Tải bản đầy đủ (.docx) (64 trang)

So sánh hát nói trong thơ Cao Bá Quát và Nguyễn Công Trứ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.23 KB, 64 trang )

SO SÁNH HÁT NÓI TRONG THƠ CAO BÁ QUÁT VÀ NGUYỄN CÔNG
TRỨ
1. Tác giả
1.1. Nguyễn Công Trứ
1.1.1 Cuộc đời
Nguyễn Công Trứ tên tục là Củng, tự là Tồn Chất, hiệu là Ngộ Trai, biệt hiệu là Hy
Văn, sinh ngày 01 tháng 11 năm Mậu Tuất, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 39, tức ngày
19 tháng 12 năm 1778; người làng Uy Viễn, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Cha
là Nguyễn Công Tấn, đậu cử nhân năm hai mươi bốn tuổi, làm giáo thụ phủ Anh
Sơn, Nghệ An, sau thăng làm tri huyện Quỳnh Côi, rồi tri phủ Tiên Hưng, Thái
Bình. Khi quân đội Tây Sơn ra Bắc chiếm Thăng Long, Nguyễn Công Tấn xướng
nghĩa cần vương chống lại, không thành, ông đưa gia đình về quê mở trường dạy
học. Nguyễn Huệ mấy lần mời ra làm quan, ông đều từ chối.
Mẹ Nguyễn Công Trứ là con gái quan quản Nội thị Cảnh Nhạc bá, họ Nguyễn,
người xã Phụng Dực, huyện Thượng Phúc, tỉnh Sơn Nam (nay thuộc Hà Nội).
Nguyễn Công Trứ từ bé đã sống trong cảnh nghèo khổ. Khi nhà Nguyễn đang tích
cực củng cố địa vị thống trị của mình, xã hội có vẻ ổn định, Nguyễn Công trứ hăm
hở đi học đi thi.Năm 1819, ông thi đậu Giải nguyên và được bổ đi làm quan.Bấy
giờ ông đã bốn mươi mốt tuổi.

Năm 1820 Nguyễn Công Trứ giữ chức Hành tẩu ở Quốc sử quán. Sau đó ông liên
tiếp giữ các chức Tri huyện Đường Hào, Hải Dương (1823), Tư nghiệp Quốc tử
Giám (năm 1824), Phủ thừa phủ Thừa Thiên (1825), Tham tán quân vụ, rồi thăng
Thị lang Bộ hình (năm 1826). Năm 1828, ông được thăng Hữu tham tri Bộ hình,


sung chức Dinh điền sứ, chuyên coi việc khai khẩn đất hoang. Năm 1832, ông
được bổ chức Bố Chánh sứ Hải Dương, cùng năm thăng Tham tri Bộ binh, giữ
chức Tổng đốc tỉnh Hải An... Sau nhiều thăng giáng, năm 1845 Nguyễn Công Trứ
làm Chủ sự Bộ hình, năm sau làm quyền Án sát Quảng Ngãi, rồi đổi ra làm Phủ
thừa Phủ Thừa thiên, rồi năm 1847 ông thăng làm Phủ doãn phủ ấy. Cũng năm này,


ông tròn bảy mươi tuổi ta, Nguyễn Công Trứ xin về hưu, nhưng Thiệu Trị không
cho. Năm 1848, Tự Đức nguyên niên, ông được về hưu hẳn.Trong cuộc đời làm
quan của mình, Nguyễn Công Trứ đã làm hai việc đáng chú ý hơn cả là khai hoang
và giúp triều đình “an dân”.
Về “an dân”, Nguyễn Công Trứ có công làm yên những cuộc khởi nghĩa nông dân
của Phan Bá Vành ở Nam Định, của Nùng Văn Vân ở Tuyên Quang, của Lê Duy
Phương ở Thanh Hoá, hay cuộc tiễu phạt ở Quảng Yên... Nguyễn Công Trứ hết sức
chăm lo cho cuộc sống đói nghèo của nông dân. Ông đề nghị “đặt nhà học” cho
con em nhân dân được học hành... “đặt xã thương” ở các làng để quản lý thóc gạo.
Ông tố cáo “cái hại cường hào làm cho đến nỗi con mất cha, vợ mất chồng, tính
mệnh phải thiệt hại, tài sản phải sạch không” và đề nghị triều đình “trị tội rất nặng”
(Sớ nói về tệ cường hào; năm 1828), v.v...Trong những việc ông làm, có ích lợi
thiết thực và to lớn cho nhân dân hơn cả là công cuộc khẩn hoang.Nhân dân các
vùng khai hoang rất biết ơn ông.Họ lập đền thờ ông ngay khi ông còn sống.
Nguyễn Công Trứ là một ông quan rất thanh liêm, chính trực. Thuở bé nghèo xác,
lớn lên thi đỗ, làm quan, về già Nguyễn Công Trứ vẫn sống đạm bạc. Năm 1858,
khi nghe tin Pháp đánh Đà Nẵng, ông đã tám mươi tuổi, nhà thơ vẫn dâng sớ lên
vua, tha thiết xin được tòng quân đánh giặc: “ Dù tôi như cái màn, cái lọng rách
cũng không nỡ tự nản chí. Còn chút hơi thở nào xin lên đường ngay”.Nguyễn
Công Trứ mất ngày 14 tháng 11 năm Tự Đức thứ 12.Ông thọ 81 tuổi.


Suốt cuộc đời bốn phần năm thế kỷ của mình, Nguyễn Công Trứ đã làm nhiều
việc, thâm tâm ông bao giờ cũng đinh ninh rằng việc mình làm là “vì dân vì nước”:

1.1.2 Sự nghiệp

Nguyễn Công Trứ là nhà thơ có một vị trí đáng kể trong văn học Việt Nam. Thơ
văn của ông mang màu sắc thời đại rõ rệt. Nhìn tổng quát thơ văn Nguyễn Công
Trứ tập trung vào ba chủ đề chính:

1. Những bài thơ xoay quanh chí nam nhi.
2. Những bài thơ xoay quanh cảnh nghèo và thế thái nhân tình.
3. Những bài thơ xoay quanh triết lý hưởng lạc.

Chí nam nhi:
Đây chính là lý tưởng sống của nhà thơ Nguyễn Công Trứ khi còn đầu xanh tuổi
trẻ.Con người sinh ra là sự “ hữu ý” của trời đất. Ông đặt vấn đề sống ở đời phải
làm việc có ích:

“ Đã mang tiếng ở trong trời đất,
Phải có danh gì với núi sông”


Nguyễn Công Trứ hay nói đến công danh:

“ Tang bồng hồ thỉ nam nhi trái,
Cái công danh là cái nợ lần”.

