Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

luận văn: vị trí và vai trò của Ủy ban kiểm sát thông qua những quy định pháp luật như hiện nay là hết sức cần thiết cần thiết, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.37 KB, 15 trang )

A. Mở đầu
Viện kiểm sát là một cơ quan hiến định có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ
quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Thông qua hoạt
động, quyền hạn và nhiệm vụ của mình, Viện kiểm sát góp phần bảo đảm pháp luật
được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất.
Trong tình hình đất nước đang trên đà hội nhập phát triển, hệ thống pháp luật còn
tồn tại những khiếm khuyết và hạn chết nhất định. Để bảo đảm quyền và lợi ích
hợp pháp của nhân dân thì đòi hỏi chất lượng công tác tư pháp nói chung và chất
lượng công tác kiểm sát nói riêng ngày càng phải được nâng cao, Do đó việc phát
huy trí tuệ tập thể trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác kiểm sát theo nguyên tắc tập
trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách là hết sức quan trọng và cần
thiết. Để thực hiện được yêu cầu đó, việc phát huy vị trí và vai trò của Ủy ban kiểm
sát thông qua những quy định pháp luật như hiện nay là hết sức cần thiết cần thiết,
đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.


B. Nội dung
I. Khái niệm Ủy ban kiểm sát
Ủy ban kiểm sát được hiểu là cơ chế làm việc tập thể được thiết lập trong cơ cấu
tổ chức của Viện kiểm sát nhằm thảo luận những vấn đề quan trọng liên quan đến
tổ chức, hoạt động của Viện kiểm sát và đưa ra quyết định hoặc tư vấn cho Viện
trưởng để quyết định.
II. Nguyên tắc tổ chức Ủy ban kiểm sát trong Viện kiểm sát nhân dân qua các
giai đoạn.
a. Giai đoạn từ năm 1992 đến năm 2001
Ngày 15/4/1992, Quốc hội khoá VIII, tại kỳ họp thứ 11, đã thông qua Hiến pháp
năm 1992. Thể chế hoá đường lối đổi mới của Đảng, Luật Tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân năm 1992 ra đời. Theo đó, quy định nguyên tắc hoạt động của Ủy ban
kiểm sát như sau:
Uỷ ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Uỷ ban kiểm sát Viện kiểm


sát nhân dân các địa phương không còn là cơ quan tư vấn cho Viện trưởng nữa mà
có quyền thảo luận và quyết định theo đa số những vấn đề quan trọng. Vai trò của
Viện kiểm sát được quy định tại Điều 138 Hiến pháp 1992, khoản 2 Điều 28 và
khoản 2 Điều 30 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992, theo đó quy định
4 loại vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định theo đa số của Uỷ ban kiểm sát Viện
kiểm sát nhân dân tối cao và 3 loại vấn đề thuộc thẩm quyền quyết định theo đa số
của Uỷ ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân các địa phương.
b. Giai đoạn từ năm 2001 đến năm 2013
Theo quy đinh của Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2002, nguyên tắc hoạt
động của Uỷ ban kiểm sát:
Ủy ban kiểm sát làm việc tập thể, thảo luận và quyết định theo đa số những vấn
đề quan trọng như phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch công tác, dự án luật, dự án
pháp lệnh,v.v…(các Điều 32 và Điều 35 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm
2002). Khi Viện trưởng không nhất trí với ý kiến của đa số thành viên ủy ban kiểm


sát thì vẫn thực hiện theo quyết định của đa số, nhưng có quyền báo cáo lên cấp
trên. Như vậy, quy định này vừa bảo đảm mở rộng dân chủ, phát huy trí tuệ của tập
thể, vừa đề cao trách nhiệm của Viện trưởng.
c. Giai đoạn từ năm 2013 cho đến nay
Về mặt tổ chức, ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân cấp
cao, viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Viện kiểm sát quân sự Trung ương, Viện kiểm
sát quân sự quân khu và tương đương đều thành lập Ủy ban kiểm sát và được quy
định tại khoản 2 Điều 7 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014.
“Điều 7: Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân
2. Tại Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, Viện
kiểm sát nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Viện kiểm sát quân sự
trung ương, Viện kiểm sát quân sự quân khu và tương đương thành lập Ủy ban
kiểm sát để thảo luận và quyết định theo đa số những vấn đề quan trọng, cho ý kiến
về các vụ án, vụ việc trước khi Viện trưởng quyết định theo quy định tại các Điều

