Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Nghiên cứu khoa học về Bóng rỗi Nam Bộ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 22 trang )

2

MỤC LỤC
DẪN NHẬP ........................................................................................................................ 3
1. Lí do chọn đề tài ......................................................................................................... 3
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................................. 3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu............................................................................... 3
4. Phương pháp nghiên cứu ............................................................................................ 4
5. Kết cấu niên luận ........................................................................................................ 4
Chương 1: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ BÓNG RỖI NAM BỘ ............................................ 5
1.1. VỀ KHÁI NIỆM BÓNG RỖI .................................................................................. 5
1.2. NGUỒN GỐC CỦA BÓNG RỖI NAM BỘ ........................................................... 5
1.2.1. Xuất phát từ nghi thức diễn xướng Hầu bóng ở Bắc Bộ .................................. 5
1.2.2. Nguồn gốc Champa........................................................................................... 6
Chương 2: NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CHÍNH CỦA BÓNG RỖI NAM BỘ ............................. 8
2.1. ĐẶC ĐIỂM HÌNH THỨC CỦA BÓNG RỖI NAM BỘ ........................................ 8
2.1.1. Thời gian và không gian diễn xướng ................................................................ 8
2.1.2. Chủ thể diễn xướng ........................................................................................... 9
2.1.3. Lễ vật - Đạo cụ ................................................................................................ 10
2.1.4. Nhạc khí, nhạc cụ, âm nhạc ............................................................................ 11
2.1.5. Phương thức diễn xướng Hát rỗi .................................................................... 12
2.1.6. Phương thức diễn xướng Múa bóng ............................................................... 13
2.2. ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG CỦA BÓNG RỖI NAM BỘ ......................................... 14
2.2.1. Thể hiện nội dung ca ngợi, tôn vinh công đức của thần linh .......................... 14
2.2.2. Thể hiện ước vọng của nhân dân đến thần linh .............................................. 15
2.2.3. Thể hiện quan niệm của con người về tự nhiên .............................................. 16
2.2.4.Thể hiện đặc trưng văn hóa con người Nam Bộ .............................................. 16
Chương 3: NHỮNG BIẾN ĐỔI CỦA BÓNG RỖI NAM BỘ HIỆN NAY ...................... 18
3.1. THỰC TRẠNG CỦA BÓNG RỖI NAM BỘ HIỆN NAY ................................... 18
3.1.1. Dinh Ông Nam Hải (Ấp Hải An, xã Phước Hải, Long Điền, Bà Rịa – Vũng
Tàu) ........................................................................................................................... 18


3.1.2. Đình Thắng Tam ............................................................................................. 18
3.1.3. Đình Minh Hương ........................................................................................... 18
3.1.4. Núi Điện Bà – Đền thờ Linh Sơn Thánh Mẫu ................................................ 19
3.1.5. Đình Vĩnh Phong ............................................................................................ 19
3.1.6. Miếu Bà Ngũ Hành ......................................................................................... 19
3.1.7. Miễu Bà Chúa xứ Mỹ Long ............................................................................ 19
3.1.8. Gò Tháp Mười ................................................................................................ 19
3.1.9. Miếu Bà Chúa xứ ............................................................................................ 19
3.1.10. Đình Thường Thạnh...................................................................................... 20
3.1.11. Miếu Bà Cổ ................................................................................................... 20
3.2. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP PHỤC HỒI, PHÁT HUY BÓNG RỖI NAM BỘ .......... 20
3.2.1. Tiếp tục nghiên cứu giá trị, đặc trưng của Bóng rỗi Nam Bộ ......................... 20
3.2.2. Tăng cường tổ chức tuyên truyền các giá trị của Bóng rỗi Nam Bộ ............... 20
3.2.3. Tăng cường công tác quản lý của nhà nước trong Bóng rỗi Nam Bộ ............. 20
KẾT LUẬN ....................................................................................................................... 22
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................ 23


3

DẪN NHẬP
1. Lí do chọn đề tài
Bóng rỗi là nghi thức diễn xướng dân gian đã đi sâu vào đời sống tâm linh của
người dân vùng Nam Bộ. Nghi thức này gắn liền với tín ngưỡng thờ Mẫu, không
chỉ thể hiện qua các lễ hội được tổ chức hàng năm vào các ngày cúng Bà, mà còn
tác động khá rõ nét lên đời sống văn hóa nhân dân Nam Bộ.
Những năm gần đây, trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập
quốc tế và toàn cầu hóa, thì văn hóa dân gian nói chung, trong đó có Bóng rỗi
Nam Bộ nói riêng đã và đang được phục hồi và phát huy, góp phần làm phong phú
đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân.

Bên cạnh công tác phục hồi và phát huy các giá trị của Bóng rỗi của các cấp
Nhà nước thì việc nghiên cứu nghi thức này dưới góc độ học thuật là hoàn toàn
cần thiết. Thông qua tìm hiểu những đặc điểm chính của Bóng rỗi Nam Bộ sẽ làm
nổi bật được cái nhìn tổng quan về một trong những nghi thức diễn xướng quan
trọng của tín ngưỡng thờ mẫu của nhân dân Nam Bộ.
Mặc dù hiểu biết còn nhiều hạn chế, nhưng cùng với việc tổng hợp nhiều
nghiên cứu trước đó và cách tiếp cận dưới góc độ của người nghiên cứu, tôi mong
muốn góp sức mình trong việc nhận diện những giá trị văn hóa dân gian Nam Bộ,
thông qua đề tài Bóng rỗi Nam Bộ: Những đặc điểm chính.
2. Lịch sử vấn đề
Liên quan mật thiết đến đề tài Niên luận này, có thể tổng hợp như sau:
Nguyễn Thị Hải Phượng (2013), Bóng rỗi và Chặp Địa Nàng trong tín ngưỡng
thờ Mẫu của người Việt ở Nam Bộ
Nguyễn Hữu Hiếu (2004), Văn hóa dân gian vùng Đồng Tháp Mười (mục hát
Bóng rỗi trang 301)
Các bài nghiên cứu trong Kỷ yếu Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Nam Bộ bản sắc và
giá trị, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐHQG – TP.HCM;
Trung tâm nghiên cứu và bảo tồn văn hóa tín ngưỡng Việt Nam; Sở Văn hóa Thể
thao và Du lịch tỉnh An Giang
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: nghi thức diễn xướng Bóng rỗi Nam Bộ
Phạm vi nghiên cứu: đặc điểm chính của nghi thức diễn xướng Bóng rỗi Nam
Bộ của người Việt ở Nam Bộ.


4

4. Phương pháp nghiên cứu
Vận dụng các hướng tiếp cận và phương pháp nghiên cứu phù hợp: hướng tiếp
cận nghệ thuật học, nhân học văn hóa, phương pháp tổng hợp.

5. Kết cấu niên luận
Ngoài phần Dẫn nhập, Kết luận và Dạnh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
niên luận được cấu trúc thành 3 chương:
Chương 1: GIỚI THIỆU CHUNG VỀ BÓNG RỖI NAM BỘ
Chương 2: NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CHÍNH CỦA BÓNG RỖI NAM BỘ
Chương 3: NHỮNG BIẾN ĐỔI CỦA BÓNG RỖI NAM BỘ HIỆN NAY
Phần dẫn nguồn theo quy định của văn bản hướng dẫn, tôi đặt ngay sau ý hoặc
đoạn trích dẫn như sau: [tên tác giả và tác phẩm sẽ được đánh dấu bằng số tương
ứng trong phần danh mục tài liệu tham khảo, số trang], ví dụ: [3, tr.204].