Quan niệm của ông sống trong xã hội phải chiếm lấy một địa vị để...làm việc “trí
quân trạch dân”; công danh trong Nguyễn Công Trứ thường gắn liền quan niệm
trung hiếu, quân thân.Nguyễn Công Trứ cũng là một hồn thơ lạc quan, bay
bổng.Ưu điểm trong quan niệm chí nam nhi của Nguyễn Công Trứ là nó khẳng
định một cách dứt khoát vai trò tích cực của con người trong xã hội. Những vần
thơ đầy lạc quan tin tưởng của nhà thơ vang lên trong không khí xã hội triều
Nguyễn, cho dù có hạn chế như thế nào, nó vẫn có ý nghĩa.

Cuộc sống nghèo khổ và thế thái nhân tình

Nguyễn Công Trứ là một người theo tinh thần Nho giáo tích cực, một ông quan
thanh liêm, rất chú ý đến vấn đề nhân sinh và xã hội. Văn Thơ Nguyễn Công Trứ

có ghi lại tình cảnh nghèo khổ của bản thân ông, cũng như của những nho sỹ
đương thời:

“ Ngày ba bữa vỗ bụng rau bình bịch, quân tử ăn chẳng cần no,


Đêm năm canh an giấc ngáy kho kho,
đời thái bình cổng thường bỏ ngỏ...”

Trong cái nhìn khỏe khoắn, Nguyễn Công Trứ không muốn nói nhiều đến cái xấu,
cái tiêu cực. Ông thấm thía tình cảnh của những người lép vế trong xã hội:

“ Ăn ở sao cho trải sự đời
Vừa lòng cũng khó há rằng chơi.
Nghe như chọc ruột tai làm điếc,
Giận đã căm gan miệng mỉm cười ”

Quan lại trong triều cũng bất tài, hại người:

“Tuổi tác càng già càng xốp xáp,
Ruột gan chẳng có có gai chông.”

Tiếng thơ của Nguyễn Công Trứ về đề tài này có yếu tố nhân dân, nhiều câu đến
mộc mạc, nôm na mà vẫn gây xúc động ...“ Trong thơ văn Nguyễn Công Trứ có
một cái gì chưa từng có trong văn chương Việt Nam - một nguồn cảm hứng mau lẹ,


quả quyết như một đội cảm tử. Cái thể ca trù nhờ phép thần của Nguyễn Công Trứ
đã trở nên một thể cách hoàn toàn Việt Nam, rất thích hợp với những sự diễn xuất
hùng mạnh... Tôi nhớ như có lần ông Huỳnh Thúc Kháng ví cái điệu thơ ấy với

thuỷ triều, thật không phải là một lời nói vu vơ...” ( Lưu Trọng Lư).
Trong lịch sử văn học dân tộc, hiếm có một nhà thơ nào như Nguyễn Công Trứ vừa
viết được những câu hát nói hào hùng:

“ Vòng trời đất dọc ngang, ngang dọc,
Nợ tang bồng vay trả trả vay.
Chí làm trai nam bắc đông tây
Cho phỉ sức vẫy vùng trong bốn bể ”

Nhiều bài thơ của ông dường như được cấu tạo bằng thành ngữ, tục ngữ, và nhà
thơ cũng tư duy theo cách tư duy của thành ngữ, tục ngữ:

“ Một lưng, một vốc, kém chi mô,
Mới biết chanh chua khế cũng chua;
Đã chắc bữa trưa chừa bữa tối,
Mà tham con diếc tiếc con rô...”

Đặc biệt trong bài Hàn Nho Phong vị Phú, những yếu tố ngôn ngữ nhân dân được


nhà thơ sử dụng một cách tổng hợp hết sức linh hoạt.Nguyễn Công Trứ là nhân vật
kiệt xuất của Việt Nam thời kỳ cuối thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX.
1.2. Cao Bá Quát
1.2.1 Cuộc đời
Cao Bá Quát (1809? – 1855), tên tự là Chu Thần, hiệu là Cúc Đường, biệt hiệu là
Mẫn Hiên. Ông là lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương (nay thuộc thị xã Sơn Tây,
Hà Nội), và là một nhà thơ nổi danh ở giữa thế kỷ 19 trong văn học Việt Nam.
Cao Bá Quát, người làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh nay là xã Phú
Thị, huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội). Ông là con Cao Tửu Chiếu, tuy không
đỗ đạt nhưng là một nhà nho khá nổi danh; và là em song sinh với Cao Bá Đạt.

Thuở nhỏ, Cao Bá Quát sống trong cảnh nghèo khó, nhưng nổi tiếng là trẻ thông
minh, chăm chỉ và văn hay chữ tốt.Năm 14 tuổi, ông trúng tuyển kỳ thi khảo hạch
ở Bắc Ninh. Năm Tân Mão (1831) đời vua Minh Mạng, ông thi hương đỗ Á
Nguyên tại trường thi Hà Nội, nhưng đến khi duyệt quyển, thì bị bộ Lễ kiếm cớxếp
ông xuống hạng cuối cùng trong số 20 người đỗ Cử nhân. Sau đó trong chín năm,
cứ ba năm một lần, Cao Bá Quát vào kinh đô Huế dự thi Hội, nhưng lần nào cũng
bị đánh hỏng.
Năm 1841, ông được quan tỉnh Bắc Ninh tiến cử lên triều đình, triệu vào Huế để
nhận một chức tập sự ở bộ Lễ. Tháng 8 năm đó, ông được cử làm sơ khảo trường
thi Thừa Thiên, thấy một số bài thi hay nhưng có chỗ phạm trường quy, ông bàn
với bạn đồng sự là Phan Nhạ rồi lấy son hòa muội đèn chữa giúp 24 quyển .Việc bị
phát giác, Giám trường thi là Hồ Trọng Tuấn đàn hặc, ông bị bắt giam, bị tra tấn rồi
bị kết vào tội chết.Nhưng khi án đưa lên, vua Thiệu Trị đã giảm cho ông từ tội trảm
quyết xuống tội giảo giam hậu, tức được giam lại đợi lệnh.
Sau gần ba năm bị giam cầm khổ sở, ông được triều đình tạm tha, nhưng phải đi