43, 45, 47, 53 và 55 của Luật này.”
Có thể thấy quy định tổ chức Ủy ban kiểm sát ở 3 cấp như trên là rất hợp lý. Vì:
Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh là những cấp
kiểm sát có hoạt động nghiệp vụ toàn diện, có vai trò quản lý, chỉ đạo, điều hành
viện kiểm sát cấp dưới về mọi mặt, có quan hệ chặt chẽ với tổ chức Đảng và chịu
trách nhiệm báo cáo trực tiếp trước các cơ quan dân cử. Viện kiểm sát nhân dân cấp
tỉnh bên cạnh việc thực hiện phương hướng, nhiệm vụ, kế hoạch công tác, chỉ thị,
thông tư, quyết định của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, còn phải thực hiện nhiệm
vụ chính trị của địa phương, do vậy cần thành lập Ủy ban kiểm sát để thảo luận và
quyết định những vấn đề quan trọng trong tổ chức và hoạt động của đơn vị và thảo
luận, cho ý kiến các vụ án hình sự, hành chính, vụ việc dân sự phức tạp giúp Viện
trưởng có quyết định giải quyết khách quan, đúng pháp luật. Viện kiểm sát nhân
dân cấp cao tuy có thẩm quyền không đầy đủ như các cấp kiểm sát khác (chỉ có
thẩm quyền thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm, giám đốc thẩm,


tái thẩm các vụ án), nhưng xét về vị trí, vai trò, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao là
cấp trên của Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và Viện kiểm sát nhân dân khu vực
(hoặc cấp huyện) về nghiệp vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử. Đây là
lĩnh vực công tác rất quan trọng của Viện kiểm sát nhân dân nên cần thiết phải tổ
chức Ủy ban kiểm sát để quyết định chương trình, kế hoạch, báo cáo tổng kết của
Viện kiểm sát nhân dân cấp cao về lĩnh vực công tác này; đồng thời, quyết định
những vấn đề khác về tổ chức, cán bộ của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao.
Viện kiểm sát nhân dân khu vực (hoặc cấp huyện) có nơi số lượng cán bộ ít,
không bảo đảm cho việc thành lập Ủy ban kiểm sát, đồng thời, về tính chất nhiệm
vụ thì Viện trưởng có thể quyết định ngay. Những khó khăn, vướng mắc trong công
tác nghiệp vụ của Viện kiểm sát nhân dân khu vực (hoặc cấp huyện) đã có các
phòng nghiệp vụ thuộc Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh hướng dẫn, chỉ đạo, lại
không có đơn vị cấp dưới nên không cần thiết phải thành lập Ủy ban kiểm sát.
III. Thành phần, cơ cấu của Ủy ban kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân

Về cơ cấu thành phần của Ủy ban kiểm sát của Viện kiểm sát nhân dân được
quy định trong Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 tại khoản 1 Điều 43, 45,
47.
“Điều 43. Ủy ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao
1. Ủy ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao gồm có:
a) Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
b) Các Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
c) Một số Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Ủy ban thường vụ
Quốc hội quyết địnhtheo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.”
“Điều 45. Ủy ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân cấp cao
1. Ủy ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân cấp cao gồm có:
a) Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao;
b) Các Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao;
c) Một số Kiểm sát viên.”