5

Chương 1:
GIỚI THIỆU CHUNG VỀ BÓNG RỖI NAM BỘ
1.1. VỀ KHÁI NIỆM BÓNG RỖI
Tại nghi lễ thờ cúng Nữ thần, Mẫu thần, đặc biệt là Bà Chúa Xứ, Bà Đen, Ngũ
Hành Nương Nương…. Bóng rỗi được xem là một trong những nghi thức quan
trọng, và không thể thiếu từ xa xưa đến tận ngày nay. Người dân Nam Bộ thường
gọi Bóng rỗi bằng những tên gọi tương tự như múa bóng, hát Bóng rỗi… Thông
qua cách gọi tên dân gian như vậy, có thể định nghĩa về Bóng rỗi ngắn gọn như
sau:
Bóng rỗi là một loại diễn xướng tổng hợp, kết hợp hai hình thức biểu diễn là
hát rỗi và múa bóng. Trong đó, hát rỗi là hình thức dâng lễ vật, lời cầu xin của
nhân dân lên thần linh bằng âm nhạc và lời hát, múa bóng là hình thức dâng lễ vật
bằng các động tác tại hình, biểu hiện sự kính dâng lễ vật lên thần linh.
Nhân vật đảm nhận trách nhiệm thể hiện lời hát và múa được gọi là bà Bóng.
Không chỉ tạo cảm giác có khả năng “giao tiếp với thần linh” để truyền tải lời của
nhân dân đến thần linh, bà Bóng còn phải trình diễn nhiều tiết mục múa bóng phi
thường khiến nhân dân thích thú. Như vậy, Bóng rỗi vừa mang tính nghi lễ cúng tế

thần linh vừa nhằm mục đích giải trí, đích thị là nghệ thuật diễn xướng dân gian
quý báu của văn hóa Nam Bộ.

1.2. NGUỒN GỐC CỦA BÓNG RỖI NAM BỘ
Hiện tại, chưa có bất cứ tư liệu khẳng định chính xác Bóng rỗi Nam Bộ ra đời
và xuất hiện tại các lễ hội cúng Bà từ khi nào. Dựa trên việc tổng hợp các công
trình nghiên cứu trước đó, có thể khái quát về nguồn gốc của nghi thức này ở mấy
điểm sau:
1.2.1. Xuất phát từ nghi thức diễn xướng Hầu bóng ở Bắc Bộ
Từ khoảng thế kỷ XVI đến thế kỷ XVII, cùng với việc di cư vào miền Nam
sinh sống, nhân dân Bắc Bộ mang theo cả tín ngưỡng dân gian của vùng miền, đặc
biệt là tín ngưỡng “thờ Mẹ” (Tam Phủ, Tứ Phủ) để phát triển và phục vụ văn hóa
tinh thần. Từ đó, hầu hết các lễ hội diễn ra ở cơ sở tín ngưỡng dân gian Bắc Bộ tại
Nam Bộ, nhất là nơi thờ Mẫu, thường có hình thức diễn xướng Hầu bóng. “Trong
nghi lễ này, người ta tin rằng linh hồn của các vị thần được vời đến sẽ nhập vào
người hầu đầu, nghe lời cầu nguyện của người đi lể, phán truyền công việc và ban
phát lộc. Các giá đồng biểu hiện qua các điệu múa linh thiêng là một phần quan
trọng của nghi lễ”[7, tr.267]. Càng tiến sâu vào Nam, có sự giao lưu với nhiều
nguồn văn hóa khác nhau, Hầu bóng trong tín ngưỡng thờ Mẫu tại Nam Bộ có
nhiều sự hỗn dung và tiếp biến.


6

Cho nên, Bóng rỗi Nam Bộ vừa được xem là có cội nguồn từ nghi thức diễn
xướng Hầu bóng ở Bắc bộ, vừa tạo nên sự mới mẻ trong môi trường văn hóa
phương Nam.
1.2.2. Nguồn gốc Champa
Thông qua các tiết mục trình diễn múa bóng, bà Bóng thường thể hiện vũ điệu
có áp dụng kỹ năng đội đầu để dâng mâm cúng thần linh, chi tiết này cho thấy

Bóng rỗi Nam Bộ có nguồn gốc Champa rõ nét. Trong các công trình nghiên cứu
về Bóng rỗi đều đã đề cập đến điều này một cách kỹ lưỡng và khoa học, xin được
phép tổng hợp lại một số tư liệu như sau:
Phim tài liệu “Múa mâm vàng, cội nguồn và dung mạo” của Huỳnh Ngọc
Trảng, do Hãng phim Tư liệu sản xuất năm 1992, chứng minh hình thức múa mâm
của người Chiêm Thành có thể bắt gặp trong cách múa Bóng rỗi ở Nam Bộ.
“Trong cuốn sách Xứ Trầm Hương, viết vào năm 2002, Quách Tấn đã ghi nhận
về tục múa bóng ở tháp thờ Ba Po Inư Nưgar. Theo ông mô tả, thời tiền chiến, vào
những ngày vía Bà (3 tháng 3 âm lịch), nhân dân có tổ chức lễ cúng tế long trọng.
Trong ngày này, người ta trình diễn điệu múa bóng ở ngay trước sân tháp. Ông
nhấn mạnh :Điệu múa bóng là điệu múa của Chiêm Thành truyền lại” [2, tr.48].
“Quách Tấn đã chỉ ra được lò đào tạo các bà Bóng múa là xóm Bóng ở trước
Tháp Bà, “nhưng lệ múa bóng ngày vía Bà đã bỏ từ thời Bảo Đại, trước đệ nhị thế
chiến.”
Ai về xóm Bóng thăm nhà
Hỏi xem điệu múa dâng Bà còn không?”[3, tr.201]
Như vậy, Bóng rỗi Nam Bộ có nguồn gốc từ điệu múa dâng cúng thần linh của
vũ nữ người Chăm. Nhiều nghiên cứu còn cho rằng phần âm nhạc của Bóng rỗi
chịu ảnh hưởng của nhạc lễ Nam Bộ và Hát Bội, đồng thời Bóng rỗi cũng có liên
hệ với hình thức kể của dân tộc miền núi Tày, Mường… dân tộc Tây Nguyên…
Có thể kết luận Bóng rỗi Nam Bộ được hình thành trong khoảng thời gian giữa thế
kỷ XVIII đến đầu thế kỉ XIX.
TIỂU KẾT
Tóm lại, thông qua những trình bày ở chương một, niên luận đã giới thiệu khái
quát về Bóng rỗi Nam Bộ và tổng hợp những nhận định về nguồn gốc của hình
thức diễn xướng này.
Xuất phát từ tín ngưỡng thờ Mẫu trong cộng đồng người dân Nam Bộ, cùng
với sự giao thoa văn hóa giữa các vùng miền khác nhau, Bóng rỗi được hình
thành và trở thành hình thức diễn xướng có vị trí quan trọng tại các nghi lễ thờ
Mẫu. Dựa trên các tư liệu, tôi nhận thấy rõ nhất về nguồn gốc của Bóng rỗi có cội

nguồn từ cách múa dâng lễ của người Chăm.
Bóng rỗi Nam Bộ chứa đựng nhiều giá trị văn hóa, góp phần bảo tồn và phát
triển các loại hình nghệ thuật dân gian như múa, hát, âm nhạc truyền thống… Điều


7

này càng chứng tỏ việc nghiên cứu những đặc trưng của hình thức diễn xướng
Bóng rỗi Nam Bộ là cần thiết và đúng đắn.


8

Chương 2:
NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CHÍNH CỦA BÓNG RỖI NAM BỘ
2.1. ĐẶC ĐIỂM HÌNH THỨC CỦA BÓNG RỖI NAM BỘ
2.1.1. Thời gian và không gian diễn xướng
Trong các nghi lễ thờ Mẫu ở Nam Bộ, người ta thường có trò diễn “Bóng rỗi,
Địa - Nàng”, gồm 8 tiết mục diễn ra liên hoàn. Tuy nhiên, ngày nay mỗi chương
trình cũng miễu Bà rút ngắn còn 4 tiết mục. Tiến trình của buổi lễ như sau:
1. Khai tràng
2. Chầu mời - Thỉnh tổ
3. Chặp Địa - Nàng
4. Hát bóng rỗi
Mặc dù trình tự của buổi diễn được tuân thủ nghiêm ngặt, nhưng không có sự
quy định thời gian cụ thể cho việc tổ chức nghi lễ. Bóng rỗi sẽ diễn ra ngay khi
phần cúng tế kết thúc, bà Bóng dâng lễ Tổ, thắp hương xong thì đến hát rỗi. Múa
bóng là tiết mục diễn xướng tiếp nối sau phần hát rỗi chào mời. Trong Múa bóng,
người ta thường chia thành 2 tiết mục trình diễn nhỏ, trước tiên là múa dâng mâm,
tiếp đến là các điệu múa mang tính chất tạp kỹ. Như vậy, khi xét về dung lượng

