Tải bản đầy đủ (.doc) (249 trang)

Ẩn dụ tri nhận trong ca từ trịnh công sơn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.05 MB, 249 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
1.1. Ẩn dụ vốn thường được xem là vấn đề của bản thân ngôn ngữ, bao gồm
một số biểu trưng hiểu theo nghĩa bóng, dựa trên các ngôn từ chứa đựng nghĩa đen.
Ẩn dụ vốn được các nhà tu từ học quan tâm nghiên cứu, thường được coi là cách
thức chuyển đổi tên gọi dựa trên sự so sánh ngầm giữa hai sự vật có sự tương đồng
hay giống nhau. Cơ chế của ẩn dụ tạo ra sự chuyển đổi nghĩa phổ biến nhất trong tất
cả các ngôn ngữ. Có thể xem so sánh ngầm là quy trình cơ bản để hiểu về ẩn dụ.
Quan điểm truyền thống này về ẩn dụ có từ thời Aristotle, được nhiều nhà ngôn ngữ
học cấu trúc luận trên thế giới đồng tình và khẳng định. Trong Việt ngữ học, ẩn dụ
được xem xét theo hai góc độ. Thứ nhất, là đối tượng nghiên cứu của từ vựng học,
ẩn dụ là một trong những phương thức chuyển nghĩa cơ bản của các đơn vị từ vựng
dựa vào mối quan hệ tương đồng giữa sự vật - đối tượng. Thứ hai, là đối tượng
nghiên cứu của phong cách học, ẩn dụ là một biện pháp tu từ nhằm tạo nên những
biểu tượng trong nhận thức của con người, được khảo sát trong những ngữ cảnh cụ
thể, gắn liền với văn bản.
Trong ba thập niên gần đây, định nghĩa về ẩn dụ đã có sự thay đổi mang tính
đột phá khi các nhà ngôn ngữ học tri nhận cho rằng ẩn dụ còn là một công cụ tri
nhận hữu hiệu để con người ý niệm hoá các khái niệm trừu tượng. Ẩn dụ không chỉ
còn đơn thuần là hình thái ngôn ngữ như quan điểm cấu trúc luận, mà nó còn là hình
thái tư duy của con người về thế giới. Tư duy ẩn dụ dựa trên cơ sở các ý niệm. “Ý
niệm” (“concept”), trong tiếng Anh, được Từ điển Tâm lý học Oxford giải thích là
“một biểu hiện tinh thần, một ý tưởng, hay một tư tưởng tương ứng với một thực thể
riêng biệt hay một lớp các thực thể, hoặc đó là việc định nghĩa hay là những thuộc
tính điển dạng của thực thể hay lớp các thực thể đó, vốn có thể là cụ thể hay là trừu
tượng” [Dẫn theo 68, 18]. Các nhà ngôn ngữ học tri nhận cho rằng các đơn vị ngôn
ngữ (từ, ngữ, kết cấu) đều biểu đạt các ý niệm và những ý niệm này đều tương ứng
với các ý nghĩa của những đơn vị ngôn ngữ đó. Mỗi khi tạo sinh một phát ngôn, một
cách vô thức, con người đã cấu trúc mọi phương diện của kinh nghiệm mà ta có ý
định truyền tải và sử dụng quá trình ý niệm hóa cho phát ngôn đó. Ý niệm hóa bao
1




hàm tất cả các quá trình tư duy (hay bất cứ sự trải nghiệm tinh thần nào của con
người). Quá trình này chính là quá trình nhận thức của con người trong việc tạo ra ý
niệm: các thông tin mà con người tri giác từ thế giới khách quan được tích hợp lại
trong một hình ảnh tinh thần đơn lẻ, hình ảnh này, như một thứ ý nghĩa quy ước,
được gắn với âm thanh của một ngôn ngữ để diễn đạt cái mảnh thế giới khách quan
đó một cách khái quát.
Ngôn ngữ học tri nhận (cognitive linguistics) bắt đầu phát triển từ những
năm 1980 như một trường phái ngôn ngữ vận dụng kiến thức liên ngành. Ngôn ngữ
học tri nhận “nghiên cứu ngôn ngữ trên cơ sở vốn kinh nghiệm và sự cảm thụ của
con người về thế giới khách quan cũng như cái cách thức mà con người tri giác và ý
niệm hóa các sự vật của thế giới khách quan đó” [118, 279].
Ẩn dụ ý niệm (hay còn gọi là ẩn dụ tri nhận – cognitive conceptual metaphor)
(luận án sử dụng thuật ngữ “Ẩn dụ ý niệm”) “đó là một trong những hình thức ý
niệm hóa, một quá trình tri nhận có chức năng biểu hiện và hình thành những ý niệm
mới và không có nó thì không thể nhận được tri thức mới” [8, 293]. Nguyễn Đức
Tồn [132], [133] cũng cho rằng hiện tượng loại suy đặc điểm, thuộc tính, hoạt
động… giữa các sự vật, hiện tượng khác loại làm cơ sở cho những cách diễn đạt ẩn
dụ ý niệm. Theo các nhà ngôn ngữ học tri nhận, ẩn dụ là một cơ chế tri nhận mà nhờ
đó, những tri giác liên tục, tương tự đã trải qua quá trình phạm trù hóa được đánh giá
lại trong những bối cảnh ý niệm mới. Cơ chế tri nhận của ẩn dụ bao gồm hai miền
nguồn và đích tồn tại tiền giả định trong ý thức của con người, trong đó những thuộc
tính của miền nguồn được ánh xạ, phóng chiếu lên miền đích, cả hai miền nguồn và
đích đều là những ý niệm, được cấu trúc hoá theo mô hình trường-chức năng: trung
tâm-ngoại vi, trong đó hạt nhân là khái niệm nằm ở trung tâm, mang tính phổ quát
toàn nhân loại, và ngoại vi là những yếu tố ngôn ngữ, văn hoá dân tộc, nằm trong
một “khung” hay “nền” văn hoá nhất định mang tính đặc thù. Như vậy, ẩn dụ tri
nhận hướng tới khả năng tác động vào lĩnh vực trí tuệ của con người. Vì thế, ngôn
ngữ học tri nhận trở thành một bộ phận của khoa học tri nhận, và nó là một bộ môn

khoa học liên ngành, gắn bó mật thiết với các khoa học về tâm lý học tri nhận, trí tuệ
nhân tạo, văn hoá học, triết học, thần kinh học, đặc biệt là nhân học, với thuyết “Dĩ
2


nhân vi trung” (lấy con người làm trung tâm của vũ trụ). Như thế, ngôn ngữ học tri
nhận trở thành bộ môn khoa học nghiên cứu sự nhận thức và ý niệm hoá của con
người về thế giới quanh mình qua các biểu thức và các diễn ngữ ngôn ngữ, bằng
cách lấy con người làm bản thể định vị giữa không gian, thời gian, và các nguyên
tắc, sự kiện, hành động, tư tưởng, tôn giáo, niềm tin… của con người tương tác mật
thiết với nhau trong không - thời gian ấy.
Nếu nghiên cứu ẩn dụ dưới góc độ ngôn ngữ học cấu trúc thì chỉ giúp phát
hiện ra các cơ chế ẩn dụ theo kiểu hình thái ngôn ngữ, bản chất của ẩn dụ và các dạng
khác nhau của ẩn dụ; tìm hiểu được các cơ chế định danh (ẩn dụ chết), các phương
thức chuyển nghĩa của từ trong cùng một trường nghĩa hay giữa các trường nghĩa
khác nhau dựa trên các cơ chế ẩn dụ; vận dụng vào trong thi pháp để xây dựng chúng
trở thành một thủ pháp tu từ, tạo nên những biểu tượng nghệ thuật ngôn từ mang ý
nghĩa biểu trưng và phần nào mang tính chủ quan, sắp đặt của người nghệ sĩ. Việc
nghiên cứu ẩn dụ theo phương thức truyền thống không thể giúp chúng ta tìm hiểu
được cặn kẽ những “cấu trúc bề sâu của nhận thức” qua ngôn từ. Ngôn ngữ hậu cấu
trúc với thuyết ẩn dụ ẩn dụ tri nhận đã nhận thức và lý giải các phạm trù của thế giới
qua hệ thống các ý niệm được nghiệm thân trong ngôn ngữ; giúp con người khám phá
thế giới tri thức quanh mình được phản chiếu qua ngôn từ hàng ngày; thấy được sự
tương đồng và khác biệt trong các cơ tầng văn hoá giữa những nền văn hoá khác
nhau; những “hiện thực trải nghiệm luận”, “hiện thực nghiệm thân luận” được dùng
làm cơ sở để nhận thức các mô hình ẩn dụ ngày càng làm hé lộ cách con người tư duy
về thế giới quanh mình dựa trên các cơ sở khoa học rất cụ thể và rõ ràng.
Ngôn ngữ học tri nhận không chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu ngôn ngữ trong
mối quan hệ với chính bản thân ngôn ngữ từ những hiện tượng có thể quan sát được,
mà còn nghiên cứu cả những gì không quan sát trực tiếp được như sự hiểu biết (hay

