họ có quyền nhận lợi nhuận từ tài sản nhưng được khuyên nhủ sử
dụng nó một cách chính đáng, mang lại lợi ích cho xã hội, và khôn ngoan. Điều
này phản ánh mối quan tâm của Hồi giáo với công bằng xã hội. Hồi giáo chỉ trích
những ai kiếm được lợi nhuận bằng việc bóc lột người khác. Theo quan điểm của
9
Hồi giáo về thế giới, con người là một phần của tập thể, trong đó những người
giàu có và thành công có nghĩa vụ giúp đỡ những người khó khăn hơn. Nói một
cách đơn giản, ở các nước Hồi giáo, kiếm được lợi nhuận là điều tốt, miễn là lợi
nhuận đó kiếm được một cách công bằng và không dựa trên việc bóc lột người
khác vì lợi ích của riêng mình. Và cũng rất tốt nếu những người kiếm được lợi
nhuận thực hiện hành vi từ thiện giúp đỡ người nghèo. Ngoài ra, Hồi giáo nhấn
mạnh tầm quan trọng của việc sống theo các nghĩa vụ đã cam kết, của việc giữ
lời hứa, và không lừa gạt hay mánh khoé.
Với khuynh hướng ủng hộ cơ chế thị trường, các quốc gia Hồi giáo dễ tiếp
nhận các doanh nghiệp quốc tế, miễn là các doanh nghiệp đó hành xử theo cách
thức tương đồng với đạo đức của đạo Hồi. Doanh nghiệp nào xem việc kiếm lợi
nhuận không công bằng thông qua bóc lột người khác, bởi sự lừa dối, hoặc bằng
cách phá vỡ các nghĩa vụ hợp đồng thì không được chào đón tại một quốc gia
Hồi giáo.
Một nguyên tắc kinh tế của Hồi giáo là nghiêm cấm việc thanh toán hoặc nhận
tiền lãi, vốn được xem là cho vay nặng lãi. Đây không phải chỉ là vấn đề về mặt tôn
giáo; ở một số quốc gia Hồi giáo, nó cũng là vấn đề của luật pháp. Kinh Koran dứt
khoát lên án tiền lãi, được gọi là riba trong tiếng Ảrập, như là bóc lột và bất công.
Trong nhiều năm, các ngân hàng hoạt động ở các nước Hồi giáo lờ đi sự lên án này,
nhưng bắt đầu khoảng cách đây 40 năm, cùng với việc thành lập một ngân hàng Hồi
giáo ở Ai Cập, các ngân hàng Hồi giáo được mở ra ở nhiều quốc gia Hồi giáo. Đến
năm 2009, hơn 400 ngân hàng Hồi giáo ở trên 50 quốc gia sở hữu khoảng 400 tỷ
USD, trong khi 800 tỷ USD được quản lý bởi các quỹ hỗ tương cũng tuân theo các
nguyên tắc của Hồi giáo. Ngay cả các ngân hàng thông thường khi thâm nhập thị
trường – như Citigroup và HSBC, hai tổ chức tài chính lớn nhất thế giới, cũng cung
10
cấp các dịch vụ tài chính của Hồi giáo. Trong khi chỉ có Iran và Sudan bắt buộc các
ngân hàng thông thường tuân theo nguyên tắc của Hồi giáo, ngày càng nhiều các quốc
gia Hồi giáo khác, khách hàng có thể lựa chọn giữa ngân hàng thông thường và ngân
hàng Hồi giáo. Các ngân hàng thông thường kiếm lợi nhuận dựa trên sự chênh lệch
lãi suất họ trả người gửi tiền và mức lãi suất cao hơn họ thu của người vay tiền. Bởi
vì các ngân hàng Hồi giáo không thể trả hoặc tính lãi suất, họ phải tìm một cách khác
để thu lợi nhuận.
11
CHƯƠNG 2
ẢNH HƯỞNG CỦA HỒI GIÁO ĐẾN KINH DOANH QUỐC TẾ
2.1. TỔNG QUAN VỀ KFC
2.1.1. Lịch sử hình thành của KFC
KFC là cụm từ viết tắt của Kentucky Fried Chicken - Gà Rán Kentucky, một trong
các thương hiệu thuộc Tập đoàn Yum Brands Inc (Hoa Kỳ). KFC chuyên về các sản phẩm
gà rán và nướng, với các món ăn kèm theo và các loại sandwiches chế biến từ thịt gà tươi.
