MỤC LỤC
STT
NỘI DUNG
TRANG
1
Mục lục
1
2
Danh mục viết tắt
2
I – ĐẶT VẤN ĐỀ
3
1. Lý do chọn đề tài
3
2. Mục tiêu nghiên cứu
3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn
3
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
3
6. Phương pháp nghiên cứu
3
7. Thời gian thực hiện
3
II – GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lý luận
4
4
2. Thực trạng của vấn đề
4-5
3. Một số phương pháp phát huy tính tích cực của học sinh
6-9
4. Áp dụng một số phương pháp cụ thể
10-11
5. Kết quả
12-13
III. KẾT LUẬN
5
6
1. Ý nghĩa
13
2. Bài học
13
3. Khả năng áp dụng
14
4. Một số kiến nghị
14
Tài liệu tham khảo
15
DANH MỤC VIẾT TẮT
TT
Danh mục viết tắt
1. Giáo dục quốc phòng- an ninh
Chữ viết tắt
GDQP-AN
2. Trung học phổ thông
THPT
3. Phương pháp dạy học
PPDH
4. Giáo viên
GV
5. Học sinh
HS
6. Công nghệ thông tin
CNTT
7. Giáo dục và đào tạo
GD&ĐT
8. Quân đội nhân dân
QĐND
9. Công an nhân dân
CAND
10. Quốc phòng toàn dân
QPTD
11. An ninh nhân dân
ANND
12. Sáng kiến kinh nghiệm
SKKN
2
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài
Trong nội dung bài giảng phần kết thúc bài giảng thường chưa được các giáo
viên tập trung chú ý, các học sinh không tập trung cao độ, chưa tự giác tích cực
trong phần này. Nên cá nhân tôi mạnh dạn tập trung thời gian nghiên cứu ứng dụng
vào nội dung bài giảng trong năm học 2017- 2018. Để nâng cao hiệu quả dạy và
học cho cá nhân tôi và chất lượng học sinh trong khối 12.
Phần kết thúc bài giảng là một trong ba phần của bài giảng, phần kết thúc bài
giảng giúp cho học sinh hệ thống được kiến thức trọng tâm của bài, thiết lập mối
liên quan về nội dung kiến thức giữa các phần. Là cầu nối với nội dung tiết tiếp
theo. Vì vậy tôi lựa chọn đề tài “ Phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh
trong phần kết thúc bài giảng môn Giáo dục quốc phòng- An ninh” khối trung học
phổ thông.
2. Mục đích nghiên cứu
Là việc lựa chọn các phương pháp dạy học tích cực kết hợp ứng dụng công
nghệ thông tin và trò chơi quân sự vào dạy học. Nhằm phát huy tính tích cực chủ
động của học sinh.
Đề tài đưa ra một số phương pháp phát huy tính tích cực, chủ động của học
sinh trong phần kết thúc bài giảng môn GDQP-AN, nhằm nâng cao chất lượng dạy
học môn GDQP-AN bậc THPT.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Học sinh trường THPT Đông Hiếu Thị Xã Thái Hòa.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
3
- Lớp 12C1, 12C2, 12C3, 12C4, 12C5, 12C6, 12C7, 12C8, 12C9 và 12C10.
- Sử dụng một số bài giảng trong chương trình GDQP-AN bậc THPT.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Hệ thống hoá cơ sở lý luận liên quan đến các phương pháp kết thúc bài
giảng. Đồng thời đề xuất một số phương pháp kết thúc bài giảng môn GDQP-AN
theo hướng phát huy tính chủ động, tích cực của HS.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu phương pháp giảng dạy môn GDQP-AN
- Nghiên cứu cấu trúc lên lớp của một bài giảng
- Nghiên cứu một số trò chơi và vận dụng một số trò chơi vào thực tiễn
6. Phương pháp nghiên cứu
- Nghiên cứu lý luận cơ sở
- Phân tích thực trạng một số vấn đề nghiên cứu
- Lý luận thực tiễn của nội dung đề tài
- Áp dụng, thống kê, so sánh, tổng hợp và đánh giá
7. Thời gian thực hiện đề tài
Từ tháng 9 năm 2017 đến tháng 3 năm 2018.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lý luận của đề tài
Trong dạy học môn GDQP-AN thì phần kết thúc bài giảng là một phần hết
sức quan trọng không thể thiếu trong toàn bộ tiến trình bài giảng, là một yếu tố dẫn
đến sự thành công của bài giảng, hệ thống toàn bộ nội dung của tiết học, bài học, là
cầu nối giữa tiết này với tiết khác.
