ĐỀ SỐ 6
BỘ ĐỀ THI THPT QUỐC GIA CHUẨN CẤU TRÚC BỘ GIÁO DỤC
Môn: Ngữ văn
Thời gian làm bài: 120 phút, không kể thời gian phát đề
I. ĐỌC HIỂU (3 điểm)
Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu:
Tự trọng nghĩa là biết coi trọng mình, nhưng không phải theo nghĩa vị kỷ (chỉ biết đến
danh lợi cùa bản thân mình) mà là coi trọng phẩm giá/đạo đức của mình. Một người có tự
trọng hay không cũng thường được thể hiện qua câu trả lời hay qua hành xử của anh ta cho
những câu trả lời như: “Điều gì khiến tôi sợ hãi/ xấu hổ?”, “Điều gì khiến tôi tự hào /hạnh
phúc?”...
Người tự trọng tất nhiên sẽ biết sợ sự trừng phạt của nhà nước (sợ pháp lý) nếu làm trái
pháp luật và sợ điều tiếng dư luận của xã hội (sợ đạo lý) nêu làm trái với luân thường, lẽ
phải. Nhưng đó vẫn chưa phải là điều đáng sợ nhất với họ. Điều đáng sợ nhất đối với một
người tự trọng là sự giày vò bản thân khi làm những chuyện đi ngược lại lương tri của chính
mình, phản bội lại lẽ sống, giá trị sống, nguyên tắc sống mà mình theo đuổi và có cảm giác
đánh mất chính mình. Nói cách khác, đối với người tự trọng, có đạo đức, “tòa án lương tâm”
còn đáng sợ hơn cả “tòa án nhà nước” hay “tòa án dư luận”.
[...] Nói cách khác, người tự trọng/tự trị thường không muốn làm điều xấu, ngay cả khi
không ai có thể biết việc họ làm; Họ sẵn lòng làm điều tốt ngay cả khi không có ai biết đến;
Họ sẵn lòng làm điều đúng mà không hề để ý đến chuyện có ai ghi nhận việc mình làm hay
không. Nếu tình cờ có ai đó biết và ghi nhận thì cũng vui, nhưng nếu không có ai biết đến và
cũng không có ai ghi nhận điều tốt mà mình làm thì cũng không sao cả, vì phần thưởng lớn
nhất đối với người tự do/tự trị/tự trọng là “được sống đúng với con người của mình”, tất
nhiên đó là con người phẩm giá, con người lương tri mà mình đã chọn.
(Trích Đúng việc - Giản Tư Trung, NXB Tri thức, 2016, tr.27-28
Câu 1.Chỉ ra phương thức biểu đạt chính của văn bản.
Câu 2.Theo tác giả, khác biệt giữa người vị kỷ và người tự trọng là gì?
Câu 3. Theo anh/chị, vì sao đối với người tự trọng, có đạo đức, “tòa án lương tâm” còn
đáng sợ hơn cả “tòa án nhà nước” hay “tòa án dư luận”?
Câu 4.Anh/Chị có đồng tình với quan niệm: phần thưởng lớn nhất đối với người tự do/tự
trị/tự trọng là “được sống đúng với con người của mình”? Vì sao?
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1. (2,0 điểm)
Từ nội dung văn bản phần Đọc hiểu, anh/ chị hãy viết một đoạn văn (khoảng 200 chữ)
trình bày suy nghĩ về vai trò của lòng tự trọng trong cuộc sống.
Câu 2. (5,0 điểm)
Cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu qua đoạn trích thơ sau:
Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức
Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh - một phương
(Trích Sóng, Xuân Quỳnh, Ngữ văn 12- Nâng cao,
Tập một, NXB Giáo dục Việt Nam, 2017, tr.123)
Từ đó liên hệ với đoạn trích thơ sau trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ của nhà thơ Hàn Mặc
Tử để nhận xét về quan niệm tình yêu của mỗi nhà thơ.
Mơ khách đường xa, khách đường xa
Áo em trắng quá nhìn không ra...
Ở đây sương khói mờ nhân ảnh
Ai biết tình ai có đậm đà?
(Trích Đây thôn Vĩ Dạ, Hàn Mặc Từ, Ngữ văn 1 – Nâng cao,
Tập hai, NXB Giáo dục Việt Nam, 2017, tr.47)
I. ĐỌC HIỂU (3 điểm)
Câu 1. Phương thức biểu đạt nghị luận/ Nghị luận
Câu 2. Sự khác biệt giữa người vị kỷ và người tự trọng: người vị kỷ chỉ biết đến danh của
bản thân mình, người tự trọng biết coi trọng phẩm giá/ đạo đức của mình.