thời gian trình diễn Bóng rỗi, ta không có con số bắt buộc mà tùy thuộc vào nhiều
yếu tố khách quan như trình độ, khả năng của bà Bóng; hay nội dung của bài rỗi;
hay thái độ của người xem múa bóng.
Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Hải Phượng, thời lượng của một bài rỗi
“trong khoảng 10-15 phút. Theo ngôn ngữ của các bà Bóng thì một bài gọi là một
xắp. Mỗi bà rỗi một bài thì gọi là rỗi một xắp”[2, tr.72].
Không gian trình diễn của Bóng rỗi Nam Bộ là nơi diễn xướng Bóng rỗi. Do
không gian trình diễn luôn gắn liền với không gian thiêng thờ tự, cho nên khi tìm
hiểu về không gian trình diễn của Bóng rỗi Nam Bộ cần nghiên cứu thêm về không
gian thiêng thờ tự. Trong không gian linh thiêng của của Miễu Bà, những pho
tượng Mẫu, Nữ thần được tạc mang vẻ uy nghiêm, nhưng vẫn có nét hiền dịu, gần
gũi như các bà các mẹ trong gia đình. Đối với nơi thờ Mẫu có sự giao thoa với Ấn
Độ giáo, các tượng Bà lại có những họa tiết và nét giống thần Shiva, ngay trong
Miễu thờ có một biểu tượng của linga - trụ đá tròn, phủ lên đỉnh tấm khăn đỏ.
Kiến trúc của không gian thiêng thờ Mẫu nhìn chung có nhiều điểm tương đồng
với chùa và các nơi thờ tự khác, nhưng vẫn xuất hiện những rét riêng khác biệt.
Như “gian thờ tự của Thánh Mẫu được trang trí gam màu sặc sỡ, tượng thờ của
các Bà thường được tô điểm lộng lẫy, xiêm áo lấp lánh tạo nên vẻ đẹp huyền ảo”[3,
tr.44]. Lễ hội cúng Bà ở Miểu, đình , đền cởi mở và sinh động, thường diễn ra vào


9

tháng Ba âm lịch. Lễ hội cúng Bà bao gồm các nghi lễ dâng hương, đăng, trà, quà
cúng Bà và xin lộc Bà, và các nghi thức diễn xướng đặc sắc. Trong đó, Bóng rỗi
Nam Bộ được trình diễn trên khoảng không gian trước ngai thờ, giữa cửa Miễu và
bàn tiên. Nếu tổ chức ở Miễu, không gian diễn xướng của Bóng rỗi thường là sân
nhỏ trước Miễu thờ. Còn nếu lễ cúng tổ chức ở tại gia đình riêng, Bóng rỗi sẽ
được trình diễn ngay trước ngai thờ Bà. Các bà Bóng phải quay mặt về ngai thờ để
tỏ lòng kính trọng khi hát, múa, diễn. Còn người xem, họ có thể đứng, ngồi ở hai

bên sân khấu. Theo Nguyễn Thị Hải Phượng nhận xét, không gian diễn xướng của
Bóng rỗi Nam Bộ “vừa là không gian khép kín mang tính thiêng, giới hạn hướng
nhìn của diễn viên, nhìn về phía ban thờ Bà; đồng thời cũng là không gian mở cho
người thưởng thức. Người thưởng thức có thể ngồi 3 mặt quanh sân khấu mặc
định ấy, với khoảng cách rất gần (chỉ cách diễn viên vài mét). do vậy khoảng cách
không gian giữa nhân vật và khán giả hầu như không có, điều này tạo nên một
không khí gần gũi và dễ cảm thông giữa người diễn và người xem” [2, tr.71].
2.1.2. Chủ thể diễn xướng
Nhân vật Bóng là chủ thể thực hiện diễn xướng Bóng rỗi, họ được xem là cái
bóng của thần linh. Nhân vật Bóng đa phần là giới nữ, đôi khi cũng có người nam
nhưng mang tính “nữ” nhiều hơn. Người dân thường gọi họ là “các cô các bà” để
tỏ lòng kính trọng.
Chủ thể diễn xướng của Bóng rỗi Nam Bộ thường được chia thành 2 loại: Bóng
vu vi (Bóng căn, Bóng cốt) và Bóng tuồng. Trong giới Bóng, còn chia thành nhiều
loại khác như Bóng rỗi, Bóng múa, Bóng cốt. Đối với Bóng vu vi, hay Bóng căn,
Bóng cốt, các bà Bóng “là những người “nhẹ vía”, có căn duyên với các vị nữ thần
nên được các Bà độ cho khả năng hát Bóng rỗi. Tuy không được học hành bài bản
nhưng đi theo nhiều lễ cúng nên trở nên thuộc và ứng tác được các bài rỗi cũng
như những người có học” [2, tr.75]. Bóng tuồng là “những người lấy việc hát rỗi
làm kế sinh nhai, thường nằm trong những gia đình có truyền thống làm nghề này.
Họ phải học hành bài bản, đi thèo “Thầy” để học tập và thực hành trong thực tế
trong một thời gian dài rồi mới được đúng một mình hát rỗi” [2, tr.76]. Bóng rỗi là
“những bà có giọng hát hay, biết nhiều bài để rỗi mời các vị thần được thờ trong
Miếu. Bóng múa là những bà Bóng biết múa nhằm mục đích dùng những độc tác
hoa mỹ để dâng lễ vật lên thần” [2, tr.77].
Tuy là hình thức diễn xướng dân gian nhưng Bóng rỗi Nam Bộ vẫn mang tính
chuyên nghiệp cao, thể hiện ở vai trò của các bà Bóng. Kể từ khi hình thành đến
nay, người ta không truyền nghề Bóng rỗi thông qua trường lớp hay sách vở mà
các cô Bóng, bà Bóng sẽ trực tiếp chỉ dạy từng bài rỗi, từng động tác múa cho học
trò. Những đứa trẻ từ 10 đến 12 tuổi có năng khiếu và căn duyên được gia đình

truyền nghề hoặc gửi đến các bà Bóng để học. Các Bóng trẻ sẽ cùng đi theo thầy
để tham gia diễn xướng, khi có chuyên môn vững vàng và biểu diễn xuất sắc, họ
có thể tự mình biểu diễn. Sau đó, các bà Bóng mới được thầy dạy làm Lễ cấp sắc,
và bắt buộc phải đạt các chuyên môn cơ bản như sau:
“- Cắt dán mâm vàng và làm đạo cụ biểu diễn


10

- Có giọng hát tốt và rỗi đúng bài bản cổ truyền
- Có kỹ thuật múa nghi lễ điêu luyện
- Có kỹ thuật múa đồ chơi (tạp kỹ) khéo léo, đẹp mắt.” [1, tr203]
Về trang phục của Bóng rỗi Nam Bộ, chúng không chỉ hỗ trợ quá trình diễn
xướng của các cô Bóng, bà Bóng, mà còn thể hiện tính đa lớp văn hóa. Tuy nhiên,
trong lễ cúng Bà, chủ thể diễn xướng đóng vai trò trung gian giữa chư vị thần linh
với người chủ đàn lễ, cho nên trang phục của các cô Bóng, bà Bóng cũng nền nã,
phù hợp với khung cảnh. Theo Nguyễn Thị Hải Phượng khảo sát các nghệ nhân
Bóng rỗi Nam Bộ, khi lên rỗi “chỉ cần mặc chiếc áo dài đen, may lối rộng rãi, kiểu
xưa, ở trong bộ bà ba trắng, tạo nên vẻ nền nã nhưng không kém phần trang
nghiêm. Nhưng sau này, khi có điều kiện kinh tế tốt hơn thì các bà thay bằng
những chiếc áo dài có màu sắc rực rỡ, đẹp đẽ, bằng những chất liệu vải thịnh hành,
có thêu hoặc kết cườm” [2, tr78].Theo quan niệm trong nghề của Bóng rỗi Nam
Bộ, các cô Bóng, bà Bóng luôn mong muốn làm hài lòng chư vị thần linh, cho nên
trang phục được chăm chút kỹ càng, trang điểm cũng phải rực rỡ để làm Bà vui
lòng.
Vai trò của các cô Bóng, bà Bóng là thay mặt người chủ đàn lễ thỉnh Bà về
chứng lễ, đồng thời đại diện Bà để ban lộc hoặc ban lời chúc đến gia chủ và người
dự lễ. Ngoài ra, các cô Bóng, bà Bóng còn phải khổ luyện thêm nhiều kỹ năng tạp
kỹ, sử dụng các đạo cụ múa giúp vui. Họ thành thạo các động tác trình diễn múa
bông, múa dao, múa khạp, cho đến những màn biểu diễn thăng bằng phức tạp…,