Theo chủ trương chỉ đạo của ngành giáo dục về việc đổi phương pháp dạy
học, đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá. Hiện nay đội ngũ giáo viên giảng dạy
bộ môn GDQP-AN nói riêng đang nỗ lực đổi mới phương pháp dạy học (PPDH)
theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, chống lại thói quen thụ động
của HS trong hoạt động học tập. Mục đích của việc đổi mới PPDH là thay đổi
phương pháp dạy học truyền thụ một chiều sang dạy học theo “ Phương pháp dạy
học tích cực” nhằm giúp HS phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo, rèn
luyện thói quen và khả năng học tập, tinh thần hợp tác, vận dụng kiến thức, kĩ năng
vào những tình huống khác nhau trong học tập và trong thực tiễn cuộc sống; giúp
4
cho học sinh có sự hứng thú, niềm tin, niềm vui trong học tập; nâng cao chất lượng
dạy và học.
Phần kết thúc bài giảng giúp HS hệ thống lại kiến thức, kĩ năng trọng tâm
của bài, nhớ lại và khắc sâu kiến thức, kĩ năng. Ngoài việc xác định kiến thức, kĩ
năng trọng tâm, HS còn có thể tự đánh giá kết quả học tập của mình. Từ đó các em
có thể điều chỉnh lại phương pháp học sao cho phù hợp. GV sẽ giúp học sinh phát
huy tính tích cực, chủ động trong việc tiếp thu nội dung bài, đồng thời mở rộng và
phát triển tư duy cho HS. Kết thúc bài giảng còn tạo điều kiện tương tác giữa HS và
GV. Điều đó tạo hứng thú học tập cho học sinh, nuôi dưỡng bầu không khí lớp học,
tạo điều kiện để HS phát biểu ý kiến.
Kết thúc bài giảng là một trong ba phần của quá trình lên lớp. Qua đó, giáo
viên nắm được khả năng tiếp thu bài của học sinh để có biện pháp sửa chữa, bổ
sung kiến thức kịp thời. Từ đó giáo viên sẽ điều chỉnh phương pháp dạy học phù
hợp với nội dung. Đồng thời giáo viên cũng đánh giá được thái độ, tinh thần, ý thức
học tập của HS.
Như vậy, trong dạy học nói chung và dạy học môn GDQP-AN nói riêng,
giáo viên sử dụng tốt phương pháp trong phần kết thúc sẽ góp phần rất lớn mang lại
hiệu quả cho bài giảng, phát huy tối đa tính chủ động, tích cực của HS, nâng cao
chất lượng dạy và học.
2. Thực trạng của vấn đề
2.1. Những thuận lợi
Trong những năm qua, bộ môn GDQP-AN nhận được sự quan tâm của các
cấp, các ngành. Bộ GD&ĐT đã hoàn chỉnh và ban hành chương trình, SGK môn
GDQP-AN theo quyết định Số 79/2007/QĐ-BGDĐT, thông tư Số: 02/2017/TTBGDĐT của Bộ giáo dục và đào tạo ngày 13 tháng 01 năm 2017 về việc ban hành
chương trình giáo dục quốc phòng an ninh. Hàng năm Vụ GDQP-AN tổ chức các
lớp tập huấn cho cán bộ cốt cán về thực hiện chương trình, đổi mới PPDH, đổi mới
phương pháp kiểm tra đánh giá, ứng dụng CNTT vào dạy học, sử dụng đồ dùng,
trang thiết bị dạy học, cập nhật những sửa đổi bổ sung của Điều lệnh quản lí, Điều
lệnh đội ngũ,…
Sở GD&ĐT Nghệ An mở các lớp tập huấn, triển khai các nội dung tập huấn
cấp bộ cho GV GDQP-AN chuyên trách và bán chuyên trách trong toàn tỉnh.…
Ban giám hiệu trường THPT Đông Hiếu luôn dành sự quan tâm, lãnh đạo,
chỉ đạo, kiểm tra đối với tổ, nhóm chuyên môn và giáo viên trong thực hiện chương
trình, thực hiện việc đổi mới PPDH, đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá,
khuyến khích và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho giáo viên tham dự các lớp bồi
dưỡng chuyên môn cấp Bộ và Sở. Nhà trường đảm bảo về cơ sở vật chất, trang
5
thiết bị dạy và học, chế độ trang phục, chế độ bồi dưỡng giờ dạy.… giúp giáo viên
an tâm công tác, nâng cao hiệu quả giảng dạy.
Bản thân tôi được nhà trường cử tham dự các lớp tập huấn do Sở Giáo dục
và Đào tạo tổ chức để triển khai lại cho đội ngũ GV GDQP-AN trong nhà trường.