Hiện nay đang có hơn 20.000 nhà hàng KFC tại 109 quốc gia và vùng lãnh thổ trên toàn
thế giới.
Hiện nay KFC thuộc tập đoàn Yum! Brands. Yum! Brands có trụ sở tại Louisville,
Kentucky, là tập đoàn lớn nhất thế giới chuyên về lĩnh vực hệ thống nhà hàng, với gần
39.000 nhà hàng tại hơn 125 quốc gia và vùng lãnh thổ với hơn 1 triệu nhân viên và cộng
tác viên. Yum! Brands đứng ở vị trí 213 trong danh sách top 500 của tạp chí Fortune với
doanh thu hơn 13 tỷ đô là Mỹ vào năm 2012. Thương hiệu của Yum! Brands bao gồm
KFC, Pizza Hut và Taco Bell là những thương hiệu hàng đầu thế giới về sản phẩm từ gà,
pizza và đồ ăn kiểu Mexico. Ngoài biên giới Mỹ, trung bình mỗi ngày Yum! Brands mở
hơn 4 nhà hàng mới, đưa hệ thống này thành người dẫn đầu trong hệ thống bán lẻ quốc tế.
Không chỉ vậy, tập đoàn còn được biết đến với những giải thưởng, phong cách văn hóa
đặc trưng, quản trị đa dạng, các hoạt động cộng đồng và kết quả kinh doanh hiệu quả.
KFC nổi tiếng thế giới với công thức chế biến gà rán truyền thống Original Recipe,
được tạo bởi cùng một công thức pha trộn bí mật 11 loại thảo mộc và gia vị khác nhau do
Đại tá Harland Sanders hoàn thiện hơn nửa thế kỷ trước. Ngoài thực đơn gà rán, KFC còn
đa dạng hóa sản phẩm tạo nên thực đơn vô cùng phong phú dành cho người tiêu dùng trên
toàn thế giới có thể thưởng thức hơn 300 món ăn khác nhau.
Logo quen thuộc của KFC có màu sắc chủ đạo là màu đỏ với hình ông già mỉm cười
thân thiện.
12
Gà rán Kentucky (KFC), nhãn hiệu được tiên phong bởi ông Harland Scanders, đã
phát triển và trở thành một trong những hệ thống phục vụ thức ăn nhanh lớn nhất trên thế
giới với hơn 1 tỷ bữa ăn tối KFC được phục vụ hàng năm trên hơn 80 quốc gia khác nhau.
Nhưng để có được thành công như vậy thì không phải dễ dàng.
Vào năm 1896, thân phụ của ông Harland qua đời nên người mẹ phải lao động để
trang trải cho gia đình. Vào cái tuổi lên 6, cậu bé Harland đã phải lo lắng việc chăm sóc
cho các em nhỏ của mình và làm rất nhiều công việc bếp núc. Một năm sau đó cậu đã
thành thạo một vài món ăn địa phương. Trong suốt 30 năm sau, Sanders đã trải qua rất
nhiều công việc khác nhau, từ người điều khiển giao thông đến nhân viên đại lý bảo hiểm,
nhưng trong suốt thời gian này, trình độ nấu ăn của ông vẫn không hề thay đổi.
Vào thập niên 30, Sanders khởi đầu sự nghiệp bằng việc chế biến gà rán phục vụ cho
hành khách dừng chân ở trạm xăng nơi ông đang làm việc tại Corbin, bang Kentucky. Vì
lúc ấy ông chưa có nhà hàng nên những vị khách phải ăn trên những chiếc bàn đặt tại trạm
xăng của khu phố nhỏ bé. Sau đó ông lại tạo ra một món ăn gọi là “món thay thế bữa ăn ở
nhà” để bán cho những gia đình bận rộn. Ông gọi nó là “Buổi ăn tối ngày chủ nhật, bảy
ngày trong một tuần”.