xuất dương hiệu lực đi sang Batavia (Indonesia) và Campuchia với mục đích chính
là đem đường bán cho nước ngoài để mua về những hàng xa xỉ cho triều đình.
Vào tháng 8 năm 1844, đoàn thuyền của phái bộ về đến Việt Nam, và sau đó Cao
Bá Quát được gọi về bộ Lễ. Ở đây không lâu, ông bị thải hồi về quê. Sau ba năm bị
thải về, Cao Bá Quát nhận được lệnh triệu vào kinh làm ở Viện Hàm lâm, lo việc
sưu tầm và sắp xếp văn thơ. Được hơn một tháng, ông nhận lệnh đi công cán ở Đà
Nẵng, rồi trở về công việc cũ. Thời gian ở kinh lần này, ông đã gia nhập Mạc Vân
Thi xã.
Năm 1851không được lòng một số quan lớn tại triều, Cao Bá Quát phải rời kinh đô
Huế đi làm Giáo thụ ở phủ Quốc Oai (Sơn Tây cũ).Một lần nữa, ông lại trở về quê
để cùng khổ với dân, để suy nghĩ thêm về những chính sách hà khắc của triều đình,
để thêm quyết tâm đánh đổ nó.
Giữa năm 1853, lấy cớ về nuôi mẹ già, ông xin thôi dạy học.Gặp lúc vùng Sơn Tây

bị hạn nặng, lại có nạn châu chấu làm cho mùa màng mất sạch, đời sống người dân
hết sức đói khổ. Phần thì phẫn chí, phần thì thương dân, khoảng cuối năm 1854,
Cao Bá Quát tham gia lãnh đạo cuộc khởi nghĩa ở Mỹ Lương (Sơn Tây), do Lê
Duy Cự làm “Minh chủ”.
Đang trong quá trình chuẩn bị, thì việc bị bại lộ.Trước cục diện này, Cao Bá Quát
đành phải phát lệnh tấn công vào cuối năm 1854.Cao Bá Quát bị Suất đội Đinh
Thế Quang bắn chết tại trận, hơn trăm nghĩa quân bị chém chết và khoảng 80 nghĩa
quân khác bị bắt.
Nghe tin đại thắng, vua Tự Đức lệnh cho ban thưởng và cho đem thủ cấp của
nghịch Quát bêu và rao khắp các tỉnh Bắc Kỳ rồi giã nhỏ quăng xuống sông.

1.2.2 Sự nghiệp


Ngay khi Cao Bá Quát tham gia cuộc khởi nghĩa ở Mỹ Lương (Sơn Tây), các tác
phẩm của ông đã bị triều đình nhà Nguyễn cho thu đốt, cấm tàng trữ và lưu hành,
nên đã bị thất lạc không ít. Tuy vậy, trước 1984, nhóm biên soạn sách Thơ văn Cao
Bá Quát, đã tìm đến kho sách cổ của Thư viện Khoa học kĩ thuật trung ương (Hà
Nội), và sau khi loại trừ những bài chắc chắn không phải của ông, thì số tác phẩm
còn sót lại cũng còn được trên ngàn bài được viết bằng thứ chữ Nôm và chữ Hán.
Cụ thể là hiện còn 1353 bài thơ và 21 bài văn xuôi, gồm 11 bài viết theo thể ký
hoặc luận văn và 10 truyện ngắn viết theo thể truyền kỳ. Trong số này về chữ Nôm,
có một số bài hát nói, thơ Đường luật và bài phú Tài tử đa cùng (Bậc tài tử lắm
cảnh khốn cùng). Về chữ Hán, khối lượng thơ nhiều hơn, được tập hợp trong các
tập:
-Cao Bá Quát thi tập
-Cao Chu Thần di thảo
-Cao Chu Thần thi tập
-Mẫn Hiên thi tập
Tuổi trẻ của Cao Bá Quát được ghi lại bằng hàng loạt bài thơ tràn đầy khí phách,

có thể kể đến là:
Ta muốn trèo lên đỉnh cao ngất
Hát vang lên để gửi tấm lòng vào mây nước...
Nhưng rồi, mấy lần khăn gói vào Huế thi đều bị hỏng, nên mộng khoa cử đã tan.
Năm 32 tuổi, lần đầu ông được bộ làm một chức quan nhỏ (Hành tẩu bộ Lễ).Ở đây,
ông bắt đầu cảm thấy nhục chí và bế tắc khi nhìn thấy cảnh thối nát, bất công và
hèn yếu của nhà Nguyễn. Đến khi bị tù, bị tra tấn vì chữa những quyển thi, ông
càng đau khổ, uất ức và căm thù cái triều đình ấy:


Gông dài!
Gông dài!
Mày biết ta chăng?
Ta chẳng có gì đáng hợp với mày cà!
Mày biết thế nào được ai phải ai trái!
Mày chẳng qua chỉ là cái máy làm nhục người đời mà thôi...
Sau thời gian dương trình hiệu lực, Cao Bá Quát bị thảy về quê quán.Ông càng có
nhiều dịp tiếp xúc với đời sống của nhân dân. Những cảnh người dân vì túng thiếu
đói rét, phải đi xin ăn hay những cảnh họ bị bắt phu bắt lính...đều đã làm ông đau
xót, day dứt. Đứng trước những cảnh tình ấy, cộng thêm nỗi đau của bản thân, cuối
cùng đã dẫn ông đến những ý nghĩ hành động. Tuy nhiên, mãi đến lần Cao Bá Quát
bị đổi về làm Giáo thụ ở Quốc Oai, thì suy nghĩ mới trở thành quyết tâm đứng lên
đánh đổ nhà Nguyễn:
Mặt trời đỏ lẩn đi đàng nào?
Để dân đen than thở mãi...
Và:
Tài trai sống ở đời, đã không làm được việc phơi gan, bẻ gãy chấn song, giữ vững
cương thường.
Lại ngồi nhìn bọn cầm quyền sói lang hoành hành,
Đến lúc tuổi già thì mặc áo gấm ban ngày về bôi nhọ quê hương.