tri thức), trí tuệ, cảm xúc, ý chí, các hiện tượng tinh thần nói chung… Các ẩn dụ tri
nhận được khai thác, giải mã các vỉa tầng nghĩa dựa trên các tri thức nền, các mô
hình văn hoá, đặc trưng tâm lý, tư duy tộc người, những ước định về văn hoá, tôn
giáo, và cả những định chế về tư duy tâm linh con người,… Vì vậy, tiếp cận ngôn

3


ngữ theo hướng ngôn ngữ học tri nhận đang là một hướng đi mới được nhiều nhà
ngôn ngữ học hiện nay quan tâm ủng hộ.
1.2. Trịnh Công Sơn là một hiện tượng hiếm gặp. Trong đời sống âm nhạc Việt
Nam hiện nay, bên cạnh những dòng nhạc như: nhạc cách mạng, nhạc trẻ, nhạc dân
ca, nhạc tiền chiến, nhạc thính phòng,… thì nhạc Trịnh Công Sơn tồn tại như một
dòng nhạc độc lập, trở thành một hiện tượng độc nhất vô nhị trong lịch sử ca nhạc và
ngay cả trong lĩnh vực văn học từ trước đến nay. Làm nên sức sống của nhạc Trịnh
chính là phần ca từ. Nhạc sĩ Văn Cao cho rằng âm nhạc của Trịnh Công Sơn là kết
quả của một cuộc hôn phối k diệu giữa phần ca từ với phần âm nhạc, hai phần này
hoà quyện vào nhau đến mức khó có thể tách rời, làm nên hồn cốt nhạc Trịnh, vì
vậy, ông gọi Trịnh Công Sơn là “Người ca thơ” [172, 3]. Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến
thì cho rằng “tất cả ca từ của nhạc Trịnh Công Sơn làm thành một tình ca hay nhất
thế kỷ”. Cùng với thời gian, nhạc Trịnh ngày càng khẳng định được vị trí và tên tuổi
của mình trong lòng công chúng yêu nhạc trong và ngoài nước. Giải thưởng “đĩa
vàng” ở Nhật Bản với bài hát “Ngủ đi con” (1972) đã gắn tên tuổi Trịnh Công Sơn
với những bài “thân phận ca” trong các ca khúc phản chiến. Ở một số nước như
Canađa, Ý, Đức đã có thư viện Trịnh Công Sơn. Ông đã vinh dự là người đầu tiên ở
Đông Nam Á được Liên hiệp quốc trao tặng giải thưởng âm nhạc cao quý “Vì một
thế giới hoà bình” năm 2004.
Việc tìm hiểu giá trị ca từ Trịnh Công Sơn đang là vấn đề được nhiều nhà
nghiên cứu quan tâm, đặc biệt là soi chiếu ca từ dưới góc độ ngôn ngữ. Đã có rất
nhiều công trình sách, báo, bài viết cả trong và ngoài nước viết về cuộc đời và sự

nghiệp âm nhạc của người nhạc sĩ tài hoa này. Nghiên cứu ca từ nhạc Trịnh dưới
góc độ ngôn ngữ cũng bắt đầu được quan tâm từ mấy năm gần đây, nhưng các tác
giả chủ yếu tiếp cận ngôn ngữ nhạc Trịnh theo quan điểm của ngôn ngữ học cấu
trúc truyền thống. Tiếp cận ngôn ngữ nhạc Trịnh dưới góc độ ngôn ngữ học tri
nhận thực sự xuất hiện lần đầu (2009) với luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Thanh
Huyền, Đại học Sư phạm thành phố Hồ Chí Minh, tác giả đã khai thác hai mô hình
ẩn dụ cấu trúc để làm sáng tỏ quan niệm nhân sinh của Trịnh Công Sơn. Tuy
nhiên, tác giả luận án nhận thấy, trong ca từ nhạc Trịnh còn hàm chứa rất nhi ều mô
4


hình ẩn dụ tri nhận có thể khai thác. Vì vậy, việc nghiên cứu ẩn dụ tri nhận trong
ca từ Trịnh Công Sơn sẽ góp thêm một hướng đi mới mẻ, góp phần khai thác giá
trị cũng như làm nổi bật triết lý nhân sinh sâu sắc của Trịnh Công Sơn về con
người và về cuộc đời. Vì những lý do trên, tác giả luận án lựa chọn đề tài nghiên
cứu: “Ẩn dụ tri nhận trong ca từ Trịnh Công Sơn”.
. Mục đích n hi n c u
Mục đích của luận án là dùng lý thuyết về ngôn ngữ học tri nhận để lý giải
những mô hình ẩn dụ tri nhận trên cứ liệu ca từ Trịnh Công Sơn. Dưới góc nhìn của
ngôn ngữ học tri nhận, các mô hình ẩn dụ được khai thác, giải mã dựa trên kinh
nghiệm thân thể, trải nghiệm sinh học, các cơ chế thần kinh và phản xạ hành vi, các
mô hình văn hóa và các tri thức nền mang đặc trưng tâm lý, tư duy tộc người; bên
cạnh đó những ước định về văn hoá, tôn giáo và những định chế về tư duy tâm linh
con người cũng được vận dụng để suy nghiệm các ẩn dụ. Trên cơ sở phân tích các
mô hình ẩn dụ, so sánh, đối chiếu trong các miền văn hoá khác nhau, từ đó có thể
làm sáng tỏ tính khác biệt về văn hoá trong ngôn từ của nhạc sĩ, đặt trong tương
quan giữa cái mang tính phổ quát toàn nhân loại với cái đặc thù mang tính dị biệt
của từng dân tộc.
Để thực hiện được mục đích trên, luận án tập trung giải quyết những nhiệm
vụ cơ bản sau:

(1) Lý giải các ẩn dụ tri nhận cơ sở và các ẩn dụ phái sinh trong ca từ Trịnh
Công Sơn; (2) Phân tích mối quan hệ tương hợp giữa các lược đồ ẩn dụ tri nhận
dựa trên các
mô hình văn hoá, mối tương quan giữa các sơ đồ hình ảnh dựa trên lý thuyết hình và
nền;
tính tương hoà văn hoá trong cách tri nhận thế giới phản chiếu vào trong ngôn
ngữ;
(3) Làm rõ các cơ chế ánh xạ giữa miền nguồn và đích, các quan hệ gán ghép
giữa các thuộc tính đặc trưng của hai miền này;
(4) Trên cơ sở lý giải từng thuộc tính được gán ghép giữa hai miền không gian
nguồn, đích, đi sâu tìm hiểu kinh nghiệm nghiệm thân, cơ sở vật lý, cơ sở văn hoá,

5


trải nghiệm sinh học và trải nghiệm tâm lý của từng mô hình ẩn dụ để giải mã con
người tinh thần và thế giới vô thức của cá nhân Trịnh Công Sơn.