nhiều người cho rằng có sự ủng hộ của thần linh, nhưng thực chất các cô Bóng, bà
Bóng đều phải dày công luyện tập. Sau lễ hội cúng Bà, các cô Bóng, bà Bóng cũng
có gia đình, lấy chồng và sinh con như những người dân bình thường.
2.1.3. Lễ vật - Đạo cụ
Mâm vàng, mâm bạc, mâm ngũ sắc là lễ vật không thể trong lễ cúng Bà, đồng
thời cũng là đạo cụ của các cô Bóng, bà Bóng dùng để thực hiện màn biểu diễn
múa Dâng bông. Tổng hợp một số nghiên cứu đã có, mâm vàng, mâm bạc, mâm
ngũ sắc mang các điểm độc đáo như sau:
Vai trò của mâm vàng, mâm bạc, mâm ngũ sắc là chứa đựng lòng thành kính,
ước mong cầu khấn dâng lên Bà. “Mâm ngũ sắc dâng lên Bà Ngũ Hành (Kim,
Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ); mâm vàng dâng cho Bà Chúa Xứ, Bà Chúa Tiên - Chúa
Ngọc, Bà Cửu Thiên Huyền Nữ; mâm bạc dâng lên Quan Thánh Đế Quân” [1,
tr.203].
Hình dáng của mâm vàng, mâm bạc, mâm ngũ sắc “gồm một tòa tháp 3 tầng,
tượng trừng cho Thiên - Địa - Nhân… tòa tháp là mô phỏng và cách điệu hình
dáng của Tháp Bà ở Nha Trang - nơi xuất phát và ảnh hưởng rất lớn đến Múa
Bóng rỗi ở Nam Bộ” [1, tr.204]. Cụ thể, “lễ vật mâm vàng hình thành từ sự giao
lưu tiếp biến với các nghi lễ của người Chăm. Hình ảnh của mâm vàng với các
tầng tháp quay về bốn phía… [2, tr.86]”


11

Tất cả các cô Bóng, bà Bóng đều có khả năng làm mâm vàng, mâm bạc, mâm
ngũ sắc. Đầu tiên, bà Bóng làm một bộ khung bằng các thanh giấy bồi hồ cứng,
dán lắp ghép thành hình tháp dính chặt vào mâm; sau đó, một lớp vỏ ngoài bằng
giấy màu với những hoa văn, họa tiết cách điệu hình long, phượng, sóng nước…
lần lượt vào khung từ tầng thấp đến tầng cao.” [1,tr.204]
Ngoài mâm vàng, mâm bạc, mâm ngũ sắc, còn một số đạo cụ cần cho các tiết
mục diễn xướng Bóng rỗi Nam Bộ. Đối với tiết mục Múa dâng bông, các cô Bóng,

bà Bóng cần sử dụng đến chén bông, như bông trang, bông sen, bông huệ để thực
hiện các động tác múa. Đối với tiết mục Múa dâng lộc, đạo cụ lại là một mâm trầu
cau trên phủ vải đỏ. Nếu dùng trong múa Tạ trang thì “trên tấm vải đỏ đặt thêm
một cặp vọi làm bằng giấy trang kim màu vàng được cắt hoa văn rất đẹp” [1,
tr.205]. Còn đối với tiết mục Múa đồ chơi, các vật dụng tại chỗ được dùng làm
đạo cụ trình diễn như xe đạp, khạp da bò, bàn ăn, ghế…
2.1.4. Nhạc khí, nhạc cụ, âm nhạc
Dàn nhạc khí, nhạc cụ cho Bóng rỗi bao gồm Đàn Cò, Đàn Guitare phím lõm,
Trống Chiến, Trống Tổ, Phách hay phệt. Đàn Cò là nhạc khí chính của Bóng rỗi,
là loại nhạc khí thuộc bộ dây kéo, có hai dây thường được làm bằng thép, chạy dọc
suốt thân đàn. Đàn Kìm và Sến là nhạc khí thuộc bộ dây gảy, trong đó Đàn Kìm có
cần dài, mặt đàn hình tròn, Đàn Sến có hình lục giác hoặc hình bông mai; tuy
nhiên hiện nay còn ít nhạc công còn sử dụng 2 loại nhạc cụ này trong loại hình
diễn xướng Bóng rỗi. Đàn Guitare phim lõm với lợi thế âm sắc rộn rã, vang to nên
ngày càng trở nên phổ biến trong hình thức Bóng rỗi. Trống Chiến là nhạc cụ
thuộc bộ gõ, không định âm, có hình trụ, thường được sử dụng để giữ tiết tấu, giữ
nhịp và báo chuyển cảnh. Trống Tổ, hay có nơi gọi là Trống bà Bóng, là loại trống
nhỏ đóng vai trò giữ nhịp, định tiết tấu, báo hiệu và thay đổi một tiết tấu mới.
“Chiếc trống phải vừa vặn tay cầm, tiếng trong nhưng phải nhẹ để các Bà có thể
cầm trống bằng tay trái, tay mặt cầm dùi gỗ gõ vào mặt và tang trống, vừa gõ vừa
hát” [1, tr.218]. Phách hay phệt chủ yếu để giữ nhịp lớn, chuyển nhịp theo tiếng
trống tổ của bà Bóng. Ngoài ra, Bóng rỗi Nam Bộ còn sử dụng các loại nhạc cụ
khác như: chập chõa, đầu đường, mõ, song loan, thậm chí là guitare điện, hoặc
organ điện…
Sử dụng dàn nhạc khí như trên, đặc biệt nhờ bộ bõ, tiết tấu của Bóng rỗi Nam
Bộ trở nên khác biệt, thay đổi lien tục, phù hợp với lời hát rỗi. Theo quy định. Tiết
tấu của một bài rỗi phải thay đổi từ chậm đến nhanh, rồi lại chậm. Không có bài
rỗi nào chỉ sử dụng một tiết tấu, một nhịp điệu, một hơi nhạc từ đầu đến cuối. Điều
này cho thấy quy luật âm dương, quy luật sự sống.
Âm nhạc trong Bóng rỗi Nam Bộ có tính chất ngẫu hứng, kết hợp từ nhạc Tài

từ, nhạc Lễ, nhạc Cải lương, hiếm thấy có bài bản riêng. Những hơi nhạc được sử
dụng trong Bóng rỗi là Xuân, Ai, Đào, nhưng chủ yếu nhất là hơi Xuân. “Tuy dựa
vào thang âm điệu thức đã sẵn có, nhưng hơi Xuân ở đây không giống hoàn toàn
với hơi Xuân nhạc Tài Tử. Theo các nhà nghiên cứu, đặc điểm của hơi Xuân với
những quãng 3 nhấn trả về, vừa trang nghiêm vừa thanh thản, mang lại nét thư thái


12

cho bản nhạc cũng như cho tâm hồn của người nghe… Hơi Xuân với nét nhạc
luyến láy đặc thù, mang vẻ trang nghiêm, thư thái” [2, tr.106].
Đồng thời, âm nhạc trong Bóng rỗi Nam Bộ là tư duy mở., “âm nhạc “động”
nhưng không “đóng”. Cụ thể, “trên những bản nhạc có sẵn, nên cấu trúc đã được
quy định từ trước, người đàn có thêm nhiều chỗ để chọn chữ nhạc theo ý của mình,
thể hiện tài năng của mình, làm cho bài bản trở nên sinh động hơn, phong phú hơn
và luôn luôn biến đổi” [1, tr.215].
2.1.5. Phương thức diễn xướng Hát rỗi
Hát rỗi là hình thức dâng lễ vật, lời khẩn cầu của nhân dân thông qua lời hát
của các cô Bóng, bà Bóng.
Sau lễ Khai tràng của dàn nhạc, nghi thức Chầu mời thỉnh tổ được diễn ra. Các
bà Bóng lần lượt bước ra ngai thờ, thay phiên nhau rỗi mời Bà và các vị Thần về
dự lễ. Lúc rỗi, các bà Bóng thân thể sạch sẽ, trang phục đẹp đẽ, tư thế nghiêm
trang. Sau khi nguyện hương xong, các bà Bóng cầm trống, cúi đầu 3 lạy, rồi mới
cất giọng bắt đầu bài rỗi.
Câu từ các bài rỗi mời có thể khác nhau tùy thuộc vào các đối tượng tôn thờ và
địa điểm hành lễ, ví dụ như rỗi mời Bà, rỗi mời Cô, rỗi mời các cô hồn… Nhưng
nội dung đều xoay quanh việc “tôn vinh, ca ngợi công đức của Bà, mời Bà về ngự
trong Miễu (hoặc tran), chứng giám cho lòng thành của cộng đồng hoặc gia chủ
mà phò hộ, độ trì cho họ" [1, tr.206]. “Mỗi bài rỗi là một bài ứng tác tuy với nội
dung gần như nhau với những điều mong ước như: cầu gia đạo bình an, cầu tài lộc,