Năm 1935, để ghi nhận những đóng góp của ông cho nghệ thuật ẩm thực của bang
Kentucky, Thống đốc bang đã phong tặng ông tước hiệu "Kentucky Colonel" - Đại tá danh
13
dự bang Kentucky. Bốn năm sau, những thiết lập ban đầu của ông đã được liệt kê trong
danh sách Duncan Hines “Khám phá những món ăn ngon”. Khi mà nhu cầu và những đòi
hỏi khắt khe của người tiêu dùng về thức ăn lên cao, ông ấy đã di chuyển nhiều nơi nhằm
nâng cao năng suất của mình. Trong một thập kỷ sau, ông đã thành công với công thức
pha chế bí mật của 11 loại hương vị và thảo mộc cùng với kỹ thuật nấu cơ bản mà vẫn
được áp dụng đến ngày hôm nay.
Đến năm 1955, tự tin với chất lượng món gà rán của mình, ông đã tự phát triển và
thành lập Doanh nghiệp nhượng quyền thương hiệu. Xấp xỉ 10 năm sau, Sanders đã có
hơn 600 franchise ở Mỹ và ở Canada, và năm 1964 ông đã bán cổ phần 2 triệu đô của
mình trong công ty Mỹ cho một nhóm các nhà đầu tư, trong đó có John Y. Brown JR,
người sau này trở thành thống đốc bang Kentucky. Dưới sự quản lý của người sở hữu mới,
tập đoàn Gà Rán Kentucky đã phát triển một cách nhanh chóng. Công ty đã thực hiện cổ
phần hóa ra công chúng vào năm 1966 và gia nhập thị trường chứng khoán New York vào
năm 1969 và được mua lại bởi PepsiCo vào năm 1986. Đến năm 1997 PepsiCo đã chuyển
hệ thống nhà hàng thức ăn nhanh, bao gồm cả nhãn hiệu KFC, sang một công ty về nhà
hàng độc lập, gọi là Tricon Global Restaurant.
Vào tháng 5/2002, Tricon Global Restaurant đổi tên thành Yum! Brands. Công ty
này sở hữu A&W, All – American Food Restaurants, hệ thống nhà hàng KFC, Long John
Silvers, Pizza Hut và Taco Bell. Đây là một công ty lớn nhất thế giới về số lượng quán ăn,
nhà hàng với gần 32.500 đại lý trên hơn 100 quốc gia trên thế giới. Ngày nay, Yum!Brands
là tập đoàn lớn nhất thế giới về số lượng cửa hàng với gần 35,000 cửa hàng trên khắp 110
quốc qua.
Trong các năm 2004 và 2005, KFC đã khởi nguồn thành công với một chiến dịch
mang tên “singing soul” tiếp bước từ sự thành công của chiến dịch “Soul food” năm 2003
và 2004. Chiến lược “Soul food” đã giúp KFC tạo được một hệ thống nhận diện thương
hiệu hoàn chỉnh và xây dựng được một mối quan hệ tốt đẹp với khách hàng. Thừa hưởng
sự thắng lợi đó, “singing soul” hiện nay đã đưa thương hiệu KFC phát triển vượt bậc.
14
2.1.2. Triết lý kinh doanh của KFC
“Trở thành người dẫn đầu trong lĩnh vực phục vụ thức ăn nhanh theo kiểu Tây
phương thông qua dịch vụ thân thiện, thức ăn chất lượng cao và không gian trong lành,
thoáng mát.”
Với mong muốn trở thành người dẫn đầu trong lĩnh vực thức ăn nhanh theo kiểu
phương Tây, KFC đã không ngừng nỗ lực để xây dựng một tổ chức với sự tận tâm vượt
trội, luôn mang lại chất lượng trong các sản phẩm và dịch vụ, cam kết luôn luôn đổi mới
đáp ứng nhu cầu không ngừng của khách hàng. Và KFC cũng mong muốn mang đến cho
khách hàng một thương hiệu hàng đầu về thực phẩm, sáng tạo ra sự tươi sáng và vui nhộn
cho tất cả mọi người ở mọi lứa tuổi.
Mục tiêu của KFC:
- Xây dựng một tổ chức với sự tận tâm vượt trội.
- Luôn mang lại chất lượng cao và giá trị trong các sản phẩm và dịch vụ.