Được học hỏi kinh nghiệm qua dự giờ các đồng nghiệp giảng dạy bộ môn GDQPAN tại các trường THPT trong Tỉnh. Trong quá trình công tác luôn nhận được sự
quan tâm của lãnh đạo, tổ chuyên môn, sự giúp đỡ của đồng nghiệp, sự tin tưởng,
hợp tác của HS. Bản thân tôi tâm huyết với bộ môn, luôn nỗ lực, tìm tòi, áp dụng
những biện pháp, phương pháp dạy học tích cực để nâng cao chất lượng bộ môn,
góp phần giáo dục cho HS phát triển toàn diện.
2.2. Những hạn chế
Qua thực tế giảng dạy, dự giờ đồng nghiệp ở trường và đồng nghiệp bộ môn
GDQP-AN ở các trường THPT trong Thị Xã Thái Hòa, tôi nhận thấy bước đầu
Giáo viên đã áp dụng một số PPDH mang tính tích cực vào trong bài giảng nói
chung và phần kết thúc bài giảng nói riêng. Đồng thời sử dụng các trò chơi vào
phần kết thúc bài giảng làm tăng hiệu quả và thành công cho tiết dạy. Tuy nhiên,
nhìn chung việc thực hiện đổi mới PPDH theo hướng tích cực, chủ động còn chậm
chuyển biến. Việc sử dụng phương pháp dạy học trong phần kết thúc bài giảng còn
bị GV xem nhẹ, thực hiện qua loa đại khái, mang tính hình thức, thậm chí bỏ qua.
Một bộ phận HS chưa mạnh dạn, chủ động tham gia vào các hoạt động học tập ảnh
hưởng đến việc tiếp thu, hệ thống và ghi nhớ các kiến thức của bài học, lâu dần
hình thành thói quen học tập thụ động…
Nguyên nhân: Một bộ phận giáo viên chưa nhận thức đầy đủ về vai trò, vị trí,
tầm quan trọng của phần kết thúc bài giảng, còn hạn chế về chuyên môn (chỉ qua
lớp đào tạo ngắn hạn 3, 6 tháng), ngại áp dụng các PPDH tích cực vào trong tiết
dạy, hiệu quả của các lớp tập huấn đổi mới PPDH chưa cao, do áp lực thời gian…
HS có tấm lí coi nhẹ môn học GDQP-AN do phải tập trung cho các môn thi THPT
QG… Trang thiết bị phục vụ cho dạy học chưa đáp ứng đủ số lượng, đảm bảo về
chất lượng.
3. Một số phương pháp phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong
phần kết thúc bài giảng môn GDQP-AN
Trong thực tế giáo viên thường vận dụng các phương pháp sau vào phần bài
giảng:
Phương pháp kết thúc bài giảng bằng phương pháp thiết kế và sử dụng các sơ
đồ, bảng biểu, tranh ảnh, phim tài liệu.
Phương pháp này giúp HS hiểu được kiến thức thông qua khả năng phân
tích, so sánh và móc nối, liên hệ các kiến thức.
6
Thường áp dụng với những bài lý thuyết, mang tính so sánh hay tổng quát,
có thể sử dụng các sơ đồ, bảng biểu, tranh ảnh, phim tài liệu,…
Phương pháp kết thúc bài giảng bằng phương pháp sử dụng hệ thống câu hỏi,
bài tập
Phương pháp này đánh giá việc học của HS, rèn cho học sinh khả năng diễn
đạt. Nhưng sẽ tạo áp lực cho các HS tiếp thu chậm và không hiểu bài ngay tại lớp.
Phương pháp này thường áp dụng đối với những bài học lý thuyết.
Phương pháp kết thúc bài giảng bằng phương pháp cho học sinh tự tổng hợp
kiến thức
Phương pháp củng cố này rèn cho học sinh kĩ năng trình bày vấn đề trước
đám đông và kĩ năng tóm lược vấn đề. Phương pháp này áp dụng với những bài nội
dung đơn giản, dễ tổng hợp lại kiến thức.
Để khắc phục những hạn chế đã nêu ở trên tôi mạnh dạn đề xuất một số
phương pháp kết thúc bài giảng mà bản thân tôi đã tìm tòi, vận dụng có hiệu quả
như sau:
3.1. Kết thúc bài giảng bằng phương pháp hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách
quan.
Phương pháp này giúp kiểm tra đánh giá nhận thức của HS, khảo sát được số
lượng lớn HS, kết quả khảo sát nhanh. Qua đó cũng giúp HS nắm lại những nội
dung kiến thức trọng tâm của bài một cách cô đọng, tạo sự hứng thú cho HS và sự
sinh động của tiết học. Phương pháp này cũng phù hợp với yêu cầu đổi mới kiểm
tra, đánh giá hiện nay.