cầu sức khỏe… nhưng được thể hiện bằng những sáng tạo khác nhau của từng bà
Bóng nên không có một mẫu số chung, không bị trùng lặp câu chữ” [2, tr.88].
Ngoài những bài chầu mời theo lối cổ truyền, đầy đủ hời Xuân, Ai, Đào, các bài
Lý kết, thì hiện nay, các bà Bóng đã sáng tạo ra nhiều điều mới lạ trong việc rỗi
những làn điệu cổ. ví dụ như “sử dụng hơi Quảng thêm vào trước khi chuyển sang
Lý bóng để kết bài” [1, tr.207], hay “thêm vào những bài bản của Hát Bội, hát Cải
lương, các bài Lý đang thịnh hành thời bấy giờ” [2, tr.90].
Đối với người tham dự lễ cúng Bà, họ đều mang trong mình lòng thành kính,
niềm vui và cảm xúc tốt đẹp khi lắng nghe từng rời rỗi của các bà Bóng. “Khi tên
của người khấn được nằm trong một bài rỗi kết hợp với những âm điệu, du dương
trầm bổng của âm nhạc, người dâng lễ vật có cảm giác sung sướng vì đã được đáp
ứng nhu cầu của mình, mình được giao tiếp trực tiếp với Bà thông qua chiếc cầu
tâm linh là bài hát rỗi” [2, tr.88]. Khi mua lễ vật dâng cúng Bà, cụ thể là mâm
vàng, người đến tham dự Lễ trực tiếp đội lễ để cảm nhận được điều thiêng liêng.
“Họ diễn tả những tình cảm, những cảm xúc tốt đẹp, niềm tin và sự bình an khi
sắm mâm vàng cúng Bà. Như vậy, không gian tâm linh trong mỗi con người tham
dự lễ cúng có lẽ phần nào đó được an ủi, được chở che và được thỏa mãn” [2, tr.90]


13

2.1.6. Phương thức diễn xướng Múa bóng
Trong nghi lễ cúng Bà, các tiết mục Múa bóng luôn được mọi người hân hoan
chờ đợi nhất. Múa bóng là sự kết hợp các động tác tạo hình tương ứng với âm
nhạc nhằm biểu đạt ý nghĩa nào đó với đối tượng tôn thờ và người tham dự. Bao
gồm các loại sau:
Múa dâng bông
Đây là điệu múa đầu tiên trong khi thực hiện nghi lễ cúng Bà. Nghệ nhân múa
Bóng thường hát những câu sau trước khi múa dâng bông:
“Cúi đầu dâng vạn thọ

Ngửa mặt chúc vô cương
Miệng đều ca hàm tẩu nhất chương
Để lan liễu múa tiểu mai vài chặp” [2, tr.93]
Nghệ nhân múa Bóng đặt chén bông lên đầu, lên trán, hay cầm chén bông xoay
tròn quanh người và kết hợp các động tác múa khi đứng, khi ngồi, khi nằm. Nhưng
bắt buộc chén bông phải giữ được thăng bằng. Hay “đặt chén bông lên một thanh
gỗ nhỏ hình trụ, nhỏ dài từ 1-1,5m, đầu còn lại của thanh gỗ đặt lên trán, lên
miệng để múa, tạo thành một màn trình diễn ngoạn mục” [1, tr.204].
Múa dâng mâm
Đây là điệu múa bắt buộc phải có trong nghi lễ cúng Bà, có rất nhiều động tác
khác nhau, nhưng phân loại thì có 3 loại: tay, đầu và toàn thân.
Đối với động tác tay, nghệ nhân múa Bóng thực hiện các động tác lật mâm,
chuyền mâm, và tung mâm. Đối với động tác đầu, nghệ nhân múa Bóng lại thực
hiện giữ thăng bằng mâm trên đỉnh đầu, cấn cạnh (dựng chiếc mâm vàng theo
chiều ngang, đặt cạnh mâm trên đỉnh đầu, mép miệng, mũi hoặc trán trong lúc hai
tay múa đều), và bêu (mâm vàng dựng ngang mắc vào đầu bêu, đầu còn lại đặt
trên mũi, mép, trán… và múa). Đối với động tác toàn thân, “đặt mâm vàng trên
đầu, múa xoay tròn người. Dùng lực hất mâm rơi xuống lưng, chống hai tay xuống
đất giữ cho mâm thăng bằng, rồi xoãi chân nằm úp xuống. Sau đó, sử dụng các cơ
vai, cơ bụng, di chuyển mâm từ sau lưng ra trước ngực, từ đầu xuống chân. Như
một vận động viên uốn dẻo, Bóng dùng hai chân đưa mâm lên đầu và tiếp tục múa.
Sau khi múa đầy đủ các động tác, Bóng quỳ trước bàn thờ, người chủ Miễu bật lửa
hóa mâm vàng để dâng lên Bà. Bóng tiếp tục múa cho đến khi ngôi tháo cháy rụi,
kết thúc nghi thức dâng mâm” [1, tr.205].
Múa dâng lộc
Đây là điệu múa trong nghi thức Bán lộc. Thay vì để tộ bông hay mâm vàng,
mâm bạc, người ta đặt một mâm trầu cau được phủ vải đỏ sẵn sàng để bà Bóng
bưng lên và múa (…) Ở thể loại này thì hai tay chủ yếu cuộn tròn hoặc giang rộng
để giữ thăng bằng cho lễ vật không rơi xuống đất” [2, tr.94]. Sau đó, phân phát
hoặc bán cho người đến dự lễ để nhận may mắn, phù hộ của Bà.



14

Múa đồ chơi (tạp kỹ)
Đây là điệu múa để biểu diễn cho người tham dự lễ cúng Bà xem, chứ không
phải mục đích phục vụ nghi lễ cúng. Vì thế những tiết mục này thường rất phong
phú và được mọi người mong chờ nhất. Có thể chia thành các tiết mục nhỏ như
sau:
Loại múa đồ đầu: để những đạo cụ trực tiếp lên đầu để múa. Nghệ nhân múa
Bóng thực hiện động tác quay đầu, đứng lên ngồi xuống sao cho đạo cụ trên đầu
không bị rớt xuống. Bao gồm các tiết mục: múa tộ bông, múa độc bình, múa trống,
múa khạp, múa rót rượu, múa đầu bêu, múa lông công…
Loại múa đồ chay (múa cần nhạo): “bà Bóng để một thanh tre vuốt mỏng, uốn
cong lên trán. Bà để tộ bông, hoặc một cái bình trà vào đầu kia của cọng tre. Khi
múa, cọng tre sẽ đung đưa, lắc lư, khi bà quay tròn thì những vật ở đầu cọng tre
cũng quay tròn” [2, tr.98].
Có thể thấy, các loại múa khác nhau về đạo cụ, nhưng vẫn có đặc điểm chung
như nghiên cứu của Nguyễn Thị Hải Phượng:
“Tất cả dụng cụ đều được để trên đầu khi múa. Có một số đặt trực tiếp lên đầu,
một số cần có vật tiếp dẫn nhưng cũng sử dụng đầu và được đặt cao phía trên đầu.
Động tác của hai tay rất đơn giản, không có quy tắc cụ thể, hầu hết các động
tác chỉ xoay quanh, chủ yếu là động tác là xoay cổ tay, cuộn tròn tay từ ngoài vào
trong, không phải là những động tác quy định của bài múa hiện đại. Tuy chỉ sử
dụng động tác như một cách giữ thăng bằng cho dụng cụ đang ở trên đầu. Vì lẽ đó,
không thể xếp loại hình múa này vào loại nghệ thuật “Múa” theo quan niệm và
cách định nghĩa thông thường.
Không có bộ điệu cho động tác chân. Chân và thân mình thường nhún lên
xuống theo trục thẳng đứng của cơ thể, các bước chân lên xuống không theo nhịp
bắt buộc. Lí do là chân và thân mình luôn phải giữ trọng tâm để vật trên đầu không

rơi xuống đất.
Mặt luôn luôn hướng về phía bàn thờ. Nếu có quay tròn thì cũng phải quay thật
nhanh để trở lại vị trí trước bàn thờ. Tối kị việc múa với những động tác đưa lưng
hoặc thân vào bàn thờ trong thời gian lâu” [2, tr.99].
Như vậy trong hình thức múa Bóng, có thể thấy những ảnh hưởng của cách
múa trong văn hóa Chăm, càng chứng minh rõ nguồn gốc của diễn xướng Bóng
rỗi Nam Bộ.