Chỉ cúi đầu luồn xuống mái nhà thấp, nhục cả khí phách,
Đến lúc già thì gối đầu vào vợ con mà chết,
Giả sử hạng người ấy xuống suối vàng gặp hai cụ (Chu Văn An và Nguyễn Trãi),
Thì cũng mặt dầy, trống ngực đánh, thần sắc rũ rượi ra mà thôi…
Theo đánh giả của từ điển văn học:
“Cao Bá Quát là một nhà thơ rất có bản lĩnh. Từ những tác phẩm đầu tiên đã thấy


lòng tin của nhà thơ vào ý chí và tài năng của mình. Ông sống nghèo, nhưng khinh
bỉ những kẻ khom lưng uốn gối để được giàu sang, và tin rằng mình có thể tự thay
đổi đời mình.
Đến khi làm quan, muốn đem tài năng ra giúp đời, nhưng rồi Cao Bá Quát sớm
nhận ra rằng vấn đề không hề đơn giản như ông tưởng.
Có những lúc cảm thấy bất lực trong việc thay đổi, ông muốn hưởng nhàn, vào
hưởng lạc như Nguyễn Công Trứ. Thế nhưng mỗi khi nghĩ đến những người cùng
khổ bị áp bức, ông lại thấy cách đó là không thể, mà phải tìm một con đường khác.
Cuối cùng, con đường mà ông chọn là đến với phong trào nông dân khởi nghĩa
chống lại triều đình.
Ngoài những chủ đề nêu trên, ông còn viết về vợ con, bè bạn, học trò và quê
hương. Bài nào cũng thắm thiết, xúc động. Ông cũng có một số bài đề cao những
anh hùng trong lịch sử, để qua đó thể hiện hoài bão của mình. Ông cũng có một số
bài thơ viết về chuyện học, chuyện thi mà ông cho rằng chỉ là chuyện "nhai văn
nhá chữ". Trong dịp đi sang Indonesia, ông cũng có những bài thơ phản ảnh cảnh
bất công giữa người da trắng với người da đen...
Về mặt nghệ thuật, Cao Bá Quát là một nhà thơ trữ tình với một bút pháp đặc sắc.
Ông làm thơ nhanh, có lúc "ứng khẩu thành chương", nhưng vẫn thể hiện được
cảm xúc vẫn dồi dào và sâu lắng. Và mặc dù hình tượng trong thơ ông thường bay
bổng, lãng mạn, nhưng trong những bài viết về quê hương thì ông lại sử dụng rất
nhiều chi tiết hiện thực gợi cảm. Ngoài ra, đối với thiên nhiên, ông cũng hay nhân
cách hóa, coi đó như những người bạn tri kỷ tri âm...”

Và như GS. Thanh Lãng nhận xét:
“Tư tưởng độc lập của Cao Bá Quát khác cái chí nam nhi của Nguyễn Công Trứ.
Ông Trứ lập nghiệp là để giúp vua, để chu toàn nghĩa quân thần; còn ông Quát
mang cả cái mộng thay đổi thời cuộc và chuyển vần số mệnh...Về mặt nghệ thuật,
sở trường của ông là thể phú và thể ca trù. Hai thể này, với ông đã vươn tới một


trình độ nghệ thuật tuyệt vời. Có điều ông hay lạm dụng chữ nho và điển tích, vì
vậy có thua kém Nguyễn Công Trứ về thể loại ca trù.”
2. So sánh hát nói trong thơ ca Nguyễn Công Trứ và Cao Bá Quát
2.1. Hát nói
Hát nói là một trong các lối hát ả-đào hay đào nương-ca. Hát ả - đào gốm những lối
ca trù do đào-nương (hoặc cô đào) hát, đối với lối hát trai hay Hà-nam do giápcông (hoặc kép) hát.
Hát ả - đào kể có nhiều lối như dâng hương,giáo trống, gửi thư, thét nhạc… Nhưng
chỉ có lối hát nói là thông dụng nhất là có văn chương lý-thú nhất. Hát nói có thể
coi là một biến thể của hai thể lục bát và song thất.
Hát nói xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ thứ 18 nhưng phải đợi đến đầu thế kỷ thứ
19 mới có những tác phẩm lưu truyền đến nay như các tác phẩm của Nguyễn Công
Trứ, Cao Bá Quát ... Nguồn gốc của thể Hát nói trong văn chương Việt Nam được
giải thích bằng những nguyên nhân và các sự việc sau đây :
Một là hát nói là sự phàm tục hoá những thể thánh ca. Trước khi có Hát nói, nói
rộng ra là trước khi có những bài hát ả đào hay ca trù, ở nước ta đã có những bài
hát cửa đền, cửa chùa, những bài thét nhạc (bài hát có âm nhạc phụ hoạ). Những
thể ca trong các dịp tế lễ đó chuyển dần công dụng và được các tao nhân, mặc
khách tổ chức ngay trong những cuộc giải trí riêng của họ . Các bài hát ả đào bắt
đầu từ đó.
Hai là hát nói là sự cụ thể hoá ảnh hưởng của học thuyết Lão - Trang. Xưa kia văn
chương Việt Nam về nội dung phải gò bó trong những tư tưởng Khổng Mạnh, về
hình thức phải đem theo những qui luật khắt khe, những lối diễn tả nhất định. Cuối
thế kỷ thứ 18, do hoàn cảnh rối ren trong xã hội, học thuyết Lão - Trang có cơ hội

bành trướng và Hát nói chính là sáng tạo của các nhà nho phóng khoáng, thích tự
do, ở đấy họ có thể gửi gấm những tư tưởng, cảm xúc vượt ra ngoài khuôn phép
với cách diễn đạt cởi mở, rộng rãi hơn.


Ba là hát nói là biến thể của song thất lục bát. Các nhà viết sách thời xưa cho rằng
Hát nói là một hình thức biến đổi cu/a thể ngâm Song thất lục bát: Trong hát nói có
Mưỡu là những câu thơ lục bát, nhiều câu 7 chữ có vần bằng, vần trắc, có cước
vận, yêu vận . Nhưng khi đã phát triển, Hát nói là một thể tài hỗn hợp gồm: thơ,
phú, lục bát, song thất, tứ tự, nói lối ...
Trong lối Hát ả đào có nhiều loại như: Dâng hương, Giáo trống, Gủi thư, Thét nhạc
thì Hát nói là lối thông dụng và có tính văn chương lý thú nhất.
Hát nói là thể thơ giàu nhạc điệu, có thể dùng để hát lên, biến thể của Lục bát và
Song thất lục bát, thuần tuý Việt Nam . Luật Hát nói uyển chuyển chữ trong câu dài
ngắn, số khổ [ đoạn ] cũng rất du di... Một bài hát nói đủ khổ gồm 11 câu chia làm
3 khổ.
2.1.1.Quy tắc của một bài hát nói:
a.Số câu
Hát nói có các loại :
- Đủ khổ gồm 3 khổ , mỗi khổ gồm 4 câu, riêng khổ cuối gồm 3 câu. Đây là thể
chính thức của Hát nói. ( Xem thí dụ bài Vịnh Thuý Kiều ở sau).
- Bài Hát nói thiếu khổ dưới 11 câu, thường là chỉ có 7 câu .
-Bài Hát nói dôi khổ thì có khổ dôi ra thường chen vào giữa, số câu nhiều hơn 11 .
Trong bài Hát nói đủ khổ 11 câu được đặt tên như sau :
- Khổ đầu: Câu 1, 2 gọi là Lá đầu; câu 3,4 - Xuyên thưa .
- Khổ giữa: Câu 5, 6 gọi là Thơ; câu 7,8 - Xuyên mau .
- Khổ cuối: Câu 9 là Dồn, câu 10 là Xếp, câu 11 là Keo

b.Số chữ trong một câu
- Số chữ trong các câu của bài Hát nói là không nhất định , thường một câu có 7, 8

chữ, câu ngắn có 4, 5 chữ, câu dài 12 tới 18 chữ. Ví dụ:


Quân bất kiến Hoàng Hà chi thuỷ thiên thượng lai, bôn lưu đáo hải bất phục hồi.
Làm chi cho mệt cuộc đời.
Nhưng 2 câu 5, 6 gọi là Thơ thì phải theo thể ngũ ngôn hoặc thất ngôn.
c.Vần
Trong bài Hát nói dùng cả 2 vần, vần bằng và vần trắc. Nếu một câu Hát nói đổi từ
vần bằng sang vần trắc hoặc ngược lại thì có yêu vận và cước vận, những câu
mang yêu vận là những câu chẵn, trừ câu thứ sáu chỉ có cước vận mà thôi.

Theo luật thì trong mỗi khổ, cước vận của câu đầu và câu cuối phải dùng tiếng trắc,
cước vận 2 câu giữa phải dùng tiếng bằng. Yêu vận câu thứ nhì dùng tiếng trắc,
yêu vận câu thứ tư thì dùng tiếng bằng . Yêu vận gieo vào chữ cuối đoạn thứ nhì.
d.Luật bằng trắc :
Theo luật hiệp vận , cước vận của câu đầu trong mỗi khổ hợp với yêu vận của câu
thứ hai, yêu vận của câu thứ hai hợp với yêu vận của câu thứ ba, cước vận của câu
thứ ba hợp với yêu vận của câu thứ tư . Hợp đây xin được hiểu là cùng tiếng bằng
hay trắc chứ không phải hợp là cùng vần . Những chữ thứ nhất, ba, năm trong mỗi
câu Hát nói không cần theo đúng luật bằng trắc ( gọi là nhất tam ngũ bất luận). Ta
có:
- Câu 1. t T b B t T
- Câu 2. b B t T b B
- Câu 3. b B t T b B
- Câu 4. t T b B t T
Trong đó không kể những chữ gác ra ngoài luật vì số chữ trong mỗi câu hát là
không nhất định . Câu 6 chữ phải theo đúng luật kể trên. Còn những câu dài hơn 6
chữ thì muốn ứng dụng luật này phải chia làm 3 đoạn con, trong mỗi đoạn con, chữ
cuối phải theo đúng luật bằng trắc. Những chữ gác ra ngoài không kể, được tuỳ ý



sử dụng. Những câu ít hơn 6 chữ thì chia làm 2 đoạn mà đoạn thiếu là đoạn đầu
không kể còn 2 đoạn sau thì phải theo đúng luật.
Ví dụ : Vịnh Kiều_ Nguyễn Công Trứ
(Chia câu làm 3 đoạn con bằng dấu / )
Đài tước / mở toang / cơn tạo hoá ----------------------- t T b B 0 t T
Phím loan xe / trải mối / cương thường ---------------------0 b B t T b B
Ngán cho Kiều / khi lỡ bước / Sâm Thương ----------0 b B 0 t T b B
Cung đàn nguyệt / dây loan / còn mắc mãi ----------------0 t T b B 0 t T
2.1.2.THƠ VÀ MƯỠU TRONG BÀI HÁT NÓI :
2.1.2.1.THƠ:
Trong bài Hát nói bao giờ cũng có 2 câu thơ hoặc bằng chữ Hán mượn của người
xưa hoặc do chính tác giả làm ra viết theo thể ngũ ngôn hoặc thất ngôn. Trong bài
Vịnh Thuý Kiều ở trên, 2 câu Thơ chữ Hán lấy ở bài Đề Từ của Phạm Quý Thích..
Vị trí thông thường của 2 câu Thơ là câu 5 và 6, tuy nhiên khi phá cách 2 câu Thơ
này có thể đưa lên đầu bài hay đến 1 vị trí khác như trong bài Thuý Kiều lưu lạc ,
thì 2 câu thơ ở vị trí câu 9 và 10 :

Đoạn tràng mông lý căn duyên liễu
Bạc mệnh cầm chung oán hận trường
2.1.2.2 MƯỠU :
Mưỡu (hay mão có nghĩa dạo đầu, introduction) là những câu thơ lục bát mượn
trong ca dao hay thơ của người xưa hoặc do chính tác giả làm ra đặt ở đầu bài (gọi
là Mưỡu đầu) hay cuối bài nhưng trước câu keo (gọi là Mưỡu hậu). Mưỡu có thể
gồm 2 câu ( Mưỡu đơn) hay 4 câu (Mưỡu kép). Bài Vịnh Kiều của Nguyễn Công
Trứ dưới đây dôi khổ (dài hơn 11 câu) và có Mưỡu hậu đơn :


VỊNH KIỀU


1- Đài tước mở toang cơn Tạo hoá
2- Phím loan xe trái mối cương thường
3- Ngán cho Kiều khi lỡ bước Sâm Thương
4- Cung đàn nguyệt dây loan còn mắc mãi
(4 câu dôi khổ):
Đêm thanh vắng gọi Vân ngồi dậy
Bức khăn là phong mở nguồn cơn
Đem lời thệ hải minh sơn
Non nước ấy cậy em gánh vác
5-Thơ rằng : Vì hiếu để tình nên chếch mác
6- Chưa duyên mà nợ khéo đa mang
7- Mảnh gương thề soi với khách văn chương
8- Mùi hương ngát cũng nhờ em rơi đến chị
9- Này con tạo ghét ghen chi lắm bấy ?
10- Cái hồng nhan gẫm lại cũng buồn cười (câu xếp)
(2 câu Mưỡu hậu đơn):
Ấy ai trâm quạt thề bồi
Thấu tình hay chẳng hỡi người Liêu Tây ?
11- Trăng già khéo quấy chi ai ? (câu keo)
Nguyễn Công Trứ