Câu 3. HS có thể lý giải dựa trên hiểu biết và quan điểm của bản thân, cơ bản cần làm rõ:
Đối với người tự trọng, có đạo đức, “tòa án lương tâm” còn đáng sợ hơn cả “tòn án nhà
nước” hay “tòa án dư luận”, bởi vì: “tòa tán lương tâm” tuy vô hình nhưng chính là tiếng nói
của lương tri. Nó khiến con người luôn giày vò bản thân khi làm những chuyện đi ngược lại
lương tri của chính mình, phản bội lại lẽ sống, giá trị sống, nguyên tắc sống mà mình theo
đuổi và có cảm giác đánh mất chính mình.
Câu 4. HS có thể đồng ý hoặc không đồng ý, hoặc vừa đồng ý vừa không đồng ý nhưng cần
đưa ra lý lẽ thuyết phục. Dưới đây là gợi ý tham khảo:
– Đồng ý: phần thưởng lớn nhất đối với người tự do/tự trị/tự trọng là “được sống đúng
với con người của mình”. Bởi vì: người tự do/tự trị/tự trọng là người tự ý thức được giá trị
của con người mình, việc họ làm xuất phát từ những thôi thúc của lương tri chứ không phải vì
sự hấp dẫn của những phần thưởng mà xã hội trao cho. Việc được sống đúng với con người
của mình nghĩa là được hành động theo những lẽ sống mà mình trân trọng, thực hiện những
giá trị sống mà mình tôn thờ, theo đuổi những nguyên tắc sống mà mình đề cao. Được như
vậy, họ sẽ luôn cảm thấy thanh thản, hạnh phúc, cuộc sống có ý nghĩa, bản thân có giá trị.
– Không đồng ý: Không phải lúc nào phần thưởng lớn nhất đối với người tự do/tự trị/tự
trọng là “được sống đúng với con người của mình”. Bởi có thể, với người tự trọng, phần
thưởng lớn nhất đối với họ chính là niềm hạnh phúc của những người xung quanh, khi họ
thấy nhờ việc làm của mình mà cuộc sống của cộng đồng trở nên tốt đẹp và có ý nghĩa. Mặt
khác, quá trình tìm kiếm và định nghĩa chính mình của con người là một hành trình có nhiều
thăng trầm, biến đổi. Việc “sống đúng với con người của mình” không đồng nghĩa với việc
sống một cách bảo thủ và cố chấp, cứng nhắc và thiếu hòa nhập, tuyệt đối hóa nguyên tắc
sống của bản thân dẫn đến tự cao, tự đại xa rời với cộng đồng.
– Vừa đồng ý vừa không đồng ý: (Kết hợp hai ý kiến trên).
II. LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
HS có thể trình bày đoạn văn theo cách diễn dịch, quy nạp hoặc tổng – phân – hợp, diễn
đạt trong sáng, mạch lạc, kết hợp linh hoạt các thao tác lập luận. Dưới đây là gợi ý tham
khảo:
Quy ước viết tắt : [Đ]: Đặt vấn đề
[M]: Mở rộng
[G]: Giải quyết vấn đề
[B]: Bài học/Thông điệp
[Đ] Lòng tự trọng có một vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống của con người. [G]
Người có lòng tự trọng là người biết coi trọng giá trị, đạo đức của bản thân. Lòng tự trọng
khiến con người hành động theo tiếng gọi của lương tâm, thực hiện những điều đúng đắn,
phù hợp với pháp luật và chuẩn mực đạo đức của xã hội. Đó là một kim chỉ nam định hướng,
điều chỉnh để con người biết tự tránh xa những cám dỗ của điều xấu xa cạm bẫy; là động lực
thôi thúc con người nỗ lực hoàn thiện nâng cao năng lực bản thân. Người có lòng tự trọng
luôn biết nhận ra lỗi lầm và tìm cách khắc phục, không đổ lỗi hoặc trốn tránh trách nhiệm của
mình. Nếu không có lòng tự trọng, con người dễ dàng thỏa hiệp với hoàn cảnh, có nguy cơ
đánh mất chính mình, phản bội những lẽ sống cao đẹp, buông thả và hèn nhát. [M] Ta đề cao
những con người mà lòng tự trọng của họ tạo ra những hành động thiết thực giúp cho cuộc
sống cá nhân họ và cả cộng đồng, dân tộc trở tốt đẹp và phát triển; đồng thời phê phán những
người thiếu tư cách, chỉ biết trục lợi cho mình, đi ngược lại những chuẩn mực đạo đức của xã
hội và lợi ích của tập thể. [B] Tuy nhiên, lòng tự trọng cần tỉnh táo để không bị đẩy tới cực
đoan, trở thành tự cao, tự đại, rơi vào vị kỉ. Hành trình sống là hành trình thể nghiệm và xây
dụng bồi đắp để lòng tự trọng trở nên sáng suốt và có ý nghĩa hơn.