6


3. Tổn quan tình hình n hi n c u
3.1. Nghiên cứu về ẩn dụ từ góc nhìn của ngôn ngữ học tri nhận
3.1.1. Các nghiên cứu ở ngoài nước
Nghiên cứu về ngôn ngữ học tri nhận đã bắt đầu từ những thập kỷ 80 của thế
kỷ XX, với những tên tuổi của G. Lakoff, M. Johnson, G. Fauconnier, Ch. Fillmore,
R. Jackendoff, R. Langacker, E. Rosch, L. Talmy, M. Turner, A. Wierzbicka, Yu.
Stepanov, Yu. Apresian, W. Chafe, M. Minsky…
Ngay từ cuối những năm 70 (thế kỉ XX) với công trình trở thành kiệt tác trí
tuệ Metaphor We live by năm 1980 viết chung với nhà triết học M. Johnson, Lakoff

bắt đầu phát triển lý thuyết về ẩn dụ tri nhận. Lý thuyết này làm cho danh tiếng
Lakoff vượt ra ngoài phạm vi thuần túy ngôn ngữ học, là một báo hiệu cho thấy có
một sự thay đổi lớn trong nghiên cứu về ngôn ngữ trong mối liên hệ với các ngành
khoa học khác.
Trong những năm qua, lý thuyết của phép ẩn dụ đã phát triển và đào sâu đáng
kể. Ban đầu, xu hướng của các nghiên cứu đều cho rằng phép ẩn dụ ý niệm chủ yếu
được căn cứ vào kinh nghiệm thân thể. Trong những năm 1980, Lakoff và Kovecses
đã cho thấy những ẩn dụ cảm xúc (như sự giận dữ của con người) xuất hiện trong
ngôn ngữ và đều xuất phát từ cơ sở văn hóa, cơ sở sinh lý học của con người (Lakoff
1987; Kovecses năm 1986, 1990). Đến đầu những năm 1990, một quan điểm hoàn
toàn mới của phép ẩn dụ được phát hiện ra rằng ẩn dụ ý niệm không chỉ nằm ở lĩnh
vực thời gian, mà còn ở trong các lĩnh vực như sự kiện, nhân quả, đạo đức [160;
250].
Một tiến bộ quan trọng trong lý thuyết ẩn dụ đến năm 1997 là nghiên cứu ẩn
dụ ý niệm gắn với các lý thuyết thần kinh, các nghiên cứu chỉ ra rằng kinh nghiệm
hàng ngày, kinh nghiệm cảm giác của con người là cơ sở đưa ra các đánh giá chủ
quan của nhận thức ngôn ngữ (Joseph Grady (1997), Christopher Johnson (1997).
Tác giả Srinivas Narayanan (1997) còn sử dụng các kỹ thuật tính toán cho mô hình
thần kinh, phát triển một lý thuyết mà trong đó, ẩn dụ ý niệm được lý giải thông qua
bản đồ thần kinh với hệ kinh mạch kết nối hệ thống cảm giác với các khu vực cao
hơn ở vỏ não. Năm 2002, Gilles Fauconnier và Mark Turner đã phát triển một lý
thuyết về không gian pha trộn, là một kiểu không gian tinh thần tưởng tượng kết
7


hợp với lý thuyết thần kinh của ngôn ngữ, trong đó, các ánh xạ ẩn dụ được thực
hiện trên cơ sở vật lý giống như một bản đồ thần kinh, như thế, chúng tạo thành các
cơ chế thần kinh tự nhiên trong các suy luận ẩn dụ [156, 257].
Tiếp đó, cùng với một số nhà nghiên cứu khác, Lakoff đã phát triển tư tưởng
về vai trò của ẩn dụ trong việc hình thành hệ thống ý niệm của con người và cấu

trúc của ngôn ngữ tự nhiên. Tư tưởng này đã được Lakoff phát triển thành học
thuyết “Trí tuệ nhập thân”, chủ trương nghiên cứu sự phụ thuộc của những năng lực
tư duy của con người và những quan niệm về thế giới, kể cả những hệ thống triết
học vào những đặc điểm cấu tạo của cơ thể con người và bộ não con người.
Về các nghiên cứu liên quan đến ứng dụng của lý thuyết ẩn dụ: Kể từ lần đầu
tiên phát hiện ra ẩn dụ ý niệm, các nhà nghiên cứu trong các lĩnh vực khoa học đa
dạng như lý thuyết văn học, nghiên cứu pháp luật, ngôn ngữ học và triết học đã thực
hiện một cách thú vị ứng dụng của lý thuyết này. Họ đã xác định được ẩn dụ ý niệm
nằm ở trung tâm của pháp luật, thơ ca, chính trị, tâm lý học, vật lý, khoa học máy
tính, toán học và triết học. Nghiên cứu của họ cho thấy cấu trúc ẩn dụ đã góp phần
làm sáng tỏ cách con người suy nghĩ như thế nào trong một số lĩnh vực trí tuệ.
Trong lĩnh vực văn học phân tích, More (1989), Lakoff và Turner đã chứng
minh rằng phép ẩn dụ trong thơ ca hầu hết nằm ở các phần mở rộng và trong các
trường hợp đặc biệt ổn định, ẩn dụ ý niệm thông thường được sử dụng trong tư
tưởng và ngôn ngữ hàng ngày. Các sáng tạo ẩn dụ của nhà thơ được không hoàn
toàn nằm ở việc tạo ra tư tưởng mới của ẩn dụ, mà nằm trong cơ chế ánh xạ ẩn dụ.
Lakoff và Turner (1987) cũng cho thấy, ẩn dụ ý niệm thông thường nằm ở trung
tâm của tục ngữ hay trong văn học (1996), Turner sau đó đã chứng minh ẩn dụ nằm
ở sau việc xây dựng các truyện ngụ ngôn và các sản phẩm phổ biến khác của trí
tưởng tượng văn học. Các cơ sở ẩn dụ về chiều kích đạo đức trong văn học trở nên
rõ ràng từ các cuộc thảo luận về ẩn dụ và đạo đức của Johnson (1993), của Lakoff
trong lĩnh vực chính trị và đạo đức (1996), và bởi Lakoff và Johnson trong Triết học
(1999) [156, 268].
Các ứng dụng quan trọng nhất của lý thuyết về ẩn dụ ý niệm là ở các lĩnh
vực pháp luật, chính trị và các vấn đề xã hội. Nhà lý thuyết Pháp lý Steven (2001)
8


đã viết nhiều bài báo tổng quan pháp luật và trong một cuốn sách lớn về vai trò
trung tâm của phép ẩn dụ trong lý luận pháp luật. Ẩn dụ Pháp lý rất phổ biến trong

những ẩn dụ về bất động sản, sự hiểu biết về sở hữu trí tuệ,… Ẩn dụ được xem là
một công cụ pháp lý mạnh mẽ và có hiệu ứng rộng rãi trong xã hội. Triết học
Lakoff và Johnson (1999) là một phân tích sâu về ẩn dụ cấu trúc được sử dụng rộng
rãi trong lĩnh vực kinh tế, chính trị. Lakoff (1996) phân tích chính trị thế giới quan
của những người bảo thủ và cấp tiến ở Mỹ, xem xét các quan điểm về kiểm soát
súng, phá thai, án tử hình, thuế, các chương trình xã hội, môi trường và nghệ
thuật,… trong một khung tri nhận nhất định. Còn trong lĩnh vực tâm lý học, ẩn dụ
đã chứng minh tầm quan trọng của mình đối với cả hai lĩnh vực nhận thức và tâm lý
học. Nhận thức tâm lý bị chi phối bởi ý tưởng cũ mà khái niệm nằm ở các con chữ
và nghĩa, nhưng các tài liệu về lý thuyết ẩn dụ cung cấp bằng chứng áp đảo chống
lại quan điểm đó và mở ra một khả năng cho nhận thức tâm lý thú vị hơn nhiều, các
nghiên cứu của Gibbs (1994), ẩn dụ cảm xúc của Lakoff (1987) hay ẩn dụ nghiệm
thân của Kovecses (1990), nghiên cứu về tâm trí, bộ nhớ, và sự chú ý của
Fernandez-Duque và Johnson (1999) đã chứng minh điều đó [156, 271].
Như vậy, kể từ lần đầu tiên phát hiện ra ẩn dụ ý niệm, các nhà nghiên cứu
trong các lĩnh vực khoa học đa dạng như lý thuyết văn học, nghiên cứu pháp luật,
ngôn ngữ học và triết học đã thực hiện một cách thú vị ứng dụng của lý thuyết này.
Họ đã xác định được ẩn dụ ý niệm nằm ở trung tâm của pháp luật, thơ ca, chính trị,
tâm lý học, vật lý, khoa học máy tính, toán học và triết học. Nghiên cứu của họ cho
thấy cấu trúc ẩn dụ đã góp phần làm sáng tỏ cách con người suy nghĩ như thế nào
trong một số lĩnh vực trí tuệ. Như vậy, có thể thấy lý thuyết ẩn dụ ý niệm ngày càng
được xây dựng tỉ mỉ và cụ thể, mở rộng không chỉ trong lĩnh vực ngôn ngữ học mà
còn giúp tìm hiểu các lĩnh vực nghiên cứu đa ngành khác.
3.1.2. Các nghiên cứu trong nước
Ở trong nước, nghiên cứu được xem là sớm nhất về khuynh hướng tri nhận có
thể kể đến Nguyễn Lai trong công trình Từ chỉ hướng vận đ ng ti ng iệt (Nxb Đại
học Tổng hợp, H, 1990), tuy trong công trình này tác giả không dùng đến thuật ngữ
“tri nhận” nhưng các nghiên cứu về quá trình phát triển ngữ nghĩa của các từ chỉ
9