2.2. ĐẶC ĐIỂM NỘI DUNG CỦA BÓNG RỖI NAM BỘ
2.2.1. Thể hiện nội dung ca ngợi, tôn vinh công đức của thần linh
Bóng rỗi Nam Bộ thể hiện truyền thống tri ân, uống nước nhớ nguồn của nhân
dân đối với thần linh, tổ tiên, hay những người có công với đất nước, dân tộc đã


15

cưu mang, che chở người dân trước khó khăn, hoạn nạn. Cũng như các nghi thức
diễn xướng trong nghi thức thờ Thần, Bóng rỗi Nam Bộ có nội dung xưng tụng
công đức của các vị Thần. Trong các bài Chầu Bà, các nghệ nhân Bóng thường có
các câu sau để ca ngợi năm Bà, năm vị ngũ hành:
“Bà Kim sanh bạc, hóa vàng
Bà Thủy sanh nước dãy đầy biển khơi
Bà Hỏa sanh ngọn lửa hồng
Bà Thổ sanh đất đầy đồng nơi đây
Bà Mộc sanh cội hóa cây”
Hay cụ thể để nhớ ơn người chiến sĩ có công với nhân dân, theo ghi chép của
Nguyễn Thị Hải Phượng bài Chầu chiến sĩ được bóng Chín, 67 tuổi, Gò Dầu. Tây
Ninh cúng tại miếu Năm Bà, số 285/101/25 CMT8, quận 10, thành phố Hồ Chí
Minh, ngày 18-2-2011, nhằm ngày 13 tháng Giêng âm lịch có những câu rỗi như
sau:

“…Thương các con chiến sĩ, biết xương thắm máu hồng
Bổn hội rước anh về mà để chứng minh mà độ dùm
Em, thắp hương tưởng niệm những người anh lính
Vì tổ quốc hy sinh má đào tô thắm cho đồng bào…” [2, tr.217]
Sự tôn kính, biết ơn ấy không chỉ thể hiện trong nội dung mà còn trong hình
thức múa Bóng rỗi, như đã trình bày ở mục 2.1.6.
2.2.2. Thể hiện ước vọng của nhân dân đến thần linh
Bóng rỗi Nam Bộ là nghi lễ gắn liền với tục thờ Mẫu nên thỏa mãn nhu cầu
tâm linh của cộng đồng. Trước hết, nó thể hiện ước mơ của người dân về cuộc
sống bình an, khỏe mạnh, sung túc qua lời rỗi cầu xin thần thánh. Theo ghi chép
của Nguyễn Thị Hải Phượng, bài Chầu Bà của nghệ nhân bóng Hằng cúng tại
miễu Ngũ Hành, số đường Cách mạng tháng tám, quận 10, thành phố Hồ Chí
Minh, ngày 7-2-2011 có những câu như sau:
“…Hôm nay chúng con cầu nguyện
Năm Bà ngự tại miễu linh
Chứng lễ cho gia chủ tâm thành, còn để mâm vàng tôn vinh
Cầu ơn trên Mẹ Chúa Xứ chứng lòng
Độ hộ cho bản thân (dạo)
Gia chủ cầu an ừ…a…
Cầu ơn trên năm vị chị em
Bà Kim bà Mộc, bà Thủy bà Hỏa bà Thổ


16

Năm vị về xem ơ ơ… cái tiệc này.
Tiệc này trong bổn hội người để sắm sanh
Cầu dân an quốc thới, còn để cho mưa thuận gió hòa ư ừ a…
Sau còn cầu cho Cô Mão tuổi Mẹo bình an
Tăng long tuổi thọ (còn để) vái van cho lịnh Bà…” [2, tr.216].

Thực chất, những ước vọng của nhân dân là hết sức chính đáng, là khát vọng
chân chính của con người muôn thuở. Bóng rỗi Nam Bộ có khả năng “kết nối mọi
người lại với nhau. Mỗi người với mỗi thân phận, nỗi niềm khác nhau nhưng đến
với bóng rỗi, mọi người được gặp gỡ, giao lưu, trò chuyện, chia sẻ và cùng nhau
cộng cảm trong một niềm mong ước chung, mong ước về cuộc sống tương lai tốt
đẹp hơn. Đó chính là sợi dây gắn kết cộng đồng trong một hoạt động chung, tiếng
nói chung” [5, tr.227].
2.2.3. Thể hiện quan niệm của con người về tự nhiên
Ngoài những lời hát rỗi mang tính tâm linh, Bóng rỗi Nam Bộ còn sáng tạo ra
nhiều nội dung phong phú đa dạng hơn, như nội dung ca ngợi cảnh đẹp thanh bình
của non sông đất nước. Theo ghi chép của Nguyễn Thị Hải Phượng, bài Chầu Bà
được bóng Ngọc Phước, thành phố Hồ Chí Minh cúng tại miếu Ngũ Hành, đường
Nguyễn Du, quận 1, ngày 31-10-2012, nhằm ngày 17-9 âm lịch có những câu như
sau:
“… Bảy núi năm non, ư ư…
Con vọng mời trên bảy núi mà năm non
Núi Tà lơn, ông Cấm, ông Tô cũng ngự về
Con vọng mời núi Két mà núi Sam
Thỉnh mẹ Châu đốc, núi Sam cũng ngự về đồng về i… a
Con vọng mời mẹ tở mẫu mà Linh sơn…” [2, tr.212]
Thông thường, cuối bài rỗi, các bà Bóng sẽ chuyển qua hát điệu Lý để tạo
không khí nhẹ nhàng và vui tươi khi dứt bài. “Các bài Lý có thể là những bài với
đề tài miêu tả sự vật, hiện tượng như: hoa, trái cây, thú vật, phản ánh phong tục, lễ
nghi (…) Ví dụ: các bài Lý miêu tả các loài hoa như: Lý cây bông, Lý dâng bông,
Lý trăm huê, Lý trăm hoa, Lý lựu lê…” [1, tr.214].
Quan niệm về âm dương – ngũ hành cũng là một trong những nội dung được
đề cập đến trong lời hát rỗi của diễn xướng Bóng rỗi Nam Bộ. Năm màu sắc chính
và năm loại vật chất: kim, mộc, thủy, hỏa, thổ. Khi rỗi bóng, lúc nào cũng có lời
chầu mời 5 vị nữ thần này.
2.2.4.Thể hiện đặc trưng văn hóa con người Nam Bộ

Một trong những đặc điểm nội dung sáng tạo của Bóng rỗi Nam Bộ đó chính là
thể hiện văn hóa con người Nam Bộ. Bên cạnh kết cấu bắt buộc của bài rỗi, các bà


17

Bóng còn không ngừng đổi mới, sáng tác ra các lời rỗi để phục vụ nhân dân và
phù hợp văn hóa vùng miền. Cụ thể là việc tích hợp bài bản Cải lương vào bài rỗi,
thay đổi nội dung của bài rỗi cổ. Hay một đặc điểm thể hiện sự linh hoạt, nhạy bén
của các bà Bóng là hát những lời chúc mừng. “Trong bài rỗi, bên cạnh những câu
bắt buộc (thường là những câu chúc như:bình an, trăm tuổi thọ, giàu sang), bà
Bóng có thể thay đổi, thêm vào tên của bổn hội, gia chủ hay người dâng mâm lên
Bà, làm cho bài rỗi thêm sinh động và phù hợp hoàn cảnh” [2, tr.136].
TIỂU KẾT
Tóm lại, tìm hiểu những đặc điểm chính thể hiện thông qua hình thức và nội
dung của Bóng rỗi Nam Bộ, chúng ta có cái nhìn tổng thể về giá trị và ảnh hưởng
của hình thức diễn xướng này đối với nhân dân Nam Bộ.
Đó là những hình thức múa Bóng mang nguồn gốc của các động tác múa Chăm.
Đó là những bài rỗi mang nhận thức, bản sắc của văn hóa người dân Nam Bộ.
Những điều này góp phần chứng minh sự phong phú và làm nổi bật nét độc đáo
của nghi lễ cúng Bà.
Đồng thời, thông qua những đặc điểm này, Bóng rỗi Nam Bộ mang lại những
giá trị tâm linh, văn hóa, đạo đức cần giữ gìn và phát huy. Rõ ràng Bóng rỗi Nam
Bộ cần tiếp tục được bảo tồn và phát huy trong cuộc sống hiện nay.