“Điều 47. Ủy ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh
1. Ủy ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh gồm có:
a) Viện trưởng;
b) Các Phó Viện trưởng;
c) Một số Kiểm sát viên.”
Theo đó, Viện trưởng và các Phó Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân là thành
phần đương nhiên của Ủy ban kiểm sát. Ngoài ra, còn có một số Kiểm sát viên
khác, các kiểm sát viên này ở Viện kiểm sát nhân dân tối cao do Ủy ban thường vụ
Quốc hội quyết định theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
còn nếu ở Viện kiểm sát nhân dân cấp cao và cấp tỉnh thì do Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân tối cao quyết định theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân cấp cao và cấp tỉnh.
IV. Vai trò của Ủy ban kiểm sát trong Viện kiểm sát nhân dân
Giống như Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2002, Luật tổ chức Viện kiểm

sát nhân dân năm 2014 tiếp tục quy định Ủy ban kiểm sát có quyền quyết định
những vấn đề quan trọng về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân. Ủy
ban kiểm sát các cấp hoạt động thông qua các kỳ họp do Viện trưởng chủ trì để thảo
luận và quyết định những vấn đề quan trọng về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm
sát. Khi quyết định những vấn đề quan trọng được quy định trong luật (theo các
điều 43, 45, 47, 53 và Điều 55), Ủy ban kiểm sát các cấp ban hành Nghị quyết trên
cơ sở biểu quyết của các thành viên Ủy ban kiểm sát.
Riêng đối với các vụ án hành chính, vụ án hình sự, vụ việc dân sự,… quan trọng
thì Luật không giao cho Ủy ban kiểm sát quyền quyết định như trước nữa mà chỉ có
vai trò tư vấn cho Viện trưởng khi Viện trưởng thấy cần thiết, để bảo đảm phù hợp
với quy định của các luật tố tụng về tư cách tiến hành tố tụng và đề cao trách nhiệm
cá nhân của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân.
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 quy định vai trò của ủy ban
kiểm sát các cấp, cụ thể như sau:


Thứ nhất, Ủy ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân tối cao họp do Viện trưởng
chủ trì để thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng như sau:
- Chương trình, kế hoạch công tác của ngành Kiểm sát nhân dân;
- Dự án luật, pháp lệnh trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội; báo cáo của
Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao trình Quốc hội, Ủy ban thường vụ
Quốc hội, Chủ tịch nước;
- Bộ máy làm việc của Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
- Báo cáo của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao trình Ủy ban thường
vụ Quốc hội về những ý kiến của Viện trưởng không nhất trí với nghị quyết của
Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; kiến nghị của Viện kiểm sát nhân
dân tối cao về công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm gửi Thủ tướng Chính phủ;
- Xét tuyển người đang công tác tại Viện kiểm sát nhân dân tối cao đủ điều kiện
dự thi vào ngạch Kiểm sát viên cao cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên sơ
cấp, Kiểm tra viên chính theo qui định; đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân

tối cao bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức Kiểm tra viên các
- Đề nghị Hội đồng tuyển chọn Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao
tuyển chọn, xem xét việc miễn nhiệm, cách chức Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân
dân tối cao.
Xem xét, đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm lại, miễn
nhiệm, cách chức Kiểm sát viên cao cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên sơ
cấp đang công tác tại Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Ủy ban kiểm sát ban hành nghị quyết khi thực hiện thẩm quyền. Nghị quyết của
Ủy ban kiểm sát phải được quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành; trường
hợp biểu quyết ngang nhau thì thực hiện theo phía có ý kiến của Viện trưởng.
Theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Ủy ban kiểm sát
thảo luận, cho ý kiến về các vụ án hình sự, vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn
nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động phức tạp để Viện trưởng xem
xét, quyết định.


Thứ hai, Ủy ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân cấp cao họp do Viện trưởng
chủ trì để thảo luận và quyết định những vấn đề quan trọng sau đây:
- Việc thực hiện chương trình, kế hoạch công tác, chỉ thị, thông tư và quyết định
của Viện kiểm sát nhân dân tối cao;
- Báo cáo tổng kết công tác của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao;
- Xét tuyển người đang công tác tại Viện kiểm sát nhân dân cấp cao đủ điều kiện
dự thi vào ngạch Kiểm sát viên cao cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát viên sơ
cấp;
- Xem xét, đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm lại,
miễn nhiệm, cách chức Kiểm sát viên cao cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát
viên sơ cấp đang công tác tại Viện kiểm sát nhân dân cấp cao.
Ủy ban kiểm sát ban hành nghị quyết khi thực hiện thẩm quyền tại khoản 3 Điều
45 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014. Nghị quyết của Ủy ban kiểm
sát phải được quá nửa tổng số thành viên biểu quyết tán thành; trường hợp biểu