hướng RA V O, L N XUỐNG, ĐẾN TỚI, L I QUA, SANG VỀ hoàn toàn được
xem xét và triển khai theo đường hướng của ngôn ngữ học tri nhận với giả thuyết
nghiệm thân.
Đến năm 2002, tác giả Nguyễn Đức Tồn trong [132] tuy chưa trực tiếp bàn
đến ngôn ngữ học tri nhận nhưng đã bắt đầu hướng nghiên cứu của mình theo
hướng lý thuyết tâm lý – ngôn ngữ học tộc người. Tác giả đã dùng thuật ngữ tri
giác khi bàn đến ẩn dụ với cách tiếp cận và hiểu về bản chất của ẩn dụ như là một
kiểu “tư duy phạm trù”, trong đó, qua tìm hiểu về đặc điểm dân tộc của định danh
động vật, định danh thực vật, định danh bộ phận cơ thể người của người Việt (đặt
trong sự so sánh với người Nga, Anh)… tác giả đã bước đầu khẳng định đặc điểm
văn hóa – dân tộc của người Việt, khẳng định mỗi dân tộc có cách tri giác, định
danh riêng của mình về bức tranh ngôn ngữ thế giới khách quan.
Cũng trong khung nghiên cứu liên quan đến ẩn dụ theo quan điểm tri nhận,
tác giả Nguyễn Đức Tồn trong [134], [135], [136], [137] đã đưa ra một cái nhìn mới
về bản chất của ẩn dụ, giải phóng ẩn dụ khỏi sự trói buộc ở quan niệm chỉ là phép
dùng từ. Qua những dẫn chứng cụ thể, tác giả đã kết luận: “Hiện tượng loại suy đặc
điểm, thu c tính, hoạt đ ng,… giữa các sự vật, hiện tượng khác loại làm cơ sở cho
những cách diễn đạt ẩn dụ ý niệm” [136, 5]. Trong [139], tác giả Nguyễn Đức Tồn
cũng chỉ rõ chính những tri thức văn hóa được thủ đắc trong phạm vi vai dân tộc đã
lập thành hạt nhân của hiện tượng được gọi là “đặc trưng dân tộc của tư duy”. Kiểu
loại tư duy và đặc trưng dân tộc của tư duy được thể hiện rõ nhất ở thiên hướng “ưa
thích” hay sự nổi trội của kiểu tư duy hoặc cách nghĩ nào đó ở một dân tộc nhất
định.
Người đầu tiên giới thiệu ngôn ngữ học tri nhận vào Việt Nam một cách có
hệ thống với khung lý thuyết cụ thể là tác giả Lý Toàn Thắng (2005) với công trình
Ngôn ngữ học tri nhận – từ lý thuy t đại cương đ n thực tiễn ti ng iệt (Nxb Khoa
học xã hội, H). Tuy nhiên, trong công trình này, tác giả chưa đi sâu vào nghiên cứu
ẩn dụ mà chủ yếu nghiên cứu về cách thức tri nhận không gian và thời gian trong
ngôn ngữ. Tác giả đưa ra hướng tiếp cận không gian theo nguyên lý “Dĩ nhân vi

trung” (lấy con người làm trung tâm của vũ trụ), con người được đặt trong không
10


gian vật lý ba chiều và thời gian một chiều, qua đó, ngôn ngữ phản ánh cách con
người tri nhận về thế giới quanh mình qua các cặp phạm trù được định vị theo vị trí
của con người trong không gian như: trên dưới, trước sau, phải trái, trong ngoài,…
và các phạm trù chỉ thời gian định vị theo vị trí của con người qua ba thời: quá khứ,
hiện tại và tương lai. Trong một nghiên cứu khác, tác giả cho rằng vấn đề “con
người” trong sự tri nhận không gian có liên hệ sâu xa với ba phương diện: cấu tạo cơ
thể người; môi trường tự nhiên xung quanh con người; các chuẩn mực và cách thức
hoạt động của con người [120, 54-65].
Năm 2007, tác giả Phan Thế Hưng trong [59], [60] đã trình bày quan niệm
mới của mình về ẩn dụ rất đáng chú ý trên cơ sở phủ nhận dòng quan điểm so sánh
trong ẩn dụ: “Chúng ta không hiểu ẩn dụ bằng chuyển ẩn dụ thành phép so sánh.
Thay vì vậy, câu ẩn dụ là câu bao hàm xếp loại và do vậy hiểu ẩn dụ qua câu bao
hàm xếp loại” [59, 12]. Cùng với việc khẳng định ẩn dụ là câu bao hàm x p loại,
tác giả khẳng định vai trò của sự xếp loại trong cấu trúc ẩn dụ: “ẩn dụ không đơn
giản là phép so sánh ngầm mà chính là câu bao hàm xếp loại thuộc cấu trúc bề sâu
của tư duy. Nói cách khác, hiểu sự so sánh không phải là trung tâm của việc hiểu ẩn
dụ, mà chính là hiểu được việc xếp loại” [59, 12] và đưa ra các hệ quả về ẩn dụ như:
so sánh ẩn dụ được hiểu là câu bao hàm xếp loại; so sánh ẩn dụ tuân theo tầng bậc
của loại theo hệ thống tôn ti và bản chất của sự xếp loại là cơ sở của tính ẩn dụ; ẩn
dụ không thể đảo ngược và mối quan hệ của hai sự vật trong ẩn dụ không mang tính
đối xứng.
Năm 2009, tác giả Trần Văn Cơ trong công trình Khảo luận ẩn dụ tri nhận
(Nxb Lao động xã hội) đã giới thiệu khái luận về ngôn ngữ học tri nhận và giới
thiệu lý thuyết ẩn dụ ý niệm ở Việt Nam bằng việc tổng thuật lại một cách có hệ
thống và toàn diện những vấn đề trung tâm có liên quan đến lý thuyết ẩn dụ ý niệm
từ hai công trình kinh điển của G. Lakoff Metaphors We live by (1980), của Lakoff

và Johnson Women, Fire and The Dangerous Things: What Categories Reveal
about The Mind (1987) gồm: 1. Ý niệm và ẩn dụ ý niệm; 2. Hoạt động sáng tạo của
ẩn dụ tri nhận; 3. Kinh nghiệm luận - phương pháp luận của học thuyết về ẩn dụ tri
nhận; và 4. Phạm trù hóa thế giới.
11