18

Chương 3:
NHỮNG BIẾN ĐỔI CỦA BÓNG RỖI NAM BỘ HIỆN NAY

3.1. THỰC TRẠNG CỦA BÓNG RỖI NAM BỘ HIỆN NAY
Tuy là hình thức diễn xướng có nguồn gốc lịch sử, văn hóa, xã hội, nhưng
Bóng rỗi Nam Bộ vẫn có những thay đổi theo thời gian. Không ít trường hợp đã
mai một và biến mất khỏi cộng động nhân dân Nam Bộ. Cho nên, việc tìm hiểu
thực trạng, dựa trên các nghiên cứu trước đó để thống kê các địa điểm còn tồn tại
loại hình diễn xướng Bóng rỗi Nam Bộ hoàn toàn cần thiết. Trong giới hạn của
Niên luận, một số đền thờ, miếu cụ thể còn diễn xướng Bóng rỗi Nam Bộ được
thống kê như sau:
3.1.1. Dinh Ông Nam Hải (Ấp Hải An, xã Phước Hải, Long Điền, Bà Rịa –
Vũng Tàu)
Dinh Ông Nam Hải được xây dựng trên 100 năm trên nền chùa Bửu Long cũ
có từ năm Minh Mạng thứ 10. Hàng năm Dinh Ông Nam Hải tổ chức nhiều lễ hội,
trong các lễ hội này thì “lễ Vía Bà và lễ hội Dinh Ông là hai sinh hoạt văn hóa
mang đậm sắc thái nghề nghiệp của cộng đồng ngư dân địa phương. Nghi thức
cúng lễ là các lễ nghinh đớn các thần linh biển và cúng tế theo một số tổ hợp nghi
thức tổng hợp: cúng tế truyền thống, hát bóng rỗi và tụng kinh cầu an của nhà
chùa” [7, tr.255-256].
3.1.2. Đình Thắng Tam (Đường Hoàng Hoa Thám, P2, TP.Vũng Tàu)
Đình Thắng Tam xây dựng vào đời vua Minh Mạng, đặc biệt Miều Bà Ngũ
Hành nằm phía bên trái khu đình thần Thắng Tam, xây vào cưới thế kỷ XIX. Ban
đầu, người dân dựng để thờ Năm Bà Ngũ Hành, sau còn thờ thêm Thiên Y Ana và
Thủy Long thần nữ… “Hàng năm, miễu Bà tổ chức lễ hội vào 3 ngày (16 – 18/10
âm lịch). Hình thức thực hành nghi lễ ở đây là Hát Bóng rỗi với các tiết mục Dâng
bông, Dâng mâm, múa tạp kỹ và diễn chặp địa nàng” [7, tr.270].
3.1.3. Đình Minh Hương (380 Trần Hưng Đạo, quận 6, TPHCM)
Đây là ngôi đình của Minh Hương xã – một làng của cộng đồng người Hoa ở
đất Sài Gòn xưa, được thành lập vào năm 1698. Lịch lễ hàng năm của đình Minh
Hương Gia Thạnh cũng là lịch lễ phổ biến của đình miếu Nam Bộ. Về nghi lễ
cúng Kỳ yên giồng hệt nghi lễ cúng đền “cũng học trò lễ thực hành nghi thức dâng
lễ vật, có nhạc lễ và hát chầu. Các lễ vía nữ thần tuân theo nghi thức Hát Bóng rỗi

với các cô Bóng múa Dâng bông, múa Dâng mâm vàng, diễn các chặp bóng
tuồng…” [7, tr.350].


19

3.1.4. Núi Điện Bà – Đền thờ Linh Sơn Thánh Mẫu (Cách thị xã Tây ninh
11km)
Núi Điện Bà còn có tên là núi Bà Đen, đền thờ Linh Sơn Thánh Mẫu tương
truyền có từ đầu thế kỷ XIX. Lễ Vía Bà hàng năm, tổ chức vào ngày 5 và 6 tháng
5 âm lịch, “là trình thức tổng hợp cả nghi lễ Hát Bóng rỗi dân gian và khoa nghi
Trai đàn thì thực nhà Phật (…) Tối mùng 5 Hát Bóng rỗi (Chầu mời, Thỉnh tổ,
múa Dâng bông, múa Dâng mâm vàng/bạc…” [7, tr.409]
3.1.5. Đình Vĩnh Phong (Thị trấn Thủ Thừa, Long An)
Đình Vĩnh Phong là một trong những đình làng cổ của xứ Long An, được vua
sắc phong vào năm 1852. Hàng năm đình có 3 lễ lớn, lễ Kỳ Yên, Giỗ ông Chủ chợ
Mai Tự Thừa, lễ Vía Bà. “Lễ Kỳ Yên thực hiện theo nghi thức tế lễ truyền thống,
trong khi đó giỗ ông Chủ Chợ lại là ngày giỗ bình thường và Vía Bà là thực hành
theo nghi lễ dân gian: Hát Bóng rỗi” [7, tr.435]
3.1.6. Miếu Bà Ngũ Hành (Xã Long Thượng, Cần Giuộc, Long An)
Miếu này được thành lập từ bao giờ không xác định được, như tên gọi thờ tự 5
nữ thần ngũ hành. Hàng năm mỗi dịp lễ vào ngày 20 tháng Giêng âm lịch diễn ra
lễ Vía Bà, “nghi lễ là hình thức hát Bóng rỗi với các tiết mục Chầu mời, Thỉnh tổ,
múa Dâng bông, múa Dâng mâm, và diễn chặp bóng tuồng Địa- Nàng” [7,tr.541]
3.1.7. Miễu Bà Chúa xứ Mỹ Long (Khóm 2, thị trấn Mỹ Long, tỉnh Trà
Vinh)
Miễu được xây dựng vào khoảng đầu thế kỷ 20, hàng năm hội cúng Biển được
tổ chức vào 10, 11, 12/5 âm lịch. Tối hôm đó, “lập đàn tràng cầu an (mời các sư
trong chùa Việt) và tổ chức múa dâng bông” [7, tr.519].
3.1.8. Gò Tháp Mười (Xã Tân Kiều, Tháp Mười, Đồng Tháp)

Gò Tháp Mười là một cụm văn hóa có tình chất lịch sừ, tín ngưỡng – tôn giáo.
Tại đây mỗi năm có 2 ngày hội lớn: cúng Bà Chúa Xứ (rằm và 16/3 âm lịch) và
cúng Đốc binh Kiều (rằm và 16/11). Vào ngày này, tại miếu Bà Chúa Xứ có hát
Bóng rỗi, Địa Nàng, phát lộc. “Đặc biệt dưới ánh trăng đêm rằm có hàng chục
nghệ nhân múa Bóng múa lượn theo tiếng sang tiếng trống. Có thể coi ngày lễ
cúng Bà Chúa Xứ ở đây là ngày hội của các nghệ nhân múa bóng khắp các tỉnh
Nam Bộ” [7, tr.526].
3.1.9. Miếu Bà Chúa xứ (Xã Vĩnh Tế, thị xã Châu Đốc, An Giang)
Đó là ngôi miếu lá thờ nữ thần Pô Inư Nagar được hình thành vào những năm
20 của TK XIX. Lễ Vía Bà Chứa Xứ vốn theo nghi lễ dân gian tức hát Bóng rỗi,
diễn ra vào 3 ngày 24, 25, 26/4 âm lịch.