- Duy trì cam kết cải tiến liên tục cho sự đổi mới và phát triển, phấn đấu luôn là nhà
lãnh đạo trong thị trường thường xuyên thay đổi.
- Tạo được nguồn tài chính và lợi nhuận vững chắc cho chủ đầu từ cũng như nhân
viên của công ty.
Giá trị của KFC:
- Tập trung mọi nguồn lực cho việc hoạt động nhà hàng vì đây là nơi mà chúng tôi
phục vụ khách hàng.
- Khen thưởng, trân trọng và ghi nhận các đóng của mỗi cá nhân tại KFC.
- Mở rộng và cập nhật chương trình đào tạo liên tục và trở thành điều tốt nhất chúng
tôi có thể và hơn thế nữa.
- Cởi mở, trung thực và trực tiếp trong mọi giao dịch.
- Cam kết bản thân công ty các tiêu chuẩn cao nhất để luôn là một thể thống nhất và
chuyên nghiệp.
- Khuyến khích những ý tưởng mới và sáng tạo.
15
- Cam kết sự tăng trưởng lâu dài trong doanh số, lợi nhuận và quy mô.
2.1.3. Slogan của KFC
Slogan của KFC có nguồn gốc từ một sự việc ngẫu nhiên xảy ra vào những năm 50
của thế kỷ trước khi xuất hiện hình ảnh Dave Harman, người được nhượng quyền kinh
doanh, ăn thịt gà trên hình nền của một kênh truyền hình thương mại Mỹ.
Một khán giả đã gọi điện và phàn nàn với quản lý Ken Harbough rằng Harman đang
liếm ngón tay. Harbough trả lời: “Well it's finger lickin' good” (Vị ngon trên từng ngón
tay). Cụm từ này trở thành slogan của KFC và được công nhận ngay lập tức. Với câu
slogan này, KFC không còn đánh vào vị giác mà đánh vào sự cảm thụ trên đầu lưỡi. KFC
nêu bật được vị ngon đến tuyệt vời mà những khách hàng thân thiết có thể cảm nhận được
ngay. Đối với những khách hàng mới thì thông điệp mang lại sự thách thức về lối sống
cũng như cảm nhận.
Slogan (khẩu hiệu) “finger lickin’ good” dành cho những miếng gà rán và bánh mỳ
kẹp thịt tồn tại hơn 50 năm, đến năm 2011, KFC thay đổi slogan thành “So Good” để công
bố một thông điệp rằng hương vị bí mật của Đại tá Sanders chỉ là một phần làm thức ăn ở
KFC hấp dẫn và có lợi. Với “So Good”, KFC vẫn nói về thực phẩm nhưng nó giúp mọi
người giao tiếp hiệu quả hơn theo chiều rộng của nhiều mặt khác nhau liên quan đến
thương hiệu, như con người và cộng đồng xung quanh.
16
2.2. ẢNH HƯỞNG CỦA HỒI GIÁO ĐẾN KFC
2.2.1. Chính trị
Các quyết định tiếp thị và kinh doanh bị tác động mạnh mẽ bởi những sự thay đổi
trong môi trường chính trị. Cụ thể, sự bất ổn chính trị của Pakistan ảnh hưởng đến việc
vận hành của KFC ở Pakistan. Vào năm 2007, một số cửa hàng của KFC bị đốt cháy tại
Karachi khi cựu thủ tướng Pakistan Benazir Bhutto bị ám sát. Những người ủng hộ bà
Bhutto chạy điên loạn trên các đường phố, châm lửa đốt xe hơi và các cửa hàng, trong đó
có KFC. Chính phủ cũng đã tăng thuế bán hàng từ 15% lên 21% dẫn đến việc làm tăng giá
sản phẩm của KFC. Một số sản phẩm của KFC cũng bị chính phủ ban hành lệnh cấm bởi
vì có một vài món ăn không phải là Halal từ quan điểm Hồi giáo.