Kế tiếp những nghiên cứu về các từ chỉ hướng trong không gian của Nguyễn
Lai, tác giả Nguyễn Đức Dân (2009) trong [19] đã nghiên cứu sự chuyển nghĩa và
ẩn dụ qua những giới từ chỉ không gian trong tiếng Việt. Tác giả đã đề cập đến
những cặp khái niệm nguyên thủy trong nhận thức không gian liên hệ tới sự tồn tại
và vận động của con người như: trên – dưới (theo phương thẳng đứng), trước –
sau (theo phương nhìn ngang của con người), gần – xa (theo tầm nhìn và đường đi),
trong
– ngoài (theo định vị ranh giới) và các vận động có hướng như: ra, vào, lên, xuống,…
Đây là những từ ngữ đặc biệt quan trọng, có sự vận động chuyển nghĩa rất mạnh,
được nhìn nhận và xem xét như một cách thức riêng của tiếng Việt trong việc ý niệm
hóa, phân loại và mô tả thế giới khách quan, tạo nên những ẩn dụ về không gian và
thời gian mang đậm dấu vết văn hóa và tinh thần dân tộc. Tác giả Nguyễn Văn Hiệp
với bài viết “Ngữ nghĩa của từ „ra‟ „vào‟ trong tiếng Việt từ góc độ nghiệm thân” [in
trong 51; tr. 202 - 218] đã dùng giả thuyết nghiệm thân của ngôn ngữ học tri nhận,
tổng kết một cách đầy đủ những con đường phát triển ngữ nghĩa của từ “RA” trong
tiếng Việt, từ nghĩa gốc trong từ điển và những lớp nghĩa phái sinh, đến các lớp
nghĩa của từ “RA” trong khả năng kết hợp hay ứng xử ngữ pháp, tạo thành một
phạm trù lan tỏa ngữ nghĩa với mạng lưới nhiều ý niệm có liên hệ với nhau.
N hi n c u về ẩn dụ thời ian, tác giả Nguyễn Hòa trong [46] đã cho rằng
quá trình ý niệm hóa thời gian như là không gian xảy ra trên cơ sở sử dụng các ý
niệm không gian s n có, tuy không hoàn toàn đồng nhất trong các nền văn hóa. Tác
giả coi thời gian với tư cách như một sự vật và có thể được xem xét một cách đa
chiều dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Nguyễn Văn Hán trong [36] đã chứng minh

cách thức tri nhận thời gian luôn mang tính chất quy ước xã hội, tính chất văn hóa và
tính mô - típ của cộng đồng.
Nghiên cứu về các ẩn dụ ý niệm cảm xúc, các ẩn dụ chỉ tình cảm của con
n ười, các công trình [61], [68], [129], [92],… đều khẳng định và chứng minh rằng
yếu tố cơ thể hóa ngôn ngữ, kinh nghiệm nghiệm thân và sự tác động của thế giới
bên ngoài, mà cụ thể là văn hóa của cộng đồng sử dụng ngôn ngữ đã tạo ra những ẩn
dụ ý niệm vừa mang tính phổ quát, vừa mang đặc trưng tư duy dân tộc. Các cộng
12


đồng dân tộc khác nhau, do sự khác nhau về các nhân tố văn hóa, xã hội… sẽ tỏ ra
sự khác biệt

13


hay tính chủ thể về các phương thức tư duy và mô hình tri nhận trong các biểu thức
ngôn ngữ. Ngay cả những cá thể khác nhau trong cùng một cộng đồng ngôn ngữ, do
không đồng nhất trong kiến thức về thế giới, những hiểu biết về quy ước xã hội, cũng
như sự khác nhau về kinh nghiệm trải nghiệm, khả năng cảm nhận và lý giải sự
việc… sẽ dẫn đến sự khác biệt trong quá trình sử dụng và lý giải các ẩn dụ tri nhận.
Tác giả Phan Thế Hưng [61] đã dựa trên cơ sở lý thuyết về ẩn dụ tri nhận, nghiên cứu
và đối chiếu trên cứ liệu tiếng Việt, tiếng Anh với các mô hình về “ẩn dụ ý niệm cảm
xúc” (giận dữ, sung sướng), “ẩn dụ ý niệm cấu trúc sự kiện” (dạng địa điểm, dạng sự
vật) và “ẩn dụ ý niệm thời gian”,… Tác giả khẳng định rằng, trải nghiệm của cơ thể
con người trong ẩn dụ hóa là những trải nghiệm mang tính phổ quát và từ đó chúng
ta có ẩn dụ ý niệm cơ bản và phổ quát. Ngoài ra, tác giả cũng đã đề cập đến sự tương
tác giữa ẩn dụ và hoán dụ dưới góc nhìn của ngôn ngữ học tri nhận, đặc biệt là yếu
tố kinh nghiệm phản ánh trong ngôn ngữ, tính hiện thân và sự tác động của thế giới
bên ngoài mà cụ thể là văn hóa của cộng đồng sử dụng ngôn ngữ, văn hóa tạo ra cái

nền cho tất cả các tình huống chúng ta trải nghiệm để tạo thành mô hình tri nhận.
Tác giả Trần Bá Tiến [129] tập trung khảo sát các thành ngữ chỉ trạng thái tâm lý,
tình cảm trong tiếng Anh và tiếng Việt thuộc 5 phạm trù tình cảm: tức giận, vui,
buồn, sợ, xấu hổ. Thông qua nghiên cứu, tác giả đã chỉ ra điểm khác biệt căn bản
giữa người Việt và người Anh trong sử dụng ẩn dụ là: người Việt vì sống theo
nguyên tắc trọng tình, hoà thuận, ứng xử mềm dẻo nên ưa “kìm chế”, trong khi người
Anh quan niệm rằng tức giận khi bộc phát sẽ tốt hơn cho sức khoẻ nên họ có xu
hướng bộc lộ ra ngoài. Thông qua các tường giải cụ thể, tác giả chứng minh các thành
ngữ tiếng Việt hầu hết không có ẩn dụ trực tiếp mà đều thông qua suy luận ẩn dụ.
Tác giả Ly Lan [68] đã đưa ra một cách nhìn toàn diện, đa chiều về phương diện cơ
sở tri nhận “nghiệm thân” trong cách biểu đạt bốn ý niệm tình cảm cơ bản
HAPPINESS/VUI, LOVE/YÊU, FEAR SỢ, ANGER GIẬN, cũng như quá trình ý
niệm hóa bốn tình cảm ương ứng thông qua các ánh xạ ẩn dụ ý niệm và hoán dụ ý
niệm, được hình thành dựa trên một nguyên lý hoán dụ chung chủ yếu liên quan đến
các phản xạ sinh lý, phản xạ hành vi và phản xạ biểu lộ của chủ thể trải nghiệm tình
cảm. Trên cơ sở đó, làm sáng tỏ các đặc
14


điểm tương đồng và khác biệt trong cách tri nhận về tình cảm của hai cộng đồng
người bản ngữ nói tiếng Anh và tiếng Việt.
Riêng với tác giả Vi Trường Phúc trong [92], khi nghiên cứu về thành ngữ chỉ
tâm lý tình cảm trong tiếng Hán từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận (có liên hệ với
tiếng Việt), cũng theo nguyên tắc “Dĩ nhân vi trung” mà các nhà tri nhận Việt Nam
lấy làm nguyên lý quan sát và nhìn nhận mọi sự vật, hiện tượng, tác giả cũng áp
dụng nguyên lý của người Trung Hoa: “cận thủ chư thân, viễn thủ chư vật” (gần thì
lấy từ bản thân, xa thì lấy từ các vật) để tham chiếu thế giới xung quanh con người.
Khác với các công trình nghiên cứu đi trước về ẩn dụ tri nhận, tác giả - ngoài nghiên
cứu tính nghiệm thân dựa trên các bình diện: tính nghiệm thân của tâm trí, tính vô
thức của tri nhận, tính ẩn dụ và hoán dụ của tư duy còn cho rằng cần nghiên cứu cả

tính nghiệm thân của sự tích hợp (dựa trên thuy t pha tr n ý niệm). Nghiên cứu ẩn
dụ tình cảm dựa trên thuy t pha tr n ý niệm là một đóng góp mới của tác giả Vi
Trường Phúc, góp phần thay đổi quan niệm của các nhà tri nhận trước đây khi cho
rằng ẩn dụ ý niệm vốn chỉ được xây dựng dựa trên cơ sở mối quan hệ giữa hai miền
ý niệm hoặc lược đồ hình ảnh, và sơ đồ ánh xạ trong ẩn dụ chỉ diễn ra một chiều (từ
miền nguồn đến miền đích); mà thông qua những kiến giải hết sức khoa học và lôgic
từ cứ liệu thành ngữ chỉ tâm lý tình cảm tiếng Hán và tiếng Việt, tác giả đã chứng
minh ẩn dụ tri nhận còn được giải mã dựa trên bốn không gian tâm trí (pha trộn ý
niệm), ánh xạ giữa hai miền không gian nguồn, đích là một sự tương tác đa chiều,
các ý niệm không nhất thiết phải có s n, được sử dụng một cách máy móc và vô thức
mà có những ý niệm mới mẻ và mang tính lâm thời, sự ánh xạ giữa chúng là ánh xạ
xuyên không gian.
Nghiên cứu ẩn dụ ý niệm về thực vật, tác giả Trần Thị Phương Lý [73], [74]
đã tìm hiểu phương thức thiết lập và các thành tố của mô hình chuyển di ý niệm (từ
ý niệm thực vật để nhận thức các phạm trù ý niệm khác) trên ngữ liệu biểu thức
ngôn ngữ liên quan đến thực vật trong tiếng Việt (có liên hệ với tiếng Anh), cũng
như tìm hiểu các nền tảng kinh nghiệm phổ quát cho phép thực hiện sự nhận thức
thông qua con đường chuyển di này; phân loại và lý giải chức năng các loại ẩn dụ ý
niệm thực vật; khám phá mối quan hệ mật thiết giữa bộ ba ngôn ngữ, tư duy và văn
15


hóa được thể hiện trong bức tranh ngôn ngữ với ý niệm thực vật. Trong một khuôn
khổ hẹp hơn, Lý

