Tải bản đầy đủ (.doc) (10 trang)

Giao trinh dich te Giao trinh dich te Giao trinh dich te Giao trinh dich te Giao trinh dich te Giao trinh dich te

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (159.6 KB, 10 trang )

BÀI 2. BỆNH TRUYỀN NHIỄM VÀ QUÁ TRÌNH DỊCH
I. BỆNH TRUYỀN NHIỄM

1. Khái niệm và phân loại bệnh truyền nhiễm:
+ Khái niệm: Bệnh truyền nhiễm (Communicable diseases) là những bệnh
nhiễm trùng, có khả năng lan truyền từ người này sang người khác.
+ Phân loại bệnh truyền nhiễm (theo đường lây truyền): Gồm 4 loại:
- Các bệnh truyền nhiễm lây theo đường tiêu hoá
- Các bệnh truyền nhiễm lây theo đường hô hấp
- Các bệnh truyền nhiễm lây theo đường máu
- Các bệnh truyền nhiễm lây theo đường da và niêm mạc
2. Đặc điểm chung
Các bệnh truyền nhiễm có những đặc điểm chung sau:
2.1. Bệnh truyền nhiễm phải do một loại vi sinh vật (VSV) ký sinh gây nên
Các loại bệnh khác mặc dù có thể lan truyền từ người này sang người khác
nhưng không do một loại VSV ký sinh gây nên thì vẫn không được coi là bệnh truyền
nhiễm.
VSV gây nên bệnh còn gọi là mầm bệnh (hay còn gọi là nguyên nhân, tác nhân
gây bệnh). VSV gây nên một bệnh truyền nhiễm có thể được xếp làm 4 nhóm sau:
Virus: + Gây nên các bệnh như: Sởi, Quai bị, sốt xuất huyết, AIDS .v.v.
+ Ricketsia: Gây nên các bệnh như: Sốt mò, Sốt phát ban, Sốt hồi quy...
+ Vi khuẩn: Gây nên các bệnh: Tả, Thương hàn, Bạch hầu, Dịch hạch...
+ Ký sinh trùng và nấm gây nên giun sán, Sốt rét, các bệnh nấm ngoài da...
2.2. Bệnh truyền nhiễm thường phát triển theo mùa, mang tính chu kỳ và trải
qua 4 thời kỳ
+ Mùa dịch: Mỗi bệnh truyền nhiễm thường phát triển mạnh vào một mùa nhất
định. Lý do là mỗi một mùa có những điều kiện thuận lợi nhất định cho việc lan truyền
từng loại bệnh truyền nhiễm. Đó là các yếu tố về thời tiết (như nhiệt độ, độ ẩm, tốc độ
gió, thói quen và tập quán sinh hoạt của con người.v.v.)
Ví dụ:
- Bệnh lỵ, thương hàn, ỉa chảy, các bệnh lây theo đường tiêu hoá thường phát


triển mạnh vào mùa hè. Lý do là mùa hè do nhiệt độ cao, thuận lợi cho sự phát triển
của vi sinh vật. Các loại thức ăn dễ bị ôi thiu, hư hỏng do sự phát triển của vi sinh vật
(trong đó có mầm bệnh). Vào mùa hè do nóng nắng, nhu cầu dùng nước uống nhiều,
nhiều người dân nhất là trẻ em thường dùng nước lã để uống. Tập quán ăn quả xanh,
uống nước lã thường được con người lặp lại vào mùa nóng. Mặt khác, ruồi nhặng môi
giới trung gian truyền bệnh cũng thường phát triển mạnh vào mùa hè.v.v. đó là những
điều kiện thuận lợi để các bệnh lây theo đường tiêu hoá phát triển mạnh vào mùa hè.