CHÚ Ý : Những câu Mưỡu có thể làm sai lạc qui tắc về cước vận đã trình bày ở
trên , tuy nhiên, có điều bắt buộc phải theo là : Mưỡu hậu phải tiếp tục vần của câu
xếp để chuyển vần sang câu keo ( cười, bồi, người, Tây, ai ở cuối bài) .
2.2.Hát nói trong thơ ca Cao Bá Quát
Giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX, Cao Bá Quát là một
trong số ít những thi nhân đã góp phần làm một bước cách tân trong thơ ca
tiếng Việt và đưa thể hát nói trở thành một thể thơ hoàn chỉnh
So với những sáng tác bằng chữ Hán, số lượng tác phẩm quốc âm nói chung,

hát nói nói riêng của Nguyễn Công Trứ không nhiều. Tổng cộng hát nói chỉ
vọn vẹn gần hai mươi bài (dựa theo sách Việt Nam ca trù biên khảocủa Đỗ
Bằng Đoàn và Đỗ Trọng Huề).
2.2.1.Hình thức trong thơ ca hát nói Cao Bá Quát
Hát nói là một thể quen thuộc trong thơ ca Việt Nam, nhất là dòng văn học
chữ Nôm. Đặc biệt trong thơ các nhà văn như Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát.
Tiếp sau hai vị tiền bối có công đầu trong lĩnh vực hát nói là Nguyễn Bá
Xuyến và Nguyễn Công Trứ, Cao Ba quát thừa kết và phát huy sáng tạo thể
loại này hơn.
Làm thơ hay hát nói mấy ai có thể sánh bằng được Cao Bá Quát.Hát nói của
ông mặc dầu hạn chế về số lượng nhưng nó đạt tới một trình độ một chuẩn
mực nhất định, rất đáng khâm phục.Những tác phẩm do ông sáng tác có giá trị
ở hai mặt nội dung và hình thức. Xét về hình thức ngoại trừ hai bài dôi khổ
(thừa khổ)phần lớn các sáng tác của ông đều tuân thủ bố cục cơ bản về mặt hát
nói ( tức là luôn cố định ở 6 khổ và 12 câu thơ ) . Ông luôn ý thực được giữ
vững tính truyền thống trong khi sáng tác nhưng cũng đồng thời cũng có nhiều
tìm tòi, phá cách. Điều này giúp ta dễ dàng nhận ra sự sáng tạo của tác giả trên
con đường nghệ thuật. Bằng hát nói và thơ ca nói chung, chúng ta mới hiểu


được sự nghiệp văn chương của ông đến mức nào. Thật không hổ danh là “Văn
như Siêu, Quát vô tiền Hán”
Trước tiên chúng tôi phân tích những bài hát nói đủ khổ và xem đó như
những thí dụ cụ thể làm sáng tỏ nhận định: “Cao Bá Quát luôn ý thức giữ gìn
tính truyền thống trong sáng tác”. Qua khảo sát chúng tôi có 2 bài hát đủ khổ
và tuân theo đúng luật gieo vần.
Khổ nhập đề : 1. Ba vạn sáu nghìn ngày là mấy
2.Cánh phù du trông thấy cũng nực cười
Khổ xuyên tâm: 3. Thôi công đâu chuốc lấy sự đời
4. Tiêu khiển một vàichung liếu láo

Khổ thơ: 5. Đoạn tống nhất sinh duy hữu tửu
6. Trầm tư bách kế bất như nhàn
Khổ xếp : 7. Bóng thiều quang thấp thoáng dưới Nam san
8.Ngoảnh mặt lại cửu hoàn coi cũng nhỏ
Khổ rài: 9. Khoảng trời đất cổ kim, kim cổ
10. Mảnh hình hài không có, có không
Khổ kết: 11.Lọ là thiên xứ vạn chung
(Chén rượu tiêu sầu)
Bài hát nói trên đây có đúng 6 khổ , 11 câu gọi là bài đủ khổ và hình thức
thông dụng nhất của thể hát nói. Trong bài này cách gieo vần được đảm bảo
theo 5 quy luật như chúng tôi đã giới thiệu ở phần văn thể hát nói, cụ thể là:
Chứ mấy trong câu thứ nhất của khổ nhập đề mở đầu cước vận trắc, vần trắc
ở cuối câu (đầu tiên) trong bài hát nói. Bài hát nói bao giờ cũng bắt đầu bằng
smột cước vận trắc, nó trở thành một quy luật tất yếu và bất di bất dịch. Haic
câu tiếp theo cước vận trắc (đầu tiên) bằng hai cước vận bằng, vần bằng gieo ở


cuối câu, song song là cười và đời. Nếu như ở câu trên có sử dụng cước vận
trắc mà câu dưới lại hoán đổi theo cước vận bằng, thì bắt buộc câu dưới phải
bổ sung thêm một yếu tố vận trắc( vần trắc gieo ở lưng chừng câu). Chẳng hạn
câu 1 gieo vần trắc khi chuyển xuống vần bằng ở câu 2, 3, giữa câu 2 xuất hiện
thêm một yếu tố vận trắc “thấy”. Ngược lại bắt đầu tù câu 3 khi chuyển xuống
vận trắc thì giữa câu 4 tồn tại yếu tố vận bằng “vài”. Ngoại trừ 2 câu 5 6 của
khổ thơ chúng ta không xếp chúng vào luật gieo vần vì đây là hai câu thơ luật
nên không yêu cầu vận. Bài hát nói bỏ quan câu 5 6 lại quay về quy luật cũ cho
đến hết bài.
Về số chữ trong câu thơ không hạn định nhưng riêng khổ kết chỉ có 6 chữ
dùng để cô đúc ý cho toàn bài.
Về cách gieo vần: Cao Bá Quát rất linh hoạt đan xe vần thông giữa những
câu . Chúng không hoàn toàn giống về mặt chữ viết nhưng về phát âm lại na ná

nhau nên được sử dụng phổ biến. Những chữ có vần thông được đan xe : mấythấy, cười- đời….. Cách gieo vần trên tạo nhịp điệu, đem lại lợi ích thẩm mĩ
cho cả văn chương và âm nhạc.
Quy tắc gieo vần của hát nói yêu cầu kết thúc khổ kết bằng một cước vận
bằng , và ông đã tuân thủ được quy tắc này .
Về ngôn ngữ: Ông xây dựng hát nói bằng vốn từ ngữ sắc xảo và lối dùng từ
khéo léo, chọn lọc giúp ông không bị trộn lẫn vào ai. Một nét đặc trưng nữa là
ngay cả ngôn ngữ cùng mang vóc dáng , khí chất con người tác giả . Ẩn trong
lớp ngôn ngư là khí chất của một nhà nho tài tử phong lưu,đa tài , tự phụ và bất
cần đời.
Về nghệ thuật cú pháp: Trong khi hành văn nhà thơ đôi khi sử dụng thuật
đảo trang, nhưng có cai hay là đảo trang mà người đọc không nhận ra, vẫn
rung cảm về sự nhẹ nhàng rung cảm