16


Toàn Thắng trong bài viết “Về cách thức tri nhận thế giới của người Việt (trên ngữ
liệu câu đố về động vật và thực vật)” [Trong 120, 267-275], đã chỉ ra cách thức tri

nhận của người Việt thông qua những câu đố về thực vật và những thuộc tính dễ
nhận diện trong câu đố về thực vật, quá đó cho thấy “thế giới quan” và “cách nhìn
thế giới” của người
Việt.
Hướng nghiên cứu ẩn dụ tri nhận các từ n ữ chỉ bộ phận cơ thể con n ười
nằm trong một số công trình của tác giả Võ Kim Hà [33], Trịnh Thị Thanh Huệ
[55]. Các nghiên cứu này chủ yếu khai thác các miền ý niệm là các bộ phận chỉ cơ
thể con người, lý giải cơ chế tri nhận của một số ẩn dụ và hoán dụ dựa trên những
yếu tố văn hóa, điều kiện địa lý cũng như cách thức tư duy của từng dân tộc. Các
công trình đều kết hợp được kiến thức liên ngành ngôn ngữ, văn hóa và khoa học tri
nhận để giải quyết vấn đề đã nêu ra.
Nghiên cứu ẩn dụ tri nhận và vai trò của ẩn dụ tri nhận tron sự hành
ch c cụ thể qua các tác phẩm văn, thơ tập trung ở một số công trình nghiên cứu
[22], [42], [43], [58], [124], [125],… Tác giả Lê Thị Ánh Hiền [42], [43] dựa trên
quan điểm cơ bản của Lakoff và Turner về ẩn dụ trong thi ca, làm rõ vai trò và cấu
trúc của tri thức trong một lĩnh vực ý niệm, phân tích các mối quan hệ giữa ẩn dụ và
kiến thức, sự ánh xạ, phóng chiếu của kiến thức đời thường vào các mô hình tri
nhận, tác giả tập trung chứng minh sức mạnh của ẩn dụ trong thi ca được thể hiện ở
những yếu tố như mở rộng phạm vi, miêu tả chi tiết, đặc biệt là sự kết hợp giữa các
tiểu ẩn dụ (ẩn dụ phái sinh) tạo nên sự tương hợp giữa các ẩn dụ - nguồn sức mạnh
chủ yếu của thi ca. Các tác giả Võ Thị Dung [22] và Nguyễn Thị Thùy [125] đã vận
dụng cơ chế tri nhận và sự quy ước hóa của ẩn dụ để khảo sát phạm trù cảm xúc,
đặc biệt đi sâu tìm hiểu ẩn dụ tình yêu trong tiếng Việt và trong thơ tình Xuân Diệu,
song cách khai thác của tác giả Võ Thị Dung thiên về cách tiếp cận ẩn dụ truyền
thống; tác giả Nguyễn Thị Thùy cũng mới chỉ ra và gọi tên được một số mô hình ẩn
dụ cấu trúc, cách lý giải chưa làm rõ được mô hình ánh xạ giữa các miền không
gian trong thơ Xuân Diệu.
Một hướng tiếp cận khác trong Việt ngữ học là nghiên cứu ẩn dụ ý niệm thông
qua các cứ liệu ngôn ngữ cụ thể. Tác giả Lê Thị Kiều Vân trong [145] đã nghiên cứu
17



ẩn dụ ý niệm thôn qua các từ khóa, với tư cách như một mã văn hóa trong ngôn
ngữ của dân tộc. Trong nghiên cứu này, tác giả đã chứng minh thế giới tinh thần của
con người chịu sự chi phối bởi cách mà con người trải nghiệm, tri giác thế giới khách
quan được thể hiện qua các từ khóa. Tiếp cận ẩn dụ tri nhận trên các diễn ngôn kinh
tế, tác giả Hà Thanh Hải [35] đã nghiên cứu việc sử dụng ẩn dụ ý niệm trong diễn
ngôn kinh tế Anh – Việt từ ba bình diện: nghĩa học, dụng học và tri nhận luận;
nghiên cứu vai trò của ẩn dụ ý niệm dựa trên mối quan hệ giữa ngôn ngữ, văn hóa và
tư duy.
Tóm lại, cũng giống như các bộ môn có tính chất liên ngành ở Việt Nam,
những vấn đề về ngôn ngữ học tri nhận nói chung và lý thuyết ẩn dụ ý niệm nói
riêng trong mấy năm qua đã thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. Các lĩnh
vực được giới nghiên cứu quan tâm nhiều nhất như: cách thức tri nhận và định vị
không gian, thời gian; các ẩn dụ ý niệm cảm xúc; ẩn dụ ý niệm của các từ ngữ chỉ
bộ phận cơ thể người; ẩn dụ ý niệm thực vật; ẩn dụ môi trường tự nhiên hay hoạt
động của con người; ẩn dụ trong sự hành chức cụ thể trong các tác phẩm thi ca…
Tuy nhiên, ẩn dụ ý niệm xét trong sự hành chức trong các tác phẩm âm nhạc, đặc
biệt là thể hiện trong các văn bản ca từ là lĩnh vực vẫn còn bỏ ngỏ, cần được quan
tâm khai thác, nghiên cứu.
3.2. Các nghiên cứu về Trịnh Công Sơn
Trịnh Công Sơn là một hiện tượng hiếm gặp. Sau khi ông mất (01 4 2001),
tính đến nay trong nước đã có tới gần 20 cuốn sách viết về cuộc đời và sự nghiệp âm
nhạc của ông, chưa kể các công trình ngoài nước như: Luận văn Cao học Những ca
khúc chi n tranh và hoà bình của Trịnh Công Sơn của tác giả Michiko, người Nhật
Bản viết bằng tiếng Pháp, bảo vệ tại Đại học Paris VII năm 1991; Trần Hữu Thục –
Tác giả, tác phẩm và sự kiện, Nxb Văn Mới, California 2005.
Những công trình đã xuất bản trong nước viết về Trịnh Công Sơn chủ yếu
chứa trong đó là những bài viết của bạn bè, người thân, đồng nghiệp, công chúng
yêu nhạc và ngưỡng mộ tài năng của ông, một số của các nhà báo, và số ít là các

nhà nghiên cứu ngôn ngữ, phê bình văn học. Những bài viết ấy đều có dung lượng
nhỏ, chủ yếu là kể kỷ niệm, giai thoại, bày tỏ cảm xúc, ấn tượng, và tình yêu đối với
nhạc sĩ, cảm nhận đối với từng bài hát, những đồng cảm về thân phận con người
18