Khủng bố cũng là mối đe dọa đối với nền kinh tế của Pakistan nói chung và của KFC
nói riêng. Việc khủng bố tăng lên càng gây tác động xấu đến công việc bán hàng hàng
ngày của KFC. Ở Karachi, Peshawar, Quetta và các thành phố lớn khác ở Pakistan có sự
hiện diện của các cửa hàng KFC thường xuyên xảy ra các cuộc đụng độ, khủng bố gây ra
những tổn thất rất lớn cho KFC. Bên cạnh đó, máy bay ném bom bên cũng là một mối
nguy hiểm lớn đối với KFC.
2.2.2. Kinh tế
Trong một quốc gia, nếu nền kinh tế có thu nhập bình quân đầu người tăng, thì sức
mua của người dân sẽ tăng lên, và họ sẵn sàng chi trả với giá tiền cao cho những nhu cầu
17
và sở thích của họ. Hiện nay nền kinh tế của Pakistan suy thoái, lạm phát tăng cao làm cho
sức mua của người dân giảm. Thất nghiệp tăng lên cũng làm giảm sức mua của người dân.
Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến KFC tại Pakistan. Khi sức mua tăng thì lợi nhuận của
KFC sẽ tăng lên. Nhưng khi sức mua của người dân giảm cũng đồng nghĩa với việc lợi
nhuận của KFC cũng sẽ giảm theo.
2.2.3. Văn hóa
Yếu tố văn hóa của Hồi giáo ảnh hưởng rất lớn đến chiến lược marketing của các
công ty, doanh nghiệp khi quyết định kinh doanh sản phẩm tại thị trường các nước Hồi
giáo. Bởi nét đặc trưng văn hóa nơi đây, từ khâu thiết kế mẫu mã, bao bì, đóng gói, kiểu
dáng đến chất lượng của sản phẩm phải đặc biệt phù hợp. “Nhập gia tuỳ tục” chính là một
nguyên tắc không thể thiếu. Và KFC cũng không nằm ngoài sự nhập gia tùy tục đó khi
thâm nhập vào thị trường của các nước Hồi Giáo.
Để giải quyết vấn đề khác biệt về văn hóa khi tiến hành thâm nhập vào thị trường
của nước Hồi giáo, KFC đã tuyển dụng các nhân viên của chính địa phương mà KFC tiến
hành kinh doanh bởi chính họ là những người hiểu rõ nhất về văn hóa, phong tục, thói
quen và tập quán của nơi họ sinh sống. Chẳng hạn, tất cả các cửa hàng của KFC ở Pakistan
đều được thiết kế và trưng bày các khẩu hiệu, ngôn ngữ để phù hợp với văn hóa và ẩm
thực Pakistan.
Trang phục của nhân viên KFC tại các nước Hồi giáo cũng là một trong những vấn
đề cần quan tâm buộc KFC phải thay đổi khi kinh doanh tại các nước Hồi giáo. Một số
nước yêu cầu nhân viên nữ phải ăn mặc kín đáo, váy dài được xem là trang phục phù hợp
nhất. Nếu mặc áo thun hoặc áo sơ mi thì tay áo nên dài đến khuỷu tay hoặc dài hơn và
không lộ đường viền cổ áo. Tuy không che mạng nhưng nhất thiết phải quàng một chiếc
khăn qua đầu. Điển hình là nhân viên KFC tại Malaysia.
18
Người Hồi giáo rất thích màu xanh và màu đỏ. Và trong logo hay trang trí cửa hàng,
KFC luôn lấy tông màu chủ đạo là màu đỏ, điều này lại hợp với màu sắc yêu thích của
người Hồi giáo. Theo các nghiên cứu khoa học, màu đỏ kích thích tuyến yên làm tăng nhịp
đập của tim và khiến con người thở gấp. Phản ứng nội tạng của cơ thể khi tiếp xúc với
màu đỏ khiến người ta năng nổ, dễ bị kích thích. Chọn màu đỏ dễ gây cho người ta một
sự đáp ứng say mê, màu đỏ cũng tạo ra một không gian ấm cúng khiến người ta dễ liên
tưởng đến bữa ăn gia đình. Chính vì vậy, với màu chủ đạo là màu đỏ, KFC có sự tương
đồng về màu sắc được ưa chuộng của người Hồi giáo khi thâm nhập vào thị trường của
các nước Hồi giáo.