Ví dụ: Mái tây hiên nguyệt gác chênh vênh
Rầu rĩ lắm xuân về oanh nhớ!
Nếu viết xuôi câu này sẽ trở thành:
Nguyệt gác chênh vênh trên mái Tây hiên
Xuân về, oanh nhớ rầu rĩ lắm!
Ngoài ra còn kĩ thuật đặt câu thuận trang, không gây khó hiểu mà vẫn tinh tế
gọn gàng làm cho người đọc bịhấp dẫn lôi cuốn, không lối thoát.
Tài từ với gia nhân sẳn nợ
Giải cấu nam là chữ làm sao
Trai xưa nay chừng đã biết bao
Kìa tan hợp, nọ khứ lưu đâu dám chắc.
2.2.2. Cảm hứng, nội dung tư tưởng trong thơ ca hát nói Cao Bá Quát
Cảm hứng nghệ thuật là thái độ, tự tưởng, tình cảm của nhà văn trước thực
tại. Tìm hiểu cảm hứng nghệ thuật của thơ hát nói là tìm hiểu cảm hứng về con
người, về không gian và thời gian của các tác giả. Việc tìm hiểu những cảm
hứng về con người và thế giới của các tác giả sẽ giúp chúng ta thấy được

những điểm chung và riêng trong tư tưởng và phong cách thể hiện của họ.
2.2.2.1.Con người thị tài
Văn học Việt Nam giai đoạn thế kỷ XVIII – XIX có những đổi thay to lớn về
mọi mặt. Sự xuất hiện của mẫu nhà nho tài tử chẳng những làm thay đổi diện
mạo nền văn học nước nhà mà còn phá vỡ những chuẩn mực của xã hội truyền
thống. Văn chương của người tài tử đã xác lập một hệ thống sáng tác theo
khuynh hướng mới, mới về mọi mặt: quan niệm văn học, tư duy, thẩm mỹ, hệ
thống đề tài, hệ thống hình tượng, cá thể loại và ngôn ngữ. Với nhà nho tài tử,
văn học đã tiến một bước dài trên con đường giải phóng bản thân, giải phóng


tư tưởng và tình cảm xã hội, trong đó có phần đóng góp to lớn của bộ phận văn
chương hát nói.
Nhà nho tài tử xuất hiện trong văn học Việt Nam từ khoảng giữa thế kỷ
XVIII cùng với những biến động dữ dội của lịch sử và trong điều kiện nền
kinh tế đô thị bắt đầu phát triển. Văn học viết Việt Nam định hình từ thế kỷ X,
khi ấy nó chưa phải là nền văn học Nho giáo. Trong quá trình từng bước củng
cố địa vi độc tôn của mình, Nho giáo hình thành cơ bản hai phương thức ứng
xử rõ rệt: nhà Nho hành đạo và nhà Nho ẩn dật. Hai mẫu nhà Nho này được coi
là nhà Nho chính thống và độc chiếm văn đàn. Nhưng ở giữa thế kỷ XVIII, văn
đàn Việt Nam xuất hiện hang loạt những tên tuổi của một nhà Nho mới: Nhà
Nho tài tử. Người tài tử xuất hiện đồng nghĩa với việc hàng loạt những đức
mục của lễ giáo bị va chạm, bị xáo trộn. Họ không quan tâm đến nghĩa vụ và
bổn phận như các nhà Nho truyền thống. Cao Bá Quát là một trong số đó. Vấn
đề ông quan tâm hàng đầu là làm thế nào để trổ tài, để khẳng định cái tài và
thảo mãn hoài bão cá nhân. Người tài tử cậy tài, ông coi tài và tìnhmới là cái
làm nên giá trị con người chứ không phải đứctheo tiêu chuẩn nho giáo chính
thống. Cái tài được khẳng định như một chuẩn mực quan trọng trong việc đánh
giá con người. Đề cao cái tài và ý thức cao độ về cái tài của mình, Cao Bá Quát
cũng như những nhà nho tài tử khác đương nhiên đòi hỏi thẳng thắn về tự do,

hạnh phúc và những lạc thú cá nhân. Vì thế ông không muốn sống một cuộc
sống âm thầm phẳng lặng, an bần lạc đạo mà ông muốn thể hiện mình, muốn
vượt lên khỏi những ràng buộc, vượt lên những khuôn khổ để thỏa mãn sở
thích bản thân.
Các nhân vật có tài đã xuất hiện trong truyện Nôm, ngâm khúc trước đó
nhưng tự xưng là tài tử, tài tình,… một cách hãnh diện thì phải đến Nguyễn


Công Trứ, Cao Bá Quát và được thể hiện ấn tượng nhất trong văn chương hát
nói.
Nếu Nguyễn Công Trứ xem tài kinh luân “xoay dọc xoay ngang” là cái dung
để vẫy vùng cho phỉ chí thì Cao Bá Quát nổi tiếng với tài văn chương “nhả
ngọc phun châu”. Tài năng đó trác việt đến mức người ta tôn ông là thánh
Quát. Trong nhiều giai thoại cho thấy Cao Bá Quát nhiều lần chơi xỏ quan trên
và bỡn cợt vua nhưng vẫn vô sự nhờ tài năng văn chương của mình. Cao Bá
Quát ý thứa rất rõ điều đó và cũng rất tự phụ về điều đó, trong bức chân dung
tự họa của mình, ông không ngần ngại vẽ mình bằng những đường nét thật cao
kỳ, từ dòng dõi đến dáng dấp tài năng đều lỗi lạc vượt bậc:
Có một người:
Khổ dạng trâm anh
Nết na chương phủ
Hôi miệng sửa tuổi còn giọt máu, nét hào hoa chừng ná Tân, Dương
Chòm tóc xanh vừa chấm ngang vai, lời khí khái hẹn hò Y, Phó.
(Tài tử đa cùng phú)
Nhưng trên con đường lập công danh của mình, vì một lý do nào đó ông
không đạt được sở nguyện. Cho nên thơ ông mang âm hưởng trầm, buồn, bi
phẫn của người tài tử bất đắc chí. Ngoài ra, những cụm từ có tính chất danh
xưng như hào kiệt, anh hùng…. xuất hiện trong hát nói Cao Bá Quát với tần số
thấp và nhịp điệu không dồn dập như ở hát nói Nguyễn Công Trứ.
Cao Bá Quát từ thuở thiếu thời đã nuôi dưỡng trong long một hoài bão lớn