trong chiến tranh qua những ca khúc phản chiến, những nỗi đau trong tình yêu và
những phát hiện về triết lý sống trong nhạc Trịnh,... Ít những bài viết mang tính chất
nghiên cứu ca từ dưới góc độ ngôn ngữ, càng hiếm có những bài viết nghiên cứu về
ẩn dụ tri nhận dù chỉ là đề cập đến một cách đơn lẻ.
Tác giả Bửu ý [150] trong công trình của mình đã dành hẳn một chương để
nghiên cứu ca từ Trịnh Công Sơn dưới góc độ ngôn ngữ. Tác giả đã đưa ra những
đặc điểm của ngôn ngữ nhạc Trịnh như: Ngôn ngữ nhịp bốn; kết hợp từ ngữ độc
đáo (giống như tạo thành một từ ngữ thứ ba, một hình tượng kiểu mới như “nắng
thuỷ tinh”, “tuổi đá buồn”, “vết lăn trầm”, “phơi tình cho nắng khô mau”, “treo tình
trên chiếc đinh không”...); các biện pháp tu từ (láy lại, ẩn dụ); ngôn ngữ cưỡng bức
(tự hạ mình khi ví mình là “hạt bụi”, “lá cỏ”, “đá cuội”,...); ngôn ngữ siêu thực
(màu sắc trừu tượng mang tính chất tâm lý, góc độ thu hình lạ,...); ngôn ngữ hiện
sinh (cái tôi hoang mang, cuộc đời phù du),…
Cuốn M t cõi Trịnh Công Sơn (2004) tập hợp nhiều bài viết có giá trị về
Trịnh Công Sơn: Bửu Ý phát biểu về những ca khúc phản chiến của Trịnh Công
Sơn; Lê Hữu nhận xét về cái mới và các kết hợp độc đáo trong ngôn ngữ Trịnh; Cao
Huy Thuần phân tích các cặp đối nghịch - nét riêng biệt độc đáo trong tư duy ngôn
ngữ nhạc Trịnh: có-không, m t-hai, sống-ch t, vui-buồn, lệ rơi-không buồn, bình
yên-buồn,... Trần Hữu Thục phân tích về giá trị của những từ ngữ được lặp đi lặp lại
nhiều lần, và khẳng định đó là những hình ảnh mang tính chất biểu tượng như “tuổi
đá buồn; cồn đá; môi hờn; nắng khuya,...”, nhưng tác giả không phân tích biểu
tượng mà đi vào khai thác một cấp độ khác của biểu tượng: Hình tượng. Những bản
tình ca và thân phận ca của Trịnh Công Sơn được tác giả gọi bằng khái niệm “Nhân
sinh ca” và tổng quát hoá thành ba hình tượng chính: Em – Cõi thế - Tôi. “Em” là

ngôi vị để chỉ người tình, có thể là một người tình cụ thể, mà cũng có thể là người
tình tưởng tượng, và cũng có thể chỉ là một khái niệm, một bóng dáng, một hình ảnh,
một sản phẩm thuần tuý tưởng tượng. “Tôi” là chủ thể, là tự ngã, có đôi khi trở thành
ta, là một thân thế, một hiện sinh, một số kiếp. “Cõi thế” (hay “cõi đời”, hay “một
cõi đi về”) có thể là người đời hay đời người, hay những đối vật gần gũi tham dự
trong kiếp hiện sinh, tồn tại bên cạnh mỗi người, bên cạnh cái Em, bên cạnh cái Tôi,
trong
19


cái Em, trong cái Tôi, hoặc tạo thành cái Em, cái Tôi: dòng sông, ánh nắng, con
trăng, bông hoa, góc phố với những liên hệ xa gần với Em, Tôi, với Người và đời
người.
Cuốn chuyên luận đầu tiên nghiên cứu về ca từ Trịnh Công Sơn là của tác
giả Bùi Vĩnh Phúc [91]. Để đi sâu vào thế giới nghệ thuật của Trịnh Công Sơn, tác
giả đã đưa ra những ám ảnh nghệ thuật chi phối thế giới vô thức, làm nên “huyền
thoại cá nhân” của tác giả: ám ảnh về chiến tranh; ám ảnh về sự cô đơn, sự phụ rẫy;
ám ảnh về cuộc chia tay lớn; ám ảnh về một người nữ,... những ám ảnh này được
biểu hiện bằng những hình ảnh phóng chiếu, khúc xạ lẫn nhau qua nhiều ca khúc
của ông. Ngoài ra tác giả còn phân tích những không gian nghệ thuật trong ca từ
Trịnh Công Sơn như không gian trời đất, không gian núi biển, không gian rừng,
trong đó tác giả có lưu ý đến một số thủ pháp tu từ như ẩn dụ, nhân hoá, hoán dụ, và
các kết hợp từ lạ, tạo nên phong cách riêng của Trịnh Công Sơn.
Nguyễn Thị Bích Hạnh [38], [39] lại đi sâu nghiên cứu về hệ thống các biểu
tượng ngôn ngữ trong ca từ nhạc Trịnh, trên cơ sở khảo sát 16 biểu tượng, tác giả đã
phân chia thành 3 hệ thống nhỏ: biểu tượng có chất liệu trực quan (sản sinh từ mẫu
gốc Bầu trời, nước, Con người như “đá”, “núi”, “mặt trời”, “nắng”, “lửa”, “biển”,
“sông”, “đôi mắt”, “đôi môi”); các biểu tượng phi trực quan (sản sinh từ mẫu gốc
Thời gian và Âm thanh như “ngày”, “mùa”, “đời người”, “lời ru”, “tiếng súng”) và hệ
thống các biểu tượng chuyển hoá giữa trực quan và phi trực quan (biểu tượng “con

đường”, “khu vườn”). Trong cuốn sách này, tác giả đã đi sâu vào khai thác các cấp
độ phái sinh của biểu tượng, trên cơ sở ý nghĩa bản thể của các mẫu gốc, tìm ra các
lớp nghĩa biểu trưng cho các biểu tượng gốc và biểu tượng phái sinh trong ca từ Trịnh
Công Sơn.
Ngoài những cuốn sách viết về cuộc đời và sự nghiệp âm nhạc của Trịnh
Công Sơn đã xuất bản kể trên, những công trình nghiên cứu mang tính chất chuyên
đề về ca từ nhạc Trịnh có thể kể đến một số luận văn thạc sĩ, nghiên cứu một số
mảng trong ca từ Trịnh Công Sơn như: cuộc đời và sự nghiệp, tầm ảnh hưởng của
Trịnh Công Sơn, thân phận con người và tình yêu trong ca khúc Trịnh Công Sơn
[127]; nghiên cứu quan niệm về cõi sống, về cái chết và về tình yêu của Trịnh Công
Sơn [41]; phân loại từ ngữ trong ca từ nhạc Trịnh và phân tích cách thức hoạt động
20


cũng như các giá trị biểu hiện của chúng [57]; nghiên cứu quan niệm mỹ học của
Trịnh Công Sơn về nghệ thuật;

21


quan niệm về cái đẹp; quan niệm về cái bi trong ca từ Trịnh Công Sơn [70]; chỉ ra
đặc điểm các yếu tố trong biểu thức so sánh trong ca từ Trịnh Công Sơn để làm nổi
bật giá trị nghệ thuật của phép so sánh tu từ đối với việc biểu đạt nội dung tác phẩm
cũng như khẳng định phong cách tác giả [99]; tìm hiểu ẩn dụ thực vật trong ca từ
Trịnh Công Sơn dựa trên cách tiếp cận truyền thống về ẩn dụ, dưới góc độ là một
phương thức phát triển nghĩa mới và là một biện pháp tu từ [20]; khảo sát không gian
cơ bản trong ca từ Trịnh Công Sơn (không gian vũ trụ; không gian sinh hoạt của con
người) và các đại lượng thời gian (Chiều, Đêm, Bốn mùa xuân - hạ - thu - đông…),
song những phần nghiên cứu chủ yếu mới dừng ở góc độ khảo sát, chưa đưa ra được
những đánh giá đặc biệt, hoặc những đánh giá của tác giả đưa ra song trùng với