quyết ngang nhau thì thực hiện theo phía có ý kiến của Viện trưởng. Nếu Viện
trưởng không nhất trí với ý kiến của đa số thành viên Ủy ban kiểm sát thì thực hiện
theo quyết định của đa số, nhưng có quyền báo cáo Viện trưởng Viện kiểm sát nhân
dân tối cao.
Theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao, Ủy ban kiểm sát
thảo luận, cho ý kiến về các vụ án hình sự, vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn
nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động phức tạp để Viện trưởng xem
xét, quyết định.
Thứ ba, Ủy ban kiểm sát Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh họp do Viện trưởng
chủ trì để thảo luận và quyết định những vấn đề sau đây:
- Việc thực hiện chương trình, kế hoạch công tác, chỉ thị, thông tư và quyết định
của Viện kiểm sát nhân dân tối cao; việc thực hiện chương trình, kế hoạch công tác
của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao;
- Xét tuyển người đang công tác tại Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và cấp


huyện đủ điều kiện dự thi vào ngạch Kiểm sát viên cao cấp, Kiểm sát viên trung
cấp, Kiểm sát viên sơ cấp;
- Báo cáo tổng kết công tác với Viện kiểm sát nhân dân cấp trên, báo cáo công
tác trước Hội đồng nhân dân cùng cấp;
- Xem xét, đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm lại,
miễn nhiệm, cách chức Kiểm sát viên cao cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát
viên sơ cấp đang công tác tại Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và cấp huyện.
Nghị quyết của Ủy ban kiểm sát phải được quá nửa tổng số thành viên biểu
quyết tán thành; trường hợp biểu quyết ngang nhau thì thực hiện theo phía có ý
kiến của Viện trưởng. Nếu Viện trưởng không nhất trí với ý kiến của đa số thành
viên Ủy ban kiểm sát thì thực hiện theo quyết định của đa số, nhưng có quyền báo
cáo Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
Theo đề nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, Ủy ban kiểm sát
thảo luận, cho ý kiến về các vụ án hành chính, vụ án hình sự, vụ việc dân sự, hôn

nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động phức tạp để Viện trưởng xem
xét và quyết định.
Có thể thấy, Ủy ban kiểm sát sẽ thảo luận và quyết định những vấn đề quan
trong như:
- Việc thực hiện chương trình, kế hoạch công tác, chỉ thị, thông tư và quyết định
của Viện kiểm sát nhân dân cấp trên;
- Báo cáo tổng kết công tác với Viện kiểm sát nhân dân cấp trên, báo cáo công
tác trước Hội đồng nhân dân cùng cấp;
- Xét tuyển người đủ điều kiện dự thi vào ngạch Kiểm sát viên cao cấp, Kiểm
sát viên trung cấp, Kiểm sát viên sơ cấp
- Xem xét, đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm lại,
miễn nhiệm, cách chức Kiểm sát viên cao cấp, Kiểm sát viên trung cấp, Kiểm sát
viên sơ cấp Ủy ban kiểm sát sẽ ban hành nghị quyết khi thực hiện các thẩm quyền
trên.


Nghị quyết của Ủy ban kiểm sát phải được quá nửa tổng số thành viên biểu
quyết tán thành; trường hợp biểu quyết ngang nhau thì thực hiện theo phía có ý
kiến của Viện trưởng. Khi Viện trưởng không nhất trí với ý kiến của đa số thành
viên ủy ban kiểm sát thì vẫn thực hiện theo quyết định của đa số, nhưng có quyền
báo cáo lên cấp trên cho ý kiến (lên Ủy ban Thường vụ Quốc hội nếu là Viện
trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao; lên Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao nếu là Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao và cấp tỉnh).
Như vậy, quy định này vừa bảo đảm mở rộng dân chủ, phát huy trí tuệ của tập
thể, tạo được sự đồng thuận, nhất trí cao trong việc quyết định những vấn đề quan
trọng về tổ chức và hoạt động của ngành nhưng vẫn đề cao trách nhiệm của Viện
trưởng, đó là sự kết hợp hài hòa giữa nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và
hoạt động của các cơ quan nhà nước theo quy định của Hiến pháp với nguyên tắc
tập trung thống nhất lãnh đạo trong ngành kiểm sát theo quy định tại Điều 7.
Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân.