Ở các nước Trung Đông, người Hồi giáo đọc và viết từ phải qua trái. Giả dụ một
công ty sản xuất thuốc tẩy giặt muốn ca ngợi tính hiệu quả đến kinh ngạc loại bột giặt của
mình. Công ty trưng những biển quảng cáo thể hiện nội dung là “ở bên trái là một đống
quần áo bẩn; ở giữa là bột giặt mới và bên phải là quần áo sạch và đã được là phẳng”. Nếu
viết theo cách thông thường ở cac nước khác thì theo thứ tự phải là viết và đọc từ trái qua
phải. Nhưng nếu giữ nguyên theo thứ tự từ trái qua phải thì chiến dịch này đã nhanh chóng
19
bị thất bại ở Trung Đông vì người dân ở đây có tập quán đọc và viết từ phải sang trái. Chính
vì vậy, khi KFC kinh doanh ở các nước Hồi giáo thì KFC cũng phải thay thế nội dung trong
biển hiện, slogan theo thứ tự từ phải qua trái để phù hợp với văn hóa, tập quán và thói quen
của người Hồi giáo.
Kế tiếp, người Hồi giáo khi mua hàng, điều họ quan tâm đầu tiên là việc trên bao bì
có chữ Ảrập hay không. Những sản phẩm có chữ Ảrập thường tạo ra sự thân thiện với
người tiêu dùng Hồi giáo. Đối với mọi nước Hồi giáo chỉ cần thiết kế một loại bao bì vì
người Hồi giáo dù ở nước nào cũng đều nói được tiếng Ảrập. Trên sản phẩm phải có ngôn
ngữ bằng tiếng Ảrập bên cạnh tiếng Anh. Trong thực đơn cũng như các biển hiệu, slogan,
KFC đều đặt chữ Ảrập bên cạnh các dòng chữ tiếng Anh.
20
Chế độ ăn uống của các tín đồ Hồi Giáo đã được qui định một cách chặt chẽ trong
kinh Koran:
21
- Tuyệt đối cấm uống rượu, dù là rượu nhẹ. Ngay cả trong trường hợp bị bệnh cũng
không được uống thuốc có pha rượu. Do luật cấm nghiêm ngặt này nên hầu hết các tiệm
bán rượu của người ngoại quốc trong các nước Hồi Giáo thường bị các tín đồ cực đoan
đốt phá bình địa.
– Tuyệt đối cấm ăn thịt heo.
– Cấm ăn huyết của mọi sinh vật.
– Cấm ăn thịt các súc vật đã chết một cách tự nhiên.
KFC với nguyên liệu chính là gà được xếp vào những món ăn không
bị cấm trong Hồi giáo bởi trong kinh Koran quy định cấm ăn thịt heo. Tại sao
Anchor, một tên tuổi lớn trong ngành công nghiệp thực phẩm của Pháp, lại không
sử dụng sản phẩm bơ, cũng như không xúc tiến quảng bá thương hiệu sữa bột của
họ ở các quốc gia Hồi giáo? Đơn giản bởi vì thương hiệu này trùng với tên gọi
của một loại bia địa phương đã quen thuộc từ lâu, chưa kể các bà nội trợ ở quốc
gia Hồi giáo này không thích mua sản phẩm sữa cho con cái, vì theo họ, như vậy
có thể tạo ra cho trẻ mối liên hệ tiềm thức với một loại nước giải khát có cồn. Giả
sử Anchor đưa thương hiệu sữa bột vào thì chắc hẳn sản phẩm của hãng sẽ bị lép
vế hoàn toàn trước nhãn hiệu bia Anchor nổi tiếng, đồng thời bị một bộ phận lớn
dân cư Hồi giáo tẩy chay vì truyền thống tín ngưỡng lâu đời của quốc gia này.
Và quyết định của Anchor là hoàn toàn hợp lý khi tránh quảng bá những sản
phẩm trùng với những sản phẩm cấm kỵ của người Hồi giáo. Sản phẩm của KFC
không rơi vào trường hợp cấm kỵ nên đây chính là một lợi thế của KFC.