Hạn chế của phương pháp này là đòi hỏi GV phải có sự chuẩn bị, tốn công
sức. HS có thể đoán mò đáp án. Hạn chế sự phát triển tư duy, khả năng diễn đạt
bằng ngôn ngữ của HS.
* Công tác chuẩn bị: GV căn cứ vào chuẩn kiến thức kĩ năng để biên soạn hệ
thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan theo các dạng: câu trắc nghiệm đúng-sai, câu
trắc nghiệm có nhiều lựa chọn, câu trắc nghiệm ghép hợp, điền vào chỗ trống,…
GV có thể biên soạn trên giấy khổ lớn A0 hoặc soạn trên Powerpiont để tăng tính
sinh động.
Thời gian cho phần củng cố thường từ 5 đến 7 phút vì vậy khi soạn câu hỏi
trắc nghiệm, GV nên chọn những nội dung trọng tâm, có hệ thống, đầy đủ các dạng
câu trắc nghiệm, số lượng câu hỏi phù hợp từ 8 đến 10 câu. Làm phiếu trả lời nếu
muốn kiểm tra nhận thức của cả lớp.
* Công tác tổ chức: GV nêu hoặc trình chiếu trên màn hình hệ thống các câu
hỏi, giành thời gian cho HS suy nghĩ, động viên khuyến khích HS xung phong trả
7
lời. Đối với những HS thụ động, thiếu tích cực, GV có thể chỉ định. HS trả lời bằng
cách giơ tay hoặc điền vào phiếu trả lời.
Để tạo sự sinh động, thi đua và rèn luyện kĩ năng làm việc tập thể, GV nên tổ
chức lớp thành các nhóm. Thời gian suy nghĩ và trả lời cho mỗi câu khoảng 15
giây, các nhóm trả lời bằng cách viết ra giấy A4, bảng, hoặc điền vào phiếu trả lời.
Cuối phần củng cố, GV công bố đáp án, tổng kết, đánh giá, sửa sai (có thể đánh
giá, sửa sai từng câu) và phát thưởng động viên nếu có.
Kinh nghiệm của bản thân tôi để tăng sự hứng khởi cho HS và dễ dàng tiến
hành, tôi soạn các câu trắc nghiệm này trên Powerpiont và chia lớp thành các
nhóm.
3.2. Kết thúc bài giảng bằng phương pháp trò chơi tổ chức trong phòng học
Phương pháp này tạo sự hứng thú, huy động sự tham gia của nhiều HS, tạo
bầu không khí tích cực, tươi vui, đoàn kết cho lớp học, giải tỏa áp lực của tiết học,
giúp HS khắc sâu kiến thức theo phương châm “Chơi mà học, học mà chơi”. Qua
đó GV cũng có thể kiểm tra được mức độ nhận thức của HS để bổ sung những
khiếm khuyết, hệ thống được nội dung trọng tâm của bài, góp phần hình thành, rèn
luyện, bồi dưỡng kĩ năng cho HS.
Hạn chế của phương pháp: Công tác chuẩn bị của GV đòi hỏi nhiều trí tuệ,
thời gian, mất nhiều công sức. Mất nhiều thời gian khi tổ chức cho HS tham gia trò
chơi. Do vậy khi thiết kế các trò chơi GV cần đảm bảo được sự cô đọng, đơn giản,
dễ chơi nhưng vẫn đảm bảo nội dung trọng tâm của tiết học. Chủ yếu tiến hành
trong các kiểu bài lý thuyết.
Dưới đây là là một số kiểu trò chơi mà bản thân tôi đã tìm tòi, nghiên cứu và
áp dụng:
3.2.1. Trò chơi ô chữ
Áp dụng cho các bài lý thuyết.
* Công tác chuẩn bị: GV căn cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng của bài để biên
soạn các câu hỏi trong trò chơi ô chữ. GV thiết kế ô chữ trên giấy khổ A0 hoặc thiết
kế trên Powerpiont (có thể tham khảo tài liệu về cách thiết kế ô chữ trên Internet).
Do thời gian củng cố có hạn nên các ô chữ tập trung vào nội dung trọng tâm của
bài. Mỗi hàng ngang sẽ có một từ khóa hoặc là một gợi ý để tìm ra ô chữ đặc biệt.
Ô chữ đặc biệt sẽ là một nội dung trọng tâm nhất, kiến thức căn bản nhất của bài.
Biên soạn luật chơi, chuẩn bị các phần thưởng, mẫu ô chữ và các công tác chuẩn bị
khác. HS chuẩn bị giấy trắng, bút hoặc bảng đen, phấn để trả lời. Để tăng thêm tính
sinh động GV nên thiết kế ô chữ trên Powerpiont kết hợp âm thanh, hình ảnh,
video, flash…
8
* Công tác tổ chức:
Đối với GV: Chia lớp từ 4 đến 6 nhóm (đội) tùy vào số lượng HS từng lớp.