Cùng với đó, Đây là điểm mới so với trước đó. Khi Ủy ban kiểm sát không còn
quyền quyết định như Luật tổ chức Viện kiểm sát 2002 quy định mà chỉ có vai trò
tư vấn cho Viện trưởng khi Viện trưởng thấy cần thiết, bảo đảm phù hợp với quy
định của các luật tố tụng về tư cách tiến hành tố tụng và nguyên tắc chịu trách
nhiệm trong hoạt động tư pháp của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân. theo đề
nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Ủy ban kiểm sát thảo luận, cho ý
kiến về các vụ án hình sự, vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình,
kinh doanh, thương mại, lao động phức tạp để Viện trưởng xem xét, quyết định.
Cơ sở việc quy định vai trò của Ủy ban kiểm sát như trên:
Thứ nhất, trong lịch sử xây dựng và phát triển ngành Kiểm sát nhân dân, vai trò
của Ủy ban kiểm sát qua từng thời kỳ được quy định khác nhau. Trước năm 1992,
chế định Ủy ban kiểm sát không được quy định trong Hiến pháp. Đến Hiến pháp
năm 1992 (được sửa đổi, bổ sung vào năm 2001) đã quy định Ủy ban kiểm sát thảo
luận và quyết định theo đa số những vấn đề quan trọng trong tổ chức và hoạt động


của VKSND, quy định này đã được cụ thể hóa tại các điều 32 và 34 của Luật tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2002. Đến nay, Hiến pháp sửa đổi năm 2013 đã
không còn quy định về chế định Ủy ban kiểm sát như Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi
năm 2001), mà chỉ khẳng định nguyên tắc tập trung thống nhất lãnh đạo trong
Ngành với vai trò lãnh đạo tuyệt đối của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối
cao. Do đó, để bảo đảm quán triệt nguyên tắc này, không nên quy định Ủy ban
kiểm sát có vai trò quyết định các vấn đề quan trọng của trong tổ chức và hoạt động
của Viện kiểm sát nhân dân.
Thứ hai, hiện nay, theo quy định của các luật về tố tụng tư pháp thì chỉ có Viện
trưởng, Phó Viện trưởng và Kiểm sát viên mới là chủ thể có các thẩm quyền tố
tụng, Ủy ban kiểm sát không phải là chủ thể tố tụng, do đó, không thể có vai trò
quyết định đối với việc giải quyết các vụ án hình sự, dân sự, hành chính. Tuy nhiên,
việc thảo luận về các vụ án hình sự, dân sự, hành chính phức tạp để giúp Viện
trưởng đưa ra quyết định đúng đắn là một nội dung hoạt động rất quan trọng của

Viện kiểm sát nhân dân, cần phải được giao cho Ủy ban kiểm sát thực hiện và phải
coi đây là một thủ tục bắt buộc trước khi Viện trưởng quyết định.
Tóm lại, qua những lần thay đổi luật, vai trò của Uỷ ban kiểm sát đã có sự thay
đổi từ một cơ quan giúp việc cho Viện trưởng (theo Luật Tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân năm 1981) trở thành cơ chế lãnh đạo tập thể được ghi nhận từ Luật tổ
chức Viện kiểm sát nhân dân năm 1992 cho đến hiện nay. Với vai trò đó, chức năng
phản biện đối với các quyết định của Viện trưởng trong trường hợp quyết định của
Viện trưởng trái với ý kiến tập thể của Uỷ ban kiểm sát sẽ cao và hiệu quả hơn so
với vai trò một cơ quan giúp việc, đặc biệt đối với các vấn đề quan trọng của đơn vị
của ngành vượt ngoài khả năng quyết định của cá nhân Viện trưởng. Quy định này
góp phần khắc phục sự chuyên quyền, độc đoán và nâng cao trách nhiệm của Viện
trưởng đối với những vấn đề quan trọng của ngành hoặc của đơn vị.
Tuy nhiên, không thể nói rằng việc xác lập vị trí cơ chế lãnh đạo tập thể của Ủy
ban kiểm sát sẽ làm triệt tiêu vai trò lãnh đạo của Viện trưởng theo nguyên tắc tập