Bên cạnh đó, người Hồi giáo mua sản phẩm dựa trên 2 nguyên tắc, một là phải có
dấu Halal, hai là ngôn ngữ phải thân thiện (phải có tiếng Ảrập). Người Hồi giáo chỉ ăn, sử
dụng những gì được chứng thực Halal theo luật Shariah, đây là yêu cầu bắt buộc có từ rất
lâu của người Hồi giáo. Vì thế, nền công nghiệp Halal rất rộng lớn, mở ra nhiều cơ hội
cho các doanh nghiệp trên thế giới, như sản phẩm bánh kẹo, thực phẩm, đồ uống, sản phẩm
22
từ sữa, bánh mỳ, thực phẩm hữu cơ, thảo dược, mỹ phẩm, sản phẩm làm đẹp, dược phẩm,
nước hoa…
Hiện nay thị trường các nước Hồi giáo đang được xem là một trong những thị trường
đầy tiềm năng và rất nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp trên thế giới. Các nước Hồi giáo
yêu cầu bắt buộc đối với doanh nghiệp phải có chứng nhận Halal (quy định của Luật Hồi
giáo) đối với các sản phẩm xuất nhập khẩu vào đất nước họ. Chứng nhận sản phẩm Halal
có nghĩa là sản phẩm được xác nhận không có các thành phần Haram và đảm bảo sự tinh
khiết trong quá trình sản xuất. Dấu chứng nhận này được cấp cho 1 sản phẩm cụ thể hay
nhiều sản phẩm cụ thể trong 1 doanh nghiệp. Tuy nhiên, những yêu cầu trong đó rất khắt
khe. Cộng đồng người Hồi giáo có những phòng thí nghiệm đặc biệt để phân tích và nghiên
cứu xem các thành phần trong sản phẩm có Haram hay không, nếu có thì sản phẩm đó sẽ
bị toàn bộ cộng đồng Hồi giáo tẩy chay. Các tín đồ chỉ được ăn thịt được sản xuất theo
đúng luật Hồi Giáo gọi là Halal meat. Theo đó, người giết súc vật phải giết nó khi còn
đang sống và khi giết nó phải cầu nguyện nhân danh Chúa. Sau khi xẻ thịt súc vật phải rửa
thịt cho sạch máu. Tại Mỹ và Canada, các tiệm bán thịt theo luật Hồi Giáo đều có treo
bảng với hàng chữ HALAL Meat.
Nắm bắt được phong tục ăn uống của Đạo Hồi, thương hiệu thức ăn nhanh KFC đã
xâm nhập và thành công tại thị trường này khi thành phần thịt trong món ăn được chứng
nhận HALAL, điển hình là KFC thành công ở thị trưởng Ả rập Xê-út.
Tương tự như ở Pakistan, các nhà quản lý của KFC nắm rõ Pakistan là một quốc gia Hồi
giáo, do đó họ sử dụng gà Halal (Zibiha) 100%. KFC đã trưng bày các biểu ngữ thức ăn Halal
trên các cửa hàng để phục vụ cho nhu cầu của những người theo đạo Hồi. KFC bắt đầu các
chi nhánh của họ ở những thành phố nổi tiếng về ăn uống. Người Pakistan thích đồ ăn cay, do
đó KFC cũng cung cấp các món ăn cay tại Pakistan. KFC chú trọng tập trung vào mục tiêu
khách hàng là các gia đình do đó KFC mở chi nhánh tại các thành phố lớn của Pakistan như
Lahore, Karachi, và Islamabad, Rawalpindi. Ở những thành phố này, người dân thường có
thói quen đi ăn cùng với gia đình.
23
Điều quan trọng nhất là cách mà KFC thay đổi thói quen ăn uống của người dân địa
phương. Người dân tại Pakistan nhận thức được nhiều cửa hàng tại địa phương thiếu điều
kiện an toàn vệ sinh thực phẩm, chính vì vậy KFC đã đưa ra mô hình kinh doanh đặt vấn
đề an toàn thực phẩm lên hàng đầu. Và với phong cách tự phục vụ cũng giống như tại
nhiều quốc gia khác trên thế giới, KFC cũng đã mang ý tưởng tự phục vụ đến Pakistan.
KFC đã thành công khi có thể thay đổi thói quen của người dân địa phương với phong
cách tự phục vụ.
24