Câu 2 (5,0 điểm)
Yêu cầu cơ bản (yêu cầu chính) của đề là cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn người phụ nữ trong
đoạn thơ của bài Sóng – Xuân Quỳnh. Yêu cầu nâng cao (yêu cầu phân hóa) là liên hệ với
đoạn thơ trong bài Đây thôn Vĩ Dạ – Hàn Mặc Tử, từ đó rút nhận xét về quan niệm tình yêu
của mỗi nhà thơ.
Dưới đây là gợi ý tham khảo:
1. Giới thiệu nét cơ bản về tác giả, tác phẩm, đoạn trích và vấn đề cần nghị luận
– Xuân Quỳnh là một trong số những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ thời kì chống Mĩ
cứu nước. Thơ Xuân Quỳnh mang vẻ đẹp nữ tính, là tiếng nói của một tâm hồn giàu trắc ẩn,
hồn hậu chân thực và luôn da diết trong khát vọng về hạnh phúc bình dị đời thường.
– Sóng tiêu biểu cho phong cách thơ Xuân Quỳnh, là lời tự bạch của một trái tim yêu
nhiều trăn trở.
– Khổ thơ 5, 6 của bài thơ đã thể hiện vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ khi yêu với nỗi
nhớ nồng nàn mãnh liệt và sự thủy chung son sắt: Con sóng dưới lòng sâu/.../ Hướng về anh một phương.
2. Yêu cầu cơ bản: Cảm nhận vẻ đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong tình yêu qua đoạn thơ
trong bài Sóng:
– Đó là vẻ đẹp của một tâm hồn với nỗi nhớ nhung nồng nàn, mãnh liệt. Nỗi nhớ đó
thường trực bao trùm mọi không gian (dưới lòng sâu - trên mặt nước), vượt qua mọi giới hạn
của thời gian (ngày đêm), thường trực cả khi thức và khi ngủ, không chỉ tồn tại, trong cõi ý
thức mà xâm nhập vào bến bờ tiềm thức (Cả trong mơ còn thức). Những đòi hỏi, khao khát
yêu đương của người phụ nữ trong khổ thơ vừa mãnh liệt vừa giản dị: sóng chỉ khao khát tới
bờ cũng như em luôn khao khát có anh.
– Đó còn là vẻ đẹp của một tình yêu thủy chung, duy nhất. Bất chấp những thăng trầm
biến động của cuộc đời (xuôi về phương bắc/ ngược về phương nam), những xáo trộn về quy
luật địa lý (xuôi bắc - ngược nam), trái tim nguời phụ nữ luôn hướng về người mình yêu
thương bằng một tình yêu mạnh mẽ, quyết tâm vượt qua thử thách (Hướng về anh - một
phương).
– Thể thơ năm chữ, nhịp thơ khá đa dạng và linh hoạt với các câu thơ đa phần không ngắt
nhịp, chia thành các khổ không đều nhau về số lượng câu, nối khổ bằng cách nối vần, chia
thành các khổ không đều nhau về số lượng câu (nỗi nhớ mãnh liệt của tâm hồn người phụ nữ
được thể hiện trong một khổ thơ độc đáo có tới 6 câu thơ); nhờ thế tạo được nét trẻ trung, hồn
nhiên và tạo ra âm hưởng sóng rất kì thú. Giọng điệu của đoạn thơ vừa tha thiết, dịu dàng nữ
tình vừa nồng nàn và mạnh mẽ; các tương phản đôi lập, điệp từ, điệp ngữ, ẩn dụ được khai
thác tối đa.