trung thống nhất. Viện trưởng là người đứng đầu và trực tiếp lãnh đạo Uỷ ban kiểm
sát, do đó ý kiến của Viện trưởng trong Uỷ ban kiểm sát vẫn có giá trị quyết định
trong những trường hợp cụ thể. Song song đó, hiện nay có sự phân định rạch ròi
giữa các vấn đề do Uỷ ban kiểm sát quyết định và các vấn đề khác do Viện trưởng
trực tiếp quyết định.
Ngoài ra, trong tình hình đất nước đang trên đà hội nhập phát triển, hệ thống
pháp luật còn tồn tại những hạn chế, khiếm khuyết nhất định cần phải có sự định
hướng, hướng dẫn, giải thích pháp luật cũng như đòi hỏi về chất lượng công tác
kiểm sát ngày càng phải được nâng cao, thì việc phát huy trí tuệ tập thể trong lãnh
đạo công tác kiểm sát là hết sức quan trọng và cần thiết. Như vậy, việc xác lập cơ
chế lãnh đạo tập thể và vị trí của Ủy ban kiểm sát trong mô hình tổ chức của Viện
kiểm sát là sự đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.
Thực tiễn cho thấy quy định về vai trò của Ủy ban kiểm sát có tác động tích cực,
vừa phát huy được trí tuệ tập thể, vừa tạo được sự đồng thuận, nhất trí cao trong

việc quyết định những vấn đề quan trọng về tổ chức và hoạt động của ngành kiểm
sát. Xét cả về lý luận, việc tổ chức Ủy ban kiểm sát như Luật Tổ chức Viện kiểm
sát nhân dân năm 2002 và Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 chính là
sự kết hợp hài hòa giữa nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động
của các cơ quan nhà nước theo quy định của Hiến pháp với nguyên tắc tập trung
thống nhất lãnh đạo trong ngành kiểm sát.


C. Kết luận
Thực tiễn cho thấy hoạt động của Ủy ban kiểm sát ở 3 cấp kiểm sát Viện kiểm
sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao và Viện kiểm sát nhân dân cấp
tỉnh ở nước ta cũng cho thấy vai trò của Ủy ban kiểm sát là rất quan trọng, phát huy
dân chủ, trí tuệ tập thể, đảm bảo những quyết định của Viện kiểm sát được đưa ra
chính xác, khách quan. Do đó cần tiếp tục khẳng định vai trò và vị trí của Ủy ban
kiểm sát trong cơ cấu tổ chức Viện kiểm sát nhân dân như hiện nay, Ủy ban kiểm
sát cần có quyền quyết định những vấn đề quan trọng về tổ chức và hoạt động của
Viện kiểm sát, bao gồm cả vấn đề bổ nhiệm Kiểm sát viên. Đối với những vụ án, vụ
việc phức tạp, nghiêm trọng, Ủy ban kiểm sát có trách nhiệm xem xét, cho ý kiến
trước khi Viện trưởng quyết định.


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiến pháp 1992
2. Luật tổ chức Viện kiểm sát 1992
3. Luật tổ chức Viện kiểm sát 2002
4. Luật tổ chức Viện kiểm sát 2014
5. Giáo trình lý luận về Viện Kiểm sát – Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội
6. vienkiemsathanam.gov.vn – Bàn về vấn đề Ủy ban kiểm sát trong dự thảo Luật
tổ chức Viện kiểm sát nhân dân



MỤC LỤC




×