20

3.1.10. Đình Thường Thạnh (Ấp Thạnh Mỹ, xã Đông Thạnh, Châu Thành,
Cần Thơ)
Đình được thành lập vào những năm đầu thế kỷ XX, thờ Thượng Đông Cổ Hi.
Hàng năm có 2 lễ lớn, “các nhóm nghệ nhân hát Bóng rỗi tự động tụ hội về hát
Chầu mời, Thỉnh tổ và múa Dâng bông, Dâng mâm, múa đồ chơi để làm vui Bà”
[7, tr.608].
3.1.11. Miếu Bà Cổ (phường 7, tp. Bạc Liêu)
Miếu thờ Thất Thánh nương nương, hàng năm vào ngày 23/3 diễn ra lễ Vía Bà,
mọi người đến tham dự, xem múa Dâng mâm vàng.

3.2. ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP PHỤC HỒI, PHÁT HUY BÓNG RỖI NAM
BỘ
Dựa trên các đề xuất giải pháp để bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc
thông qua lễ hội của Trịnh Xuân Thắng, có thể mạnh dạn rút ra một số giải pháp
cho diễn xướng Bóng rỗi Nam Bộ như sau:

3.2.1. Tiếp tục nghiên cứu giá trị, đặc trưng của Bóng rỗi Nam Bộ
Việc nghiên cứu những yếu tố đặc trưng của Bóng rỗi Nam Bộ là cần thiết để
định hướng cho công tác bảo tồn và phát huy nó. Bởi vì “chỉ khi nào chỉ ra những
nết văn hóa đặc trưng thể hiện qua từng yếu tố từ lễ vật, trang phục, nghệ thuật, trò
chơi, nhân vật cử lễ… và kiên quyết giữ cho được nét văn hóa mang tính đặc sắc
của các lễ hội này (…) thì khi đó chúng ta có được một hệ thống lễ hội phong phú,
đa dạng nhưng không thể trộn lẫn” [6, tr.104].
3.2.2. Tăng cường tổ chức tuyên truyền các giá trị của Bóng rỗi Nam Bộ
Chúng ta còn có thể bảo tồn Bóng rỗi Nam Bộ bằng cách khuyến khích các
nghệ nhân truyền lại lời hát, điệu múa. Những băn khoăn, lo lắng của nghệ nhân
múa Bóng đi trước khiến ta phải nghĩ đến việc xây dựng Bóng rỗi Nam Bộ từ nghệ
thuật dân gian đến sân khấu hiện đại, từ hình thức tự phát trong nghi lễ đến
chương trình bài bản.
3.2.3. Tăng cường công tác quản lý của nhà nước trong Bóng rỗi Nam Bộ
Thực tế cho thấy vẫn còn những suy nghĩ sai lệch về giá trị của Bóng rỗi Nam
Bộ, dẫn tới các hiện thực mai một, suy thoái theo thời gian. Chính vì vậy, “việc
kiểm tra, giám sát hoạt động của lễ hội để kịp thời uốn nắn, xử lý những lệch lạc là
một nội dung quan trọng trong công tác quản lý nhà nước nhằm bảo tồn và phát
huy các giá trị văn hóa của lễ hội” [6, tr.104].
TIỂU KẾT
Thông qua việc tìm hiểu những biến đổi của Bóng rỗi Nam Bộ , ta có thể thấy
tính cấp bách và cần thiết của việc phục hồi. bảo tồn và phát huy loại hình diễn
xướng này.


21

Bên cạnh đó, qua việc đề xuất một số giải pháp, niên luận cho thấy sự đồng
nhất của Bóng rỗi Nam Bộ và lễ hội truyền thống nói chung. Chứng tỏ, Bóng rỗi
Nam Bộ là một thành tố quan trọng, không thể thiếu của lễ hội truyền thống. Phục

hồi, phát huy diễn xướng Bóng rỗi Nam Bộ cũng đồng nghĩa với phát triển giá trị
văn hóa của dân tộc.


22

KẾT LUẬN
Qua những khảo sát, tổng hợp của niên luận, chúng ta có thể khẳng định rằng
Bóng rỗi Nam Bộ là nghi thức diễn xướng không thể thiếu trong lễ hội thờ Mẫu.
Niên luận đã tổng hợp xác định nguồn gốc hình thành của Bóng rỗi Nam Bộ.
Cụ thể loại hình diễn xướng này ra đời trong văn hóa hỗn dung, đa dạng từ
Champa, Khmer, Hoa, Việt, trong khoảng cuối thế kỷ XVIII.
Trong sự lâu dài của thời gian, Bóng rỗi Nam Bộ mang những đặc điểm hình
thức và nội dung khác biệt và nổi bật trong môi trường văn hóa Nam Bộ. Đối với
hình thức Hát rỗi hay Múa Bóng, tất cả các đặc điểm từ lễ vật, đạo cụ, âm nhạc,
nhạc khí… đều chuyển tải được sái thái đặc trưng của vùng miền, con người Nam
Bộ. Đối với nội dung Hát rỗi hay Múa Bóng, mọi người dân đều có quyền ước
vọng, và nghệ nhân Bóng là cầu nối giao tiếp với thần linh cho nhân dân. Tuy là
hình thức diễn xướng tích hợp nhiều yếu tố có nguồn gốc, đặc điểm khác nhau,
nhưng Bóng rỗi Nam Bộ vẫn thể hiện được nổi bật đặc trưng của văn hóa Nam Bộ.
Điều này cho thấy Bóng rỗi Nam Bộ là thành tố quan trọng trong nghi lễ cúng
Miễu Bà, vừa có tính thiêng, vừa đáp ứng tiêu chí về giá trị nhân văn sâu sắc.
Tuy nhiên, vì chưa tìm hiểu thấu đáo cho nên vẫn còn ẩn chứa những lệch lạc
trong nhận thức về giá trị của Bóng rỗi Nam Bộ trong bộ phận người dân Nam Bộ.
Do đó, niên luận tổng hợp và đề xuất một số giải pháp đề đóng góp cho việc phục
hồi và phát huy giá trị của Bóng rỗi Nam Bộ.
Với tất cả những nghiên cứu trên, niên luận góp phần khẳng định Bóng rỗi
Nam Bộ là nghi thức diễn xướng quý báu, mang bản sắc văn hóa dân giancủa
người Nam Bộ nói riêng, người Việt nói chung. Do đó diễn xướng Bóng rỗi Nam
Bộ xứng đáng được nhìn nhận khoa học, xứng đáng được gìn giữ, phát triển.



23

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Mai Mỹ Duyên (2014), “Kỹ năng trình diễn múa bóng rỗi”, Kỷ yếu: Tín
ngưỡng thờ mẫu ở Nam Bộ - Bản sắc và giá trị, NXB Đại học Quốc gia Thành
phố Hồ Chí Minh, tr.203-208
2. Nguyễn Thị Hải Phượng (2013), Bóng rỗi và Chặp Địa Nàng trong tín
ngưỡng thờ Mẫu của người Việt ở Nam Bộ, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí
Minh - Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
3. Huỳnh Thị Mỹ Thanh (2014), “Giá trị và ảnh hưởng của tín ngưỡng thờ
Mẫu ở Nam Bộ”, Kỷ yếu: Tín ngưỡng thờ mẫu ở Nam Bộ - Bản sắc và giá trị,
NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, tr.44-46
4. Huỳnh Văn Tới (2014), “Diễn xướng ở lễ hội cúng Miễu Bà: “Bóng rỗi,
Địa Nàng””, Kỷ yếu: Tín ngưỡng thờ mẫu ở Nam Bộ - Bản sắc và giá trị, NXB
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, tr.199-202
5. Trịnh Xuân Thắng (2014), “Bóng rỗi trong tín ngưỡng thờ Mẫu ở Nam Bộ:
Bản sắc và giá trị”, Kỷ yếu: Tín ngưỡng thờ mẫu ở Nam Bộ - Bản sắc và giá trị,
NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, tr.224-228
6. Trịnh Xuân Thắng (2014), “Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa dân tộc
thông qua lễ hội trong điều kiện mới ở Việt Nam hiện nay”, Lễ hội cộng đồng:
truyền thống và biến đổi, NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, tr.99105
7. Viện Văn hóa Nghệ thuật Việt Nam, Phân viện Văn hóa Nghệ thuật Việt
Nam tại TP. Hồ Chí Minh (2012), Sổ tay hành hương đất phương Nam, NXB Văn
hóa
8. Phạm Thu Yến (2014), “Nghiên cứu hèm tục trong tín ngưỡng và lễ hội gắn
với sự tích nữ thần (hoặc mẫu thần)”, Kỷ yếu: Tín ngưỡng thờ mẫu ở Nam Bộ Bản sắc và giá trị, NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, tr.261-272




×