3. Yêu cầu nâng cao: Liên hệ với khổ thơ thứ 3 trong bài Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử
để nhận xét về quan niệm tình yêu của mỗi nhà thơ:
– Liên hệ với khổ thơ cuối trong bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ: Ở khổ thơ cuối trong bài thơ
Đây thôn Vĩ Dạ, nhân vật trữ tình (Hàn Mặc Tử) khao khát được sống, được yêu, được hạnh
phúc, được giao cảm với đời. Trong những năm tháng cuối đời, phải đấu tranh, chống chọi
với căn bệnh phong quái ác, chống chọi với sự mặc cảm. Có thể nói, đó là những tháng đau
khổ, cô đơn cùng cực nhất của Hàn.
+ Khổ thơ cuối này tập trung biểu đạt nỗi tuyệt vọng trong tình yêu và tình đời: Mơ khách
đường xa, khách đường xa/ Áo em trắng quá nhìn không ra. Ai là khách? Là Hàn – người
khác của xứ Huế, thôn Vĩ? Hay là Hoàng Cúc – người khách phương xa – người con gái Hàn
luôn mơ về? Dù ai là khách thì khoảng cách xa cũng gợi lên bao nhiêu tuyệt vọng. Vì yêu mà
không được ở gần, mà chia xa thì tình yêu khó tồn tại, niềm giao cảm khó đến được. Vì thế
mà Hàn tuyệt vọng. Hình ảnh cực tà áo em trắng quá là kết quả của cảm xúc thăng hoa cùng
cực tuyệt vọng ấy: trắng quá nhìn không ra, mất tín hiệu hay bóng dáng trắng ấy quá rực rỡ
kiêu sa để Hàn không thê nhìn ra, không chạm tới.
+ Âu cũng là nỗi niềm tuyệt vọng, mặc cảm bệnh tật, tự mang đau vào đau: Ở đây sương
khói mờ nhân ảnh/ Ai biết tình ai có đậm đà?. Ở đây là ở đâu? Thế giới mặc cảm của Hàn, thế
giới đối lập với thế giới ngoài kia, nơi người tình mà rộng hơn là nơi con người đang sống?
Những năm tháng cuối đời của Hàn, vì bệnh phong mà mọi người xa lánh, hắt hủi, bản thân
Hàn thì mặc cảm vì bệnh tật, vì xấu xí, vì đau đớn,... Hàn tự tách mình ra khỏi thế giới của
cuộc đời trần thế, băn khoăn, nghi hoặc: Ai biết tình ai có đậm đà? Là một câu hỏi hỏi người
tình hay hỏi người đời? Có thể là cả hai? Là băn khoăn, là nghi ngờ, là hỏi han nhưng hơn cả
nó cho chúng ta thấy một tấm lòng, một tâm hồn khao khát giao cảm, yêu đời, yêu người
mãnh liệt. Qua khổ thơ này ta còn thấy ở Hàn là một tâm hồn sống đầy nghị lực, vượt lên nỗi
đau thế xác, tâm hồn, vượt qua cái chết đang cận kề để hướng về cuộc sống trần thế với tất cả
khát khao hạnh phúc dồn nén.
– Nhận xét về quan niệm tình yêu của mỗi nhà thơ: Với nhà thơ, tình yêu gắn liền với nỗi
nhớ, với sự thủy chung; tình yêu có sức mạnh băng qua mọi giới hạn của không gian, thời
gian và nhũng trắc trở của phận người để tạo nên nhũng gắn bó bền lâu và hạnh phúc. Hàn
Mặc Tử thể hiện một tình yêu đau đớn hướng về cuộc đời trần thế, một tình yêu mãnh liệt và
cũng là sản phẩm của một tâm hồn mang mặc cảm chia lìa. Phải chăng, Hàn muốn gửi đến
bạn đọc một quan quan niệm tình yêu: luôn khat khao sống, khát khao yêu đương con người
và cuộc sống trần thế mãnh liệt, dù trong hoàn cảnh bi thương, đau khổ, đối diện với cái chết
cận kề.
4. Đánh giá chung
Dù là hướng đến hạnh phúc lứa đôi hay con người và cuộc sổng thì cả hai nhà thơ đều thể
hiện một niềm yêu, một khát khao vượt lên cả hoàn cảnh, số phận vô cùng mãnh liệt. Có thể
nói, đó là quan niệm tình yêu gieo vào lòng người những suy nghĩ tích cực nhất, lạc quan
nhất.