GV nêu ngắn gọn luật chơi, phần thưởng cho đội thắng cuộc nếu có (đối với tiết
đầu tiên áp dụng trò chơi này). Chọn một số thành viên ban cán sự lớp để hỗ trợ
cho GV. Cho đại diện các nhóm lựa chọn các ô hàng ngang. Đọc câu hỏi, nêu gợi ý
nếu cần. Công bố đáp án sau khi hết thời gian qui định. Tổng kết, đánh giá, phát
thưởng.
Đối với HS: HS các nhóm cử ra nhóm trưởng (đội trưởng) để đại diện nhóm
(đội) lựa chọn câu hỏi và công bố câu trả lời bằng lời hoặc viết vào mẫu ô chữ.
Tích cực thảo luận đóng góp, tìm đáp án.
3.2.2. Thi hát ca khúc
Thường áp dụng cho một số bài lý thuyết mang tính giáo dục cho về lịch sử,
truyền thống, trách nhiệm của HS như: Lịch sử đánh giặc giữ nước của dân tộc Việt
Nam; Lịch sử, truyền thống của Quân đội và CAND Việt Nam; Thường thức phòng
tránh một số loại bom đạn, thiên tai; Luật nghĩa vụ quân sự và trách nhiệm của HS;
Bảo vệ chủ quyền lãnh thổ và biên giới quốc gia; Một số hiểu biết về nền QPTD,
ANND; Tổ chức quân đội và CAND Việt Nam, Luật sĩ quan quân đội và Luật
CAND; Công tác phòng không nhân dân; Trách nhiệm của HS với nhiệm vụ bảo vệ
an ninh quốc gia….
* Công tác chuẩn bị:
Đối với GV: GV căn cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng, nội dung trọng tâm
của tiết học hoặc của toàn bài để lựa chọn chủ đề và các bài hát có liên quan đến
chủ đề. Hướng dẫn HS sưu tầm, tập dượt các bài hát. Chuẩn bị âm thanh và các
công tác chuẩn bị khác.
Đối với HS: Sưu tầm, tìm hiểu, tập dượt các bài hát theo chủ đề đã được GV
định hướng.
* Công tác tổ chức:
Đối với GV: GV nêu chủ đề, khuyến khích, động viên HS trình bày các ca
khúc phù hợp với chủ đề hoặc chính GV sẽ là người trình bày bài hát. Yêu cầu HS
nêu ý nghĩa của bài hát. GV bổ sung, phân tích các ca từ có ý nghĩa, có liên quan
đến chủ đề.
Đối với học sinh: Mạnh dạn, tự tin trình bày ca khúc theo chủ đề đã chuẩn bị.
Nêu ý nghĩa của bài hát, tự liên hệ đến nội dung bài.
3.3.3. Kết thúc bài giảng bằng phương pháp trò chơi quân sự
9
Đây là phương pháp đặc thù của bộ môn. Áp dụng cho các nội dung thực
hành như: Đội ngũ từng người không có súng; Đội ngũ đơn vị; Cấp cứu ban đầu tai
nạn thông thường và băng bó vết thương; Kỹ thuật bắn súng tiểu liên AK và súng
trường CKC; Kỹ thuật sử dụng lựu đạn; Kỹ thuật cấp cứu và chuyển thương; Các
tư thế, động tác cơ bản vận động trên chiến trường; Lợi dụng địa hình, địa vật.
Thường dùng để củng cố kĩ năng cho từng tiết nhưng chủ yếu là cho toàn bài.
Phương pháp này đặc biệt tạo ra sự hứng thú, phấn khích của HS trong tiết
học, là một phương pháp củng cố bài nhẹ nhàng nhưng hiệu quả, rèn luyện cho HS
các kĩ năng quân sự và kĩ năng sinh hoạt tập thể.
Tuy nhiên để thực hiện được phương pháp này đòi hỏi GV phải nắm vững
mục tiêu, kiến thức trọng tâm của bài. GV cũng cần có một số kĩ năng như: Kĩ
năng thiết kế trò chơi, kĩ năng quản trò, kĩ năng sinh hoạt tập thể,… GV phải mất
thời gian, công sức để thiết kế, tổ chức.
* Công tác chuẩn bị:
Đối với GV: GV căn cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng của bài để thiết kế trò
chơi. Đảm bảo nguyên tắc đơn giản, dễ chơi, phù hợp với thời gian, đúng trọng tâm
của bài (có thể liên hệ với các kĩ năng quân sự HS đã được trang bị ở các tiết trước,
bài trước, lớp trước), phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi của HS. Biên soạn luật chơi,
chuẩn bị vật chất, thiết kế sân chơi, bãi tập, tập huấn đội mẫu (nếu cần), chuẩn bị
phần thưởng (nếu có) và các công tác chuẩn bị khác.