lao. Khát vông của ông là muốn làm “chim hồng hộc bay tít tận mây xanh”,
muốn đi khắp năm châu bốn bể, khát khao được in dấu chân trên khắp non
sông muôn dặm. Ở đây, ta không tìm thấy ở Cao Bá Quát dáng dấp của một


hiền nhân quân tử theo lỳ tưởng nho gia mà thay vào đó là những con người có
hoài bão khát vọng, mang những giá trị đích thực của cuộc sống:
Trượng phu chống kiếm đi thì đi
Đừng buồn rầu những lúc chia ly
Nhưng vì một lý do nào đó mà ông không có được cơ hội vẫy vùng như
Nguyễn Công Trứ. Trái tim tài hoa chứa đựng nhiều khát vọng của Cao Bá
Quát cộng với bản tính thiên về tình cảm nhưng cuộc đời lại lắm phong trần
khiến cho ông dễ xúc động, dễ cảm thông, hay buồn hay giận và hay chán nản.
Thơ hát nói của ông do đó không có giọng điệu hào hùng, sôi nổi như Nguyễn
Công Trứ.
Người anh hùng với quyết tâm sắt đá là phải lập nên một sự nghiệp phi
thường, vì thế họ không chỉ biết nuôi dưỡng ước mơ, biết hành động mà còn
biết ẩn nhẫn chờ đợi khi thời cơ chưa đến. Thực chất, tinh thần “anh hùng yên
sở ngộ” được nhắc đến dường như cũng chỉ là một cách để các nhà nho tự
nhắc nhở, an ủi mình, nó không hoàn toàn chi phối tnh thần của họ. TRong thái
độ ẩn nhẫn chờ thời, “yên phận” có nghĩa là bền lòng bền chí, không bỏ cuộc
cũng không nên nóng vội mà phải bình tĩnh chờ đợi một thời cơ thích hợp, rồi
chắc chắn ắt sẽ có dịp để ta thi thố và thể hiện mình:
Duyên còn dài xuân hãy còn dài
Hãy đủng đỉnh xem cơ tiền định
(Phận hồng nhan có mong manh)
Hãy bền lòng chớ chút oán vưu
Thời chí hĩ, ngư long biến hóa.
Thôi đã biết cùng thông là mệnh cả
Cũng đừng đem hình dịch lại cầu chi



Hơn nhau cũng một chữ thì.
(Hơn nhau cũng một chữ thì)

2.2.2.2.Con người đa tình
Cùng với tinh thần thị tài, tinh thần trọng tình ái cũng được thể hiện đậm nét
trong hát nói Cao Bá Quát. Người tài tử đa tài và cũng rất đa tình, bởitài và
tình chính là hai yếu tố làm nên giá trị của con người.
Tình yêu và hạnh phúc là khát vọng thường trực trong ý thức của con người
mỗi thời đại. Quan niệm về hạnh phúc ở mỗi cá nhân, mỗi thời đại khác nhau
tùy vào nhiều yếu tố chi phối.
Ở thời kỳ đầu của giai đoạn này, trong truyện nôm và ngâm khúc, khát vọng
tình yêu, hạnh phúc lứa đôi tuy được khẳng định là vấn đề trọng tâm nhưng
vẫn là hạnh phúc lứa đôi của tầng lớp trên. Thơ hát nói nói đến tình yêu ngoài
hôn nhân, cụ thể là những mối tình dan díu của quan viên và ả đào. Các nhà
nho khi viết về thân phận các ả đào ngoài tình yêu thương trân trọng, ngoài
mối cảm thông còn là cách để họ nói về mình. Do đó, tình yêu được nói đến ở
đây không chỉ là tình cảm nam nữ thông thường mà còn là tình đồng điệu của
những tri âm tri kỷ.
Cao Bá Quát cũng nhiều lần nhắc đến chữ tình và cảm thông cho những ai
nếu trót vương vấn nợ tình:
Thương những kẻ giai nhân tài tử
Trót đa mang vì một chữ tình
Nghĩ nguồn cơn thẹn với trời xanh
Tưởng nông nỗi giận cùng trăng bạc
(Tài hoa là nợ)


Tình yêu của Cao Bá Quát còn là những nhớ thương hoài vọng:

Nước song Tương một dải nông sờ,
Cho kẻ đấy người đây mong mỏi.
Bứt rứt nhẽ trăm đường nghìn nỗi,
Chữ chung tình biết nói cùng ai?
Ước gì gắn bó một ai
(Tự tình)
2.2.2.3. Con người hưởng lạc và cầu nhàn
Trong quan niệm hành lạc, Cao Bá Quát ca ngợi lạc thú, đề cao con người tự
nhiên, chống lại sự khắt khe của tư tưởng đề cao con người xã hội của nho
giáo. Con người tự nhiên có khả năng tìm kiếm tự do và hạnh phúc, con người
ca ngợi lạc thú, tự do hưởng lạc và xem hưởng lạc là một trong những mục
đích cần đạt tới của cuộc đời. Tinh thần tự do phóng khoàng thể hiện trong các
cuộc vui chơi của các tác giả hét nói cũng là thái độ chống lễ giáo, chống đối
chuyên chế đòi quyền tự do cá nhân. Khẳng định tự do, cá nhân con người
trong hát nói thể hiện khát vọng vượt ra ngoài khuôn khổ thông thường của đời
sống.
Xuất phát điểm của tư tưởng hành lạc là quan niệm nhân sinh quan ngắn
ngủi. Đời người qua nhanh như gió vụt bay, thoắt một cái là đến tuổi gìa, cho
nên phải mau chóng vui chơi, nếu không thì thật đáng tiếc.
Cao Bá Quát đã chiêm nghiệm sâu sắc kiếp nhân sinh ảo ảnh, cái lẽ sống phù
du. Đời người sống được bao lâu, sao không vui chơi mà còn lắm lo âu, phiền
muộn:
Ba vạn sáu nghìn ngày là mấy
Cảnh phù du trông thấy cũng nực cười


×