những đánh giá của các nghiên cứu trước đây (như trong công trình của Bùi Vĩnh
Phúc) [79].
Luận văn đầu tiên nghiên cứu về ca từ của Trịnh Công Sơn dưới góc độ ngôn
ngữ học tri nhận là của tác giả N uyễn Thị Thanh Huyền, ĐH Sư phạm TP. Hồ Chí
Minh (2009) với đề tài “Ẩn dụ tri nhận - Mô hình ẩn dụ cấu trúc trên cứ liệu ca từ
Trịnh Công Sơn”. Trong luận văn này, tác giả tập trung khai thác 2 mô hình ẩn dụ
cấu trúc cơ sở: “Cu c đời là đoá hoa vô thường” và “Cu c đời là m t cõi đi về”.
Trong nghiên cứu của mình, tác giả đã dựa trên cấu trúc nghĩa biểu trưng của “Đóa
hoa vô thường” bao gồm những đặc trưng như: nụ, loài, đóa, cánh, hương thơm, màu
sắc, nở, tàn, phai, héo,… để làm căn cứ giải mã cấu trúc ý niệm “Đóa hoa vô thường”
trong ca từ Trịnh Công Sơn, trong đó - từ một hiện tượng thiên nhiên, với trạng thái
của hoa “nở
- tàn” đã được chuyển thành hình ảnh tư duy trong ý niệm “Vô thường” của cuộc đời.
Song trong nghiên cứu của mình, tác chủ yếu thiên về giải thích các quan niệm về
“Vô thường”, cái nhìn văn hóa của Việt Nam với “Vô thường”. Phần lý giải cơ chế
ánh xạ giữa hai miền không gian, tác giả mới chỉ dừng lại ở việc liệt kê một cách cơ
học những câu hát có chứa quan niệm “vô thường” trong tư duy nhạc Trịnh theo
từng ý niệm như: đời người, sự sống, sự chết, hạnh phúc,… là đóa hoa vô thường.
Luận văn chưa lý giải được cơ chế chiếu xạ, chưa chỉ ra được các đặc điểm của tri
nhận của cơ chế chiếu xạ trong tư duy của Trịnh Công Sơn. Với ý niệm “Cuộc đời là
một cõi đi về”, dựa trên quan niệm vũ trụ là cát (tro) và con người hóa thân từ tro
22


bụi trong Kinh thánh, tác giả cho rằng trong ca từ Trịnh Công Sơn, cuộc “đi – về”
của kiếp người xảy

23



ra trong vòng khép kín, trong đó sự “đi – về” nối tiếp nhau tạo ra hình ảnh “đi loanh
quanh”, kiếp người diễn tiến theo luật luân hồi “nhân – quả”, đời người “là chuyến đi
không có điểm xuất phát và đích đến, nghĩa là không có sinh, không có diệt, cái chết
là khởi nguồn của sự sống” [58]. Ở mô hình ẩn dụ cấu trúc này, tác giả cũng chủ
yếu liệt kê, phần lý giải quy luật ánh xạ còn hết sức sơ sài, mờ nhạt. Tuy nhiên, đây
là một tài liệu tham khảo rất hữu ích cho tác giả luận án, qua đó, bằng phương pháp
loại trừ, tiếp tục đi sâu khai thác tìm hiểu các mô hình ẩn dụ tri nhận trong ca từ
Trịnh Công Sơn trên các thể loại: ẩn dụ cấu trúc và ẩn dụ định hướng. Bên cạnh đó,
có thể khai thác các cấp độ phái sinh của ẩn dụ dựa trên các lược đồ hình ảnh và các
ẩn dụ quy ước; các mối quan hệ kết hợp, tương tác giữa các ẩn dụ; và đặc biệt là sự
tương hợp giữa các ẩn dụ làm nên nguồn sức mạnh trong ca từ Trịnh Công Sơn.
Trên cơ sở những công trình đã nghiên cứu về ngôn ngữ học tri nhận, và
nghiên cứu về ngôn ngữ trong ca từ của Trịnh Công Sơn, tác giả luận án cho rằng
cần tiếp tục nghiên cứu sâu hơn dưới góc độ ngôn ngữ học tri nhận trên cứ liệu ca từ
này, để góp phần làm sáng tỏ thế giới tinh thần của nhạc sĩ, khám phá các vỉa tầng
sâu kín trong thế giới vô thức của cá nhân Trịnh, dựa trên những lược đồ hình ảnh
mang tính ý niệm đặc thù của tư duy văn hoá Việt. Trên cơ sở phân tích sự chuyển
dịch của các ý niệm gắn với các mô hình ẩn dụ tri nhận, so sánh đối chiếu trong các
miền văn hoá khác nhau, từ đó có thể làm sáng tỏ tính khác biệt về văn hoá trong
ngôn từ của nhạc sĩ, đặt trong tương quan giữa cái mang tính phổ quát toàn nhân
loại với cái đặc thù mang tính dị biệt của từng dân tộc.
Các nhà ngôn ngữ học tri nhận đã chỉ ra rằng, mỗi dân tộc, mỗi nền văn hóa
luôn mang trong mình các hệ thống ẩn dụ mang tính ổn định tương đối, lại vừa chứa
đựng một tiềm năng biến đổi. Vì vậy, khi nghiên cứu ẩn dụ ý niệm, nhất thiết phải
đặt nó trong sự vận động xã hội. Xuất phát từ cơ sở nêu trên, trong quá trình phân
tích các ẩn dụ ý niệm trong ca từ Trịnh Công Sơn, ngoài các thao tác phân tích ý
niệm và suy luận của ngôn ngữ, luận án sẽ đặc biệt chú ý kết hợp với các nhân tố
của ngữ cảnh văn hóa như: đặc điểm và diễn biến của thời đại; ý thức hệ tư tưởng;
môi trường văn hóa - nghệ thuật; những quan hệ giao lưu và tiếp biến văn hóa,… có
ảnh hưởng trực tiếp đến thế giới quan và nhân sinh quan của tác giả. Để lý giải các

24


ẩn dụ ý niệm trong ca từ Trịnh Công Sơn, tác giả luận án cho rằng cần thiết nắm rõ
một số yếu tố của ngữ cảnh văn hoá như: đời sống tâm lý cá nhân và đời sống tâm
lý cộng đồng; các yếu tố văn hoá hay tri thức nền của nhạc sĩ; bối cảnh xã hội ảnh
hưởng trực tiếp đến tư duy nghệ thuật của Trịnh Công Sơn,… thì mới có thể hiểu rõ
thông điệp của nhạc sĩ. Đây cũng là căn cứ để giải mã toàn bộ hệ thống ẩn dụ trong
ca từ của ông.
Sinh năm 1939, Trịnh Công Sơn lớn lên bằng tuổi chiến tranh đứt rồi lại nối,
chiến tranh dai dẳng và ám ảnh đến nỗi đứng ở toạ độ nào trên đất nước cũng nghe
thấy âm thanh của chiến tranh. Thuở nhỏ, ông đã từng có thời gian sống trong nhà
tù cùng cha vào năm 1949 ở nhà lao Thừa Phủ trước khi cả gia đình vào Sài Gòn.
Năm 16 tuổi thì cha mất, ông luôn luôn bị ám ảnh bởi một nỗi sợ hãi: Cái chết. Cái
chết của người cha chính là lý do khiến Trịnh Công Sơn không bao giờ cho phép
mình là kẻ cầm súng. Chiến tranh đã biến Trịnh Công Sơn thành kẻ trốn lính
chuyên nghiệp. Ông bị chính quyền Nguỵ săn đuổi. Chiến tranh đã mang những
người bạn của Trịnh Công Sơn vào guồng máy cuồng sát, và rất nhiều người trong
số họ đã hi sinh trong khi lý tưởng còn xanh ngời những khát vọng. Chiến tranh đã
khiến Trịnh Công Sơn phải chứng kiến bao thảm cảnh rùng rợn, chỗ nào cũng thấy
thịt xương và máu trộn lẫn. Âm thanh của cuộc sống luôn luôn là tiếng đạn bom,
ánh sáng ban đêm là hoả châu rực sáng, những số phận trong chiến tranh là những
đứa trẻ loã lồ, mồ côi, què cụt, những người mất trí, điên loạn vì mất người thân
trong chiến tranh.
Vốn là một gia đình Phật tử sống trên đất Huế, năm 1955, sau khi cha mất,
Trịnh Công Sơn được gia đình gửi vào quy y ở chùa Phổ Quang (có sách ghi là chùa
Hiếu Quang) với pháp danh Nguyên Thọ. Thế giới quan của Phật giáo về nhân
duyên, về sự biến đổi khôn lường của vạn vật một cách vô thường theo quy luật sinh
- trụ - dị - diệt, thành - trụ - hoại - không đã sớm được Trịnh Công Sơn khải thị và
đã mặc khải nó trong các ca khúc của mình sau này với một tâm hồn rất an nhiên.

Là một trí thức tây học, lại rất yêu thích học môn triết học, Trịnh theo học
khoa triết ở một trường của Pháp, sau này Trịnh Công Sơn đã đưa triết học vào các
ca khúc của mình với những lời ca mượt mà mà lại vô cùng gần gũi. “Tôi vốn thích
25


×