Đối với HS: Nghiên cứu trước nội dung, tự rèn luyện các kĩ năng đã được
GV hướng dẫn, chuẩn bị những vật chất do GV qui định. Tham gia thảo luận đóng
góp ý kiến.
* Công tác tổ chức: Thường củng cố vào cuối tiết học hoặc cuối bài. GV phổ
biến ngắn gọn luật chơi, giới thiệu điều kiện sân chơi bãi tập. Chọn một số thành
viên ban cán sự lớp để hỗ trợ GV. Sử dụng đội mẫu nếu cần. Tiến hành theo kế
hoạch. Cuối trò chơi GV đánh giá, sửa sai, tổng kết, phát thưởng.
4. Áp dụng một số phương pháp cụ thể vào bài giảng
Ví dụ 1: Bài 2 lớp 12- Một số hiểu biết về nền quốc phòng toàn dân an
ninh nhân dân.
Để củng cố nội dung trọng tâm của bài “ Một số hiểu biết về nền quốc
phòng toàn dân an ninh nhân dân”, tôi sử dụng phương pháp củng cố bài bằng “
Trò chơi ô chữ”. Cách thức tiến hành cụ thể như sau:
* Công tác chuẩn bị: Dựa vào chuẩn kiến thức, kĩ năng của toàn bài và nội
dung trọng tâm của bài học, tôi thiết kế bài giảng trên Powerpiont. Phần củng cố
bài tôi thiết kế Trò chơi ô chữ với 7 ô hàng ngang, ô chữ đặc biệt có 7 chữ cái. Biên
10
soạn câu hỏi, gợi ý cho mỗi ô hàng ngang . Chuẩn bị khung Trò chơi ô chữ biên
soạn trên Word, in thành một số bảng để phát cho HS.
* Công tác tổ chức: Tôi chia lớp thành 8 nhóm, chọn nhóm trưởng. Chọn lớp
trưởng, Bí thư chi đoàn trợ giúp. Phát mẫu ô chữ cho các nhóm. Phổ biến luật chơi:
Mỗi nhóm được quyền lựa chọn một ô chữ bất kì. GV đọc câu hỏi và gợi ý, trong
thời gian 15 giây toàn nhómi suy nghĩ. HS trả lời bằng giấy hoặc giành quyền trả
lời bằng cách giơ tay( có thể sử dùng cờ), mỗi câu trả lời đúng sẽ có một từ khóa in
đậm xuất hiện. Các từ khóa xuất hiện không theo thứ tự. Đội trả lời đúng được 10
điểm. Trả lời sai mất quyền ưu tiên cho các đội còn lại. Trả lời ô chữ đặc biệt bất cứ
lúc nào. Ô chữ đặc biệt có 7 chữ cái (viết hoa không dấu). Phần thưởng có giá trị về
tinh thần.
* Tiến hành trò chơi trong 5-7 phút. Kết thúc trò chơi GV tổng kết, nhận xét,
qua đó hệ thống lại các nội dung trọng tâm.
Trò chơi ô chữ
+ Ô chữ hàng ngang.
C Ủ
A D
Â
N D
O D
Â
N V
À V
Ì
D Â
C
H Í
N
H T
R Ị
T
I
N
H T
H
Ầ N
Q
U Ố
C
P H
Ò N
G
A N
N I
N
H
I
H
T Ế
K
N
N
+ Ô chữ đặc biệt.
H
Ọ
C
S
I
N
H
Câu hỏi gợi ý cho các ô hàng ngang như sau:
1. Hàng ngang số 1 có 18 chữ cái : Một đặc điểm của nền QPTD, ANND?
Đáp án “ của dân, do dân và vì dân”
2. Hàng ngang số 2 có 16 chữ cái: “…là nhân tố tạo nên tiềm lực quốc phòng an
ninh”.
Đáp án: Tiềm lực chính trị, tinh thần.
3. Hàng ngang số 3 có 15 chữ cái: “Một trong các biện pháp xây dựng nền QPTD,
ANND là tăng cường công tác giáo dục...”
Đáp án: Quốc phòng an ninh
4. Hàng ngang số 4 có 6 chữ cái: “ Xây dựng tiềm lực... góp phần ổn định, phát
triển kinh tế xã hội, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân”.
11
Đáp án: Kinh tế
* Ô chữ đặc biệt có 7 chữ cái
Xây dụng nền QPTD, ANND là trách nhiệm của toàn dân, trong đó ... có
vị trí và vai trò quan trọng.