- Bệnh ho gà, sởi, quai bị và các bệnh lây theo đường hô hấp khác thường phát
triển mạnh vào mùa đông (mùa lạnh). Lý do chính là do mùa đông, nhiệt độ thấp sức
đề kháng của đường mũi họng kém, do vậy con người dễ tiếp nhận các loại mầm bệnh
lây theo đường hô hấp. Hơn nữa, mùa đông lại là mùa trẻ em đi học, mật độ tập trung
cao tạo điều kiện cho việc tiếp xúc vào lây lan bệnh.
- Các bệnh do muỗi truyền như sốt rét, sốt xuất huyết.v.v. thường phát triển vào
mùa mưa. Vì mùa mưa là mùa có nhiều yếu tố thuận lợi cho sự phát triển của muỗi
truyền bệnh.
+ Tính chu kỳ của dịch: Đây là đặc tính mà cứ sau mỗi một thời gian nhất định,
có thể 2, 3, 4, 5 .... hoặc 10 năm bệnh dịch lại bùng nổ một lần. Một số bệnh truyền
nhiễm đặc biệt là các bệnh truyền nhiễm lây theo đường hô hấp thường phát triển có
tính chu kỳ.
Thí dụ: Chu kỳ của dịch sởi là 3 năm; Chu kỳ của quai bị là 5 năm; Chu kỳ của
dịch ho gà là 5 năm, Chu kỳ của dịch SXH là 4-5 năm.v.v.
Việc giải thích tính chu kỳ của các bệnh truyền nhiễm được dựa trên tính cảm
nhiễm và tính miễn dịch của quần thể. Ngày nay do chúng ta chủ động làm công tác
phòng chống dịch, con người đã tác động làm thay đổi mối tương quan giữa mầm bệnh
và cơ thể hoặc tác động làm thay đổi môi trường phát triển của mầm bệnh cũng như
môi giới trung gian truyền bệnh do đó tính chu kỳ của bệnh truyền nhiễm cũng dần
được thay đổi.
+ 4 thời kỳ của bệnh truyền nhiễm: Trong quá trình gây bệnh ở người, bệnh

truyền nhiễm thường trải qua 4 thời kỳ đó là: Thời kỳ ủ bệnh, thời kỳ khởi phát, thời
kỳ toàn phát và thời kỳ lui bệnh. Mỗi thời kỳ có những đặc điểm riêng cũng như có ý
nghĩa về lâm sàng và dịch tễ riêng.
2.3. Bệnh truyền nhiễm có khả năng lây lan và phát triển thành dịch
* Khả năng lây lan: Mầm bệnh có khả năng lan truyền từ vật chủ này sang vật
chủ khác tạo thành dịch.
* Mức độ dịch: Các nhà dịch tễ học chia dịch thành 3 mức độ khác nhau:
- Dịch tản phát (Sporadic incidence): Khi số người mắc bệnh ít và lẻ tẻ ở một số
nơi nhất định. Các bệnh dịch thường mang tính tản phát như: ho gà, quai bị, bại
liệt.v.v.
- Dịch lưu hành (Epidemic): Khi dịch xảy ra ở diện rộng hơn, lâu hơn, nhiều
người mắc hơn. Các bệnh dịch thường mang tính lưu hành như: lỵ, bạch hầu, sởi, sốt
xuất huyết, .v.v.
- Dịch đại lưu hành (Pandemic): Dịch xảy ra lớn, rầm rộ, trên phạm vi nhiều
quốc gia, nhiều châu lục. Các bệnh thường mang tính đại lưu hành như: tả, sốt vàng,
dịch hạch, đậu mùa, AIDS, SARS, cúm A/H5N1...
2.4. Hầu hết các bệnh truyền nhiễm đều để lại miễn dịch sau khi mắc bệnh
Tuỳ theo từng loại bệnh truyền nhiễm mà miễn dịch để lại yếu, ngắn hay bền
vững lâu dài. Thí dụ: bệnh cúm, bệnh sốt xuất huyết miễn dịch thường yếu và tồn tại
trong thời gian ngắn (chỉ một vài tuần). Bệnh tả, thương hàn sau khi khỏi bệnh miễn
dịch tồn tại trong vài ba tháng đến một năm. Bệnh sởi miễn dịch để lại lâu bền, có thể
là suốt đời.


Đặc điểm này là cơ sở cho việc nghiên cứu, sản xuất và sử dụng các loại vacxin
phòng bệnh.
3. Ý nghiã lâm sàng và dịch tễ của 4 thời kỳ trong bệnh truyền nhiễm
3.1. Thời kỳ ủ bệnh
Là thời kỳ tính từ khi mầm bệnh xâm nhập vào cơ thể đến khi xuất hiện các triệu
chứng lâm sàng đầu tiên. Tuỳ theo mỗi loại bệnh và tuỳ theo mỗi cơ thể mắc bệnh mà

thời gian ủ bệnh khác nhau:
- Thời gian ủ bệnh 1 - vài giờ như tả, nhiễm trùng ngộ độc thức ăn
- 1 - vài ngày như cúm, lỵ trực khuẩn.
- 1- vài tuần như sởi, bạch hầu, ho gà, thương hàn...
- Có thể hàng tháng, hàng năm như dại, VGVR, phong, AIDS...
Ý nghĩa lâm sàng: Thời kỳ này còn yên lặng, không biểu hiện các triệu chứng
bệnh lý do vậy khó chẩn đoán. Trên thực tế, không chẩn đoán được bệnh ở giai đoạn
này về mặt lâm sàng. Như vậy, thời kỳ ủ bệnh ít có ý nghĩa về lâm sàng.
Ý nghĩa dịch tễ: Thời kỳ ủ bệnh có một ý nghĩa dịch tễ hết sức quan trọng. Hầu
hết các bệnh lây theo đường hô hấp và một số bệnh lây theo đường tiêu hoá mầm
bệnh bắt đầu được đào thải ra ngoài ở cuối giai đoạn ủ bệnh. Do vậy việc làm các xét
nghiệm đồng loạt trong các vụ dịch hoặc xét nghiệm thường xuyên để phát hiện người
mang mầm bệnh là việc làm cần thiết.
Người ta còn căn cứ vào thời gian ủ bệnh tối đa để quy định việc theo dõi, cách
ly đối với nguồn truyền nhiễm kể từ lần tiếp xúc cuối cùng. Đây cũng là cơ sở cho việc
quy định thời gian cách ly, theo dõi trong kiểm dịch quốc tế.
Thời gian ủ bệnh tối đa của một số bệnh như sau: Tả: 5 ngày; Dịch hạch: 10
ngày; Sốt vàng: 6 ngày; Thương hàn: 21 ngày; Sởi: 14 ngày; Dại: trên 1 năm...
3.2. Thời kỳ khởi phát
Là thời kỳ mà bệnh xuất hiện các triệu chứng lâm sàng đầu tiên. Các triệu chứng
này thường là biểu hiện của tình trạng nhiễm trùng, nhiễm độc toàn thân như: Sốt, mệt
mỏi, chán ăn, môi khô, lưỡi bẩn, mạch nhanh...
Ý nghĩa lâm sàng: Các triệu chứng ở giai đoạn này thường không điển hình,
không đặc hiệu do vậy thường khó chẩn đoán ở giai đoạn này.
Ý nghĩa dịch tễ: Thời kỳ này người bệnh bắt đầu có khả năng làm lây lan bệnh
do mầm bệnh bắt đầu được đào thải ra khỏi cơ thể. Hầu hết các bệnh do virút thường
lây mạnh nhất ở cuối thời kỳ khởi phát và đầu giai đoạn toàn phát.
3.3. Thời kỳ toàn phát
Là thời kỳ mà các triệu chứng lâm sàng biểu hiện rầm rộ và đầy đủ, điển hình
nhất. Ở giai đoạn này còn xuất hiện một số triệu chứng đặc hiệu của bệnh mà những

bệnh khác không có như: Ban của bệnh sởi, dấu hiệu nói ngọng, tay bắt chuồn chuồn ở
bệnh thương hàn, dấu hiệu ho rũ thành cơn ở trẻ nhỏ vào ban đêm trong ho gà,v.v.
Ý nghĩa lâm sàng: Thời kỳ này dễ chẩn đoán
Ý nghĩa dịch tễ: Một số bệnh nhất là những bệnh lây theo đường tiêu hoá có khả
năng lây mạnh nhất ở giai đoạn toàn phát. Nếu bệnh nhân không được cách ly, điều trị


và tẩy uế triệt để thì mầm bệnh sẽ giải phóng ra ngoài ồ ạt và với độc tính cao làm cho
dịch bùng nổ mạnh mẽ.
3.4. Thời kỳ lui bệnh
Là thời kỳ mà các tổn thương giải phẫu bệnh lý mất dần, chức năng của các cơ
quan dần được hồi phục, miễn dịch được hình thành. Cơ thể dần được hồi phục: Ăn
ngon, ngủ tốt, đỡ mệt mỏi...
Ý nghĩa lâm sàng: Ở giai đoạn này cần đề phòng các biến chứng. Các biến
chứng ở giai đoạn này có thể gặp do:
- Mầm bệnh, độc tố của chúng gây nên như: thủng ruột do thương hàn, viêm tinh
hoàn do quai bị, viêm cơ tim trong bạch hầu...
- Bội nhiễm: viêm phổi sau sởi, ho gà, cúm...
Ý nghĩa dịch tễ: trong thời kỳ này, nguy cơ truyền nhiễm giảm dần và cuối cùng
mất đi do bệnh nhân dần dần đào thải và tiêu diệt được hết mầm bệnh. Những bệnh mà
người khỏi không còn là nguồn truyền nhiễm nữa đó là: Sốt xuất huyết, sởi, quai bị,
thuỷ đậu... (chủ yếu là những bệnh do vi rút gây nên).
Tuy vậy cần lưu ý đối với những bệnh mà sau khi khỏi vẫn còn mang mầm bệnh
mãn tính và đào thải mầm bệnh ra ngoại cảnh một cách ngắt quãng. Do vậy đối với
một số bệnh truyền nhiễm, người khỏi bệnh vẫn có khả năng là nguồn truyền nhiễm.
Thời gian mang mầm bệnh khi khỏi khác nhau tuỳ từng bệnh. Có thể rất ngắn (một vài
tuần) như trong bệnh tả, lỵ trực khuẩn. Có thể dài hơn (một vài tháng đến hàng năm
như bệnh lỵ Amibe, thương hàn, bạch hầu...
4. Quá trình dịch
4.1. Khái niệm: Quá trình dịch (QTD) là một sợi dây liên tục các quá trình nhiễm

trùng xen kẽ với việc đào thải mầm bệnh ra ngoại cảnh.
QTD được mô phỏng tóm tắt như sau:
VC1  MB VC2  MB  VC3  MB  .....
Mầm bệnh từ chủ một (VC1) được đào thải ra ngoài thông qua các yếu tố truyền
nhiễm sang VC2 rồi lại từ VC2 ra ngoài để tiếp tục sang các vật chủ khác.v.v.
4.2. Các yếu tố của quá trình dịch
+ Động lực trực tiếp: QTD của bất cứ một bệnh truyền nhiễm nào cũng đều phải
có 3 khâu cơ bản:
. Nguồn truyền nhiễm
. Yếu tố truyền nhiễm.
. Cơ thể cảm nhiễm
Diễn biến của QTD được trình bày tóm tắt theo sơ đồ sau :
Nguồn
truyền nhiễm

Cơ thể
cảm nhiễm

Yếu tố
truyền nhiễm


Trên thực tế nếu thiếu một trong 3 khâu trên thì QTD sẽ không xảy ra. Vì vậy
người ta gọi ba khâu cơ bản trên là động lực trực tiếp của QTD.
+ Động lực gián tiếp: QTD còn chịu sự chi phối của các điều kiện tự nhiên và xã
hội như: Nhiệt độ, độ ẩm, mưa, gió, điều kiện vệ sinh, ăn ở, làm việc, tập quán, trình
độ dân trí... Các yếu tố tự nhiên và xã hội này có thể làm cho dịch bị ngăn chặn ngừng
trệ cũng có thể nó làm cho dịch bùng nổ mạnh. Vì vậy người ta gọi các yếu tố này là
những động lực gián tiếp của QTD.
a. Nguồn truyền nhiễm (NTN): NTN là điểm xuất phát của một QTD. NTN là

một cơ thể sinh vật (bao gồm con người và động vật) trong đó mầm bệnh sống, sinh
sản, phát triển và gây bệnh.
+ Nguồn truyền nhiễm là con người. Có 3 loại đối tượng có thể là nguồn truyền
nhiễm, đó là: Người ốm; người khỏi còn mang mầm bệnh và người lành mang mầm
bệnh. Những bệnh truyền từ người sang người như: Cúm, sởi, tả, lỵ, thương hàn...
+ Nguồn truyền nhiễm là súc vật. Nguồn truyền nhiễm là súc vật gặp trong các
bệnh như: Dại, dịch hạch, leptospirose...
Như vậy dịch ở người và dịch ở súc vật có một mối liên quan là cùng chung một
yếu tố truyền nhiễm. Thí dụ: trong dịch hạch thì bọ chét là yếu tố truyền nhiễm chung.
Trong sốt mò thì ấu trùng mò là yếu tố truyền nhiễm chung...
b. Yếu tố truyền nhiễm: mỗi loại bệnh truyền nhiễm có một yếu tố truyền nhiễm
riêng. Thí dụ:
- Với các bệnh truyền nhiễm lây theo đường tiêu hoá thì yếu tố truyền nhiễm là
nước, thực phẩm, thức ăn, ruồi nhặng...
- Với các bệnh lây theo đường hô hấp thì yếu tố truyền nhiễm là không khí, với
phương thức truyền nhiễm thông qua giọt nước bọt, giọt nhầy, hạnh nhân, bụi...
- Với các bệnh truyền nhiễm lây theo đường máu thì yếu tố truyền nhiễm là các
côn trùng tiết túc, như muỗi, ve, mò chấy, rận... hoặc các dụng cụ tiêm, chích, truyền
máu v.v.
c. Cơ thể cảm nhiễm: Là những cơ thể dễ dàng cảm thụ khi mầm bệnh xâm
nhập. Đó là những cơ thể chưa có miễn dịch đặc hiệu với loại mầm bệnh đó.
Không phải tất cả các cơ thể cảm nhiễm khi nhiễm mầm bệnh đều bị mắc bệnh
mà chỉ có một số bị mắc bệnh mà thôi. Việc mắc bệnh phụ thuộc vào từng loại mầm
bệnh và sức đề kháng của từng cơ thể. Để xác định khả năng mắc bệnh của từng loại
mầm bệnh người ta đưa ra khái niệm: Chỉ số lây bệnh (CSLB).
Chỉ số lây bệnh được tính theo công thức sau:
Số trường hợp mắc bệnh
CSLB =

x 100

Tổng số cơ thể cảm nhiễm mang MB

Chỉ số lây bệnh của một số bệnh cụ thể như sau:
Bệnh bạch hầu: 15 - 20%; Cúm, ho gà: 60 - 70%; Sởi, thủy đậu: 100%; Viêm
màng não: 0,2 - 0,5%; Bại liệt: 0,5 - 1%.


BÀI 3. ĐIỀU TRA XỬ LÝ DỊCH
I. KHÁI NIỆM VỀ VÙNG DỊCH/KHU DỊCH

1. Ổ dịch: Là một nơi có nguồn truyền nhiễm, yếu tố truyền nhiễm và các cơ thể
cảm nhiễm (nghĩa là một nơi có nguồn truyền nhiễm và vùng lân cận có khả năng bị
lây lan).
Thí dụ: Tại địa bàn A nào đó được coi là có dịch thì chính những nhà có người
mắc bệnh truyền nhiễm đó được coi là có dịch.
2. Vùng dịch: Là một vùng (khu) có chứa một hay nhiều ổ dịch.
Phạm vi của một vùng dịch lớn hay nhỏ (có thể chỉ một xã, có thể bao gồm nhiều
xã, nhiều huyện hoặc nhiều tỉnh) tuỳ thuộc vào mỗi một vụ dịch.
II. NGUYÊN TẮC PHÒNG CHỐNG DỊCH

Chúng ta đều biết bất cứ một bệnh truyền nhiễm nào muốn phát triển thành dịch
cũng đều phải có ba khâu cơ bản đó là (Nguồn truyền nhiễm, yếu tố truyền nhiễm và
khối cơ thể cảm nhiễm). Nếu thiếu một trong ba khâu đó thì dịch không thể xảy ra. Do
vậy nguyên tắc xử lý, dập tắt, thanh toán một vụ dịch là: Có thể đồng thời giải quyết cả
ba khâu của QTD hoặc có thể chỉ cần giải quyết một trong ba khâu của QTD là đủ. Cụ
thể là:
- Thanh toán nguồn bệnh
- Cắt đứt đường lây
- Bảo vệ và nâng cao sức chống đỡ của người lành.
Tuỳ theo từng bệnh dịch mà giải quyết khâu nào là quan trọng.

Thí dụ: Khi bệnh dịch sốt xuất huyết do muỗi truyền xảy ra thì ngoài việc chăm
lo phát hiện cách ly và điều trị người bệnh, chúng ta cần quan tâm đặc biệt đến việc
giải quyết yếu tố trung gian truyền bệnh. Đó là việc diệt muỗi và bọ gậy muỗi Aedes
aegypti.
Khi xảy ra dịch tả: Vấn đề quan trọng nhất có tính quyết định trong việc dập tắt
dịch là bảo vệ và nâng cao sức đề kháng của người lành. Đó là việc cho người lành
uống thuốc phòng và tiêm vacxin tả. Bên cạnh đó cần tích cực thu dung cấp cứu những
người bị bệnh, làm tốt công tác VSMT, thanh trừ phân nước rác, tuyên truyền giáo dục
vệ sinh ăn uống.v.v.
Khi có dịch cúm xảy ra thì vấn đề cách ly người ốm tại nhà hoặc tại các cơ sở y
tế là việc làm quan trọng nhất trong việc dập tắt dịch cúm.
III. ĐIỀU TRA DỊCH

Điều tra dịch tễ học của một bệnh truyền nhiễm là việc xác định quá trình phát
sinh phát triển của bệnh đó, kể cả vấn đề sinh thái học của tác nhân gây bệnh, vật chủ,
nguồn dự trữ, và vector truyền bệnh. Đồng thời nghiên cứu cả điều kiện bên ngoài của
môi trường sống và cả những yếu tố cơ học có ảnh hưởng đến quá trình lây truyền
bệnh.


1. Điều tra trường hợp mắc bệnh
1.1. Phát hiện người bệnh
- Việc phát hiện người bệnh là công việc đầu tiên để phát hiện nguồn truyền
nhiễm, vì người ốm là tín hiệu đầu tiên của nguồn truyền nhiễm. để chẩn đoán một
người ốm bị một bệnh truyền nhiễm nào đó cần phải dựa vào ba tiêu chuẩn: Lâm sàng,
xét nghiệm và dịch tễ. Tuỳ theo mỗi loại bệnh mà tiêu chuẩn nào là quyết định cho
việc chẩn đoán.
1.2. Xác định các chỉ số mắc, chết
- Phải điều tra thống kê tất cả những trường hợp mắc bệnh và tử vong. Từ đó xác định
các chỉ số: Tỷ lệ mắc bệnh (hay còn gọi là tỷ lệ tấn công) và tỷ lệ tử vong.


Số bệnh nhân

+ Tỷ lệ mắc bệnh (Morbidity) =

Tổng số dân cư

xk

(k - được xác định là 1000 hoặc bội số thập phân khác)
+ Tỷ lệ tử vong (Mortality): Có hai cách tính

- Tỷ lệ chết so với dân cư =

Số chết
Tổng số dân

- Tỷ lệ chết so với số mắc =

Số chết
Số mắc

x 100 000

x 100

1.3. Mô tả tình hình mắc bệnh
Các trường hợp mắc bệnh phải được mô tả (lập thành các bảng số liệu) theo ba
góc độ sau:
- Thời gian: Khi nào, bao nhiêu lâu...

- Địa điểm: Gồm cả nơi ở và nơi làm việc
- Các đặc trưng về con người: Tuổi, giới, nghề nghiệp.v.v.
2. Điều tra các yếu tố liên quan
+ Dân số: Phân loại theo nhóm tuổi, giới, chủng tộc, nghề nghiệp, tôn giáo.
Những biến động dân số trong thời gian qua (Những biến động sinh học: Mức sinh, tử,
tỷ lệ phát triển dân số tự nhiên. Những biến động cơ học: Xuất cư, nhập cư...).
+ Trình độ phát triển kinh tế xã hội: Mức thu nhập, trạng thái kinh tế, nguồn dự
trữ thức ăn. Các tiện nghi sinh hoạt, trình độ dân trí, tập quán vệ sinh và phong tục xã
hội.v.v.
+ Vệ sinh môi trường: Lọc sạch không khí, xử lý nước thải, xử lý phân rác, vấn
đề sử dụng nước cho sinh hoạt và ăn uống...
+ Các thông tin về phát triển sản xuất: Mở mang các công trường, vấn đề giao
lưu đi lại có liên quan.


+ Các ổ chứa mầm bệnh tự nhiên trong súc vật như chuột trong bệnh dịch hạch,
chó trong bệnh dại, chim lợn trong bệnh viêm não nhật bản. Các vector truyền bệnh
như muỗi, bọ chét, ruồi nhặng...
+ Điều kiện địa lý, khí hậu: Địa hình đồi núi, sông suối, ao hồ. Các yếu tố của
khí hậu như nhiệt độ, độ ẩm, lượng mưa.v.v.
IV. XỬ LÝ KHU DỊCH

1. Khai báo dịch
Khi người thầy thuốc đầu tiên phát hiện ra bệnh truyền nhiễm, bắt buộc phải báo
cáo ngay lập tức (trong 24 giờ) lên cơ quan y tế cấp trên.
Việc báo cáo được thực hiện theo mẫu báo cáo dịch đã quy định của Bộ y tế.
Trước đó cần thiết phải báo cáo qua điện thoại.
Đối với những bệnh dịch nguy hiểm hoặc tối nguy hiểm, ngành y tế phải có trách
nhiệm thông báo rộng rãi cho các địa phương và làm thủ tục để thông báo quốc tế. Các
dịch bắt buộc phải thông báo quốc tế là: tả, dịch hạch, sốt vàng, SASR, cúm A/H 5 N1

v.v...
2. Cách ly và điều trị người bệnh (nguồn truyền nhiễm)
+ Bắt buộc phải cách ly bệnh nhân tại nhà hoặc tại các cơ sở y tế tùy theo từng
bệnh và tuỳ theo từng thể bệnh.
Thí dụ: Bệnh cúm, sởi nếu ở thể thông thường thì cách ly tại nhà, nếu ở những
thể nặng như cúm ác tính, thể não hoặc sốt xuất huyết độ 2 trở lên có đe doạ tính mạng
của người bệnh thì phải đưa đi điều trị và cách ly tại bệnh viện. Với bệnh nhân bị bệnh
bạch hầu, Leptospirose dù là thể nhẹ hoặc chưa có dấu hiệu đe doạ tính mạng người
bệnh vẫn phải đưa đến và cách ly tại bệnh viện.
+ Cần phải điều trị sớm, tích cực và triệt để theo 5 nguyên tắc sau:
- Điều trị nguyên nhân: sử dụng các kháng sinh đặc hiệu để điều trị
- Điều trị triệu chứng và hồi sức
- Điều trị theo cơ chế bệnh sinh
- Điều trị kết hợp với phòng bệnh
- Điều trị bằng công tác y tá, hộ lý
3. Tẩy uế
Tiến hành tẩy uế tất cả các chất thải bỏ, đồ dùng dụng cụ, quần áo chăn màn,
giường chiếu, bệnh phòng của bệnh nhân.
Đây là loại tẩy uế chống dịch do vậy tùy theo từng loại bệnh mà thực hiện hình
thức tẩy uế tức khắc, thường xuyên hoặc lần cuối. Thí dụ đối với bệnh sởi thì chỉ cần
tẩy uế tức khắc và tẩy uế thường xuyên chứ không cần phải tẩy uế lần cuối. Nhưng đối
với bạch hầu thì áp dụng cả ba hình thức tẩy uế tức khắc, tẩy uế thường xuyên và tẩy
uế lần cuối.
Tùy theo mỗi đối tượng cần tẩy uế mà áp dụng trong các phương pháp tẩy uế sau:
- Tẩy uế bằng phương pháp cơ học: đập, giũ, chải...
- Tẩy uế bằng phương pháp vật lý: dùng nhiệt (luộc, đốt, hấp, sấy ...) hoặc dùng
các tia ngoại tím, ánh nắng mặt trời.


- Tẩy uế bằng phương pháp hóa học: clorua vôi, cloramin, lysol, formaldehyt

v.v... ở những nồng độ khác nhau tuỳ theo mỗi đối tượng tẩy uế và mầm bệnh
khác nhau.
4. Thành lập ban phòng chống dịch
Sau khi đã báo cáo với cơ quan y tế cấp trên và chính quyền, cần thiết phải tham
mưu cho chính quyền thành lập ngay Ban chỉ đạo phòng chống dịch (BCĐPCD).
Phòng chống dịch không phải là nhiệm vụ của riêng ngành y tế mà là trách nhiệm của
chính quyền, của các ban ngành đoàn thể và của cả cộng đồng. Do vậy BCĐPCD phải
do người đứng đầu địa phương làm trưởng ban. Các thành viên trong BCĐPCD
thường là những người hoạt động trong các lĩnh vực sau: Tài chính, giao thông, lương
thực thực phẩm, y tế, hội phụ nữ, đoàn thanh niên v.v...
Trong BCĐPCD thì cán bộ y tế là ủy viên thường trực, giúp cho trưởng ban về
công tác chuyên môn, lập kế hoạch, chỉ đạo và giám sát quá trình thực hiện phòng
chống dịch.
5. Khoanh vùng dịch
- Phải nhanh chóng khoanh vùng dịch. Quyết định khoanh vùng dịch phải do ủy
ban nhân dân tỉnh, thành phố ký nếu dịch đó chỉ lưu hành trong nội bộ tỉnh.
- Khi khoanh vùng dịch, phải dựa vào các ranh giới tự nhiên (sông, đường giao
thông, đồi núi ...) để xác định rõ giữa vùng dịch, vùng đệm và vùng an toàn.
Sự giao lưu giữa vùng dịch, vùng đệm và vùng an toàn phải được thực hiện theo
nguyên tắc một chiều. Những người từ vùng an toàn muốn vào vùng dịch để tham gia
công tác phòng chống dịch phải được phép của cấp trên và BCĐPCD, họ phải thực
hiện theo các yêu cầu của BCĐPCD như có bảo hộ, uống thuốc phòng hoặc tiêm
vacxin phòng bệnh.
Những người từ vùng dịch, vì một lý do nào đó phải ra vùg an toàn thì phải được
kiểm tra kỹ tại một trạm "trung chuyển" ở vùng đệm: như khám lâm sàng và xét
nghiệm phát hiện có mang mầm bệnh không, tẩy uế và phải được theo dõi cho đến hết
thời gian ủ bệnh tối đa của bệnh truyền nhiễm đó.
Tất cả hàng hóa, xe cộ, thư từ, bưu kiện ... ra vào giữa các vùng phải được kiểm
tra và xử lý về mặt vệ sinh... Đối với lương thực, thực phẩm, nước ... không được
chuyển từ vùng dịch ra ngoài mà chỉ có thể chuyển từ vùng an toàn vào trong vùng

dịch nhưng phải được kiểm tra kỹ về mặt vệ sinh.
Sơ đồ khu dịch có thể được mô phỏng như sau:

Vùng an toàn

Vùng đệm

Vùng dịch

Vùng đệm
Trạm kiểm tra,

+

xử lý

Vùng an toàn


6. Các biện pháp đối với người lành trong vùng dịch
Người lành trong vùng dịch là những người dân của vùng dịch nhưng chưa mắc
bệnh hoặc người từ nơi khác đến làm công tác phòng chống dịch... Đối tượng này cần
phải thực hiện các biện pháp sau:
- Tiến hành xét nghiệm để phát hiện người lành mang mầm bệnh. Việc xét
nghiệm này có thể được làm hàng loạt, hoặc có thể thực hiện đối với những đối tượng
có nguy cơ nhiễm mầm