Đáp án: Học sinh
Ví dụ 2: Bài 6 lớp 12 – Các tư thế vận động trên chiến trường
Để củng cố các kĩ năng vận động trên chiến trường, tôi vận dụng phương
pháp kết thúc bài giảng bằng “Trò chơi quân sự”. Cách thức tiến hành như sau:
* Công tác chuẩn bị:
+ Thiết kế trò chơi: Căn cứ vào chuẩn kiến thức, kĩ năng của bài, liên bài, nội dung
trọng tâm của tiết học (tiết luyện tập) tôi thiết kế trò chơi như sau:
Tên trò chơi: “ Chiến thuật”
Số đội chơi: 4 đội. Học sinh trên vai trò chiến sĩ.
Số thành viên mỗi đội 3.
Thời gian: 5 phút.
Điểm xuất phát: các chiến sĩ được trang bị sử dụng súng tiểu liên AK mô
hình, vận động vượt qua chướng ngại vật đến vị trí qui định( ụ cát), thực hiện tuần
tự các nội dung khom cao, khom thấp, chạy khom, bò cao, lê, trườn và vọt tiến.
Cách tính thành tích: Đội hoàn thành sớm nhất, đúng kĩ thuật nhất sẽ được
tuyên dương khen thưởng
+ Thiết kế sân chơi: Chọn vị trí sân rộng, bố trí các chướng ngại vật, bia số 4a
tượng trưng cho mục tiêu địch.
+ Chuẩn bị vật chất: Súng tiểu liên AK, lựu đạn, bia số 4a, cờ, còi.
* Công tác tổ chức: GV cho tập trung lớp, giới thiệu sơ đồ sân chơi, giới thiệu ngắn
gọn luật chơi, qui ước kí tín hiệu, mục tiêu. Lập các đội chơi (từng tiểu đội). Tiến
hành theo kế hoạch. Tổng kết, đánh giá, trao đổi với HS, rút kinh nghiệm.
5. Kết quả của đề tài
Qua thực tiễn giảng dạy tôi nhận thấy kết quả học tập môn GDQP-AN lớp do
tôi phụ trách có sự cải thiện rõ rệt. Đa phần HS học tập với thái độ, tinh thần học
tập tự giác, tích cực và chủ động. Hăng say học tập và luyện tập các nội dung thực
hành...
Kết quả cụ thể khi áp dụng SKKN theo kết quả của học sinh và theo phiếu
trả lời câu hỏi để thu thập thông tin từ học sinh các lớp.
12
Bảng 1: So sánh kết quả môn GDQP-AN năm 2016- 2017 và học kì 1 năm học
2017- 2018 như sau:
NĂM HỌC
KẾT QUẢ
YẾU
2016-2017
2017-2018( HKI)
TB
KHÁ
GIỎI
1.57%
0.53%
19.52%
78.88%
0%
0%
6.46%
93.54%
Bảng 2: So sánh kết quả áp dụng SKKN thông qua hệ thống câu trả lời của
học sinh.
Bài 4 lớp 12- Nhà trường quân đội công an và tuyển sinh đào tạo
Nội dung chủ yếu trong phần kết thúc bài giảng:
- Tiêu chuẩn tuyển sinh vào nhà trường quân đội, công an.
Số lượt HS
Phương pháp
Nhận xét của HS
tham gia trả qua tiết học
lời
Hứng thú
Không
Kết thúc bài bằng hệ thống câu hỏi 351/358
90/358
261/358
Kết thúc bài bằng trò chơi ô chữ
326/358
32/358
358/358
Bài 6 lớp 12 – Các tư thế vận động trên chiến trường
Nội dung chủ yếu trong phần kết thúc bài giảng:
- Các tư thế, động tác vận động cơ bản trên chiến trường.
Phương pháp
Số lượt HS
tham gia trả
lời
Nhận xét của HS
qua tiết học
Hứng thú
Không
Kết thúc bài bằng hệ thống câu hỏi 351/358
trắc nghiệm
103/358
248/358
Kết thúc bài bằng trò chơi quân sự
284/358
77/358
351/358
III. KẾT LUẬN
1. Ý nghĩa của SKKN
13
Phần kết thúc bài giảng là khâu hết sức quan trọng trong một tiết dạy. Tiết
dạy sẽ thực sự thành công nếu GV có phương pháp kết thúc bài giảng hợp lí với
từng bài, từng lớp và từng đối tượng HS. Qua đề tài tôi đã đề xuất các phương pháp
kết thúc bài giảng theo hướng phát huy tích tích cực, chủ động của HS là:
+ Kết thúc bài giảng bằng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan.
+ Kết thúc bài giảng bằng các trò chơi tổ chức trong phòng học: Trò chơi ô chữ;
Thi hát các ca khúc theo chủ đề.
+ Kết thúc bài giảng bằng trò chơi quân sự.
2. Bài học kinh nghiệm
Qua thực tiễn dạy học áp dụng các phương pháp kết thúc bài giảng trên đã
góp phần thu hút HS tham gia vào tiết học, HS tích cực hơn trong nhận thức, quan
tâm, hứng thú hơn đối với môn học. Đương nhiên GV sẽ phải mất nhiều thời gian
tốn nhiều tâm lực, sức lực để đạt được kết quả mong muốn. Trong phần kết thúc bài
giảng, GV cần căn cứ vào nội dung, mức độ cần đạt về mục tiêu dạy học, thời gian
thực hiện và đối tượng HS để có thể lựa chọn phương pháp sao cho phù hợp. GV
cần vận dụng tổng hợp và sáng tạo các phương pháp dạy học mới lạ, hấp dẫn, đồng
thời ứng dụng CNTT vào soạn giảng sẽ tăng hiệu quả của các phương pháp, lôi
cuốn sự tham gia tích cực của HS. Ví dụ: đối với phương pháp kết thúc bài giảng
bằng hệ thông câu hỏi trắc nghiệm khách quan GV có thể thiết kế thành trò chơi
phỏng theo trò chơi Rung chuông vàng của VTV3,...
3. Khả năng áp dụng của SKKN
Khi áp dụng đề tài vào giảng dạy, SKKN giúp học sinh hứng thú học tập,
tích cực, chủ động xây dựng bài học. Đồng thời hăng say nghiên cứu, tìm tòi tài
liệu phục vụ môn học... Do vậy kết quả học tập của các em trong học kì 1 năm
2017-2018 đạt kết quả rất cao. Không có học sinh nào đạt kết quả yếu, kém.
4. Một số kiến nghị
Để nâng cao hiệu quả dạy học môn GDQP-AN nói chung cũng như đẩy
mạnh việc đổi mới phương pháp dạy học tích cực trong đội ngũ GV tôi mạnh dạn
kiến nghị một số vấn đề sau:
Thứ nhất: Cần quán triệt sâu rộng, nhất quán đến tất các GV về mục đích,
yêu cầu, nguyên tắc của việc đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực.
Thứ hai: Tổ chức thường xuyên và nâng cao chất lượng các lớp bồi dưỡng
chuyên môn về đổi mới PPDH, đổi mới phương pháp kiểm tra đánh giá.
14
Thứ ba: Định kì tổ chức các cuộc hội thảo chuyên đề về đổi mới phương
pháp, báo cáo SKKN, hội giảng cấp tỉnh để GV bộ môn có dịp gặp gỡ, học tập, trao
đổi kinh nghiệm nhất là những kinh nghiệm tốt về các PPDH tích cực.
Thứ tư: Nâng cao hơn nữa số lượng cũng như chất lượng của các trang thiết
bị, đồ dùng dạy học.
Để đề tài hoàn chỉnh hơn, tôi rất mong nhận được sự nhận xét, đánh giá, góp
ý của Hội đồng khoa học giáo dục nhà trường; tổ, nhóm chuyên môn cùng các
đồng nghiệp.
15
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. GDQP-AN lớp 10 - SGK (Nxb Giáo dục - Xuất bản 2017)
2. GDQP-AN lớp 10 - SGV (Nxb Giáo dục - Xuất bản 2006)
3. GDQP-AN lớp 11 - SGK (Nxb Giáo dục - Xuất bản 2017)
4. GDQP-AN lớp 11 - SGV (Nxb Giáo dục - Xuất bản 2006)
5. GDQP-AN lớp 12 - SGK (Nxb Giáo dục - Xuất bản 2017)
6. GDQP-AN lớp 11 - SGV (Nxb Giáo dục - Xuất bản 2006)
7. Phương pháp giảng dạy môn GDQP-AN - (Sách tập huấn giáo viên cốt
cán của Bộ giáo dục)
8. Một số phương pháp củng cố bài giảng của tác giả: Lê Thanh Bách
16
TRƯỜNG THPT ĐÔNG HIẾU
TỔ SINH THỂ
PHIẾU THU THẬP THÔNG TIN
-
Họ và tên: ( Học sinh có thể không ghi mục này)
- Lớp:
Bạn hãy trả lời các câu hỏi sau và khoanh tròn vào đáp án bạn chọn.
Câu 1: Trong nôi dung lí thuyết bạn hứng thú học tập khi giáo viên kết thúc bài
giảng bằng.
a. Hệ thống câu hỏi.
b. Trò chơi ô chữ.
Câu 2: Trong nội dung thực hành bạn hứng thú học tập khi giáo viên kết thúc bài
giảng bằng.
a. Các câu hỏi trắc nghiệm.
b. Các trò chơi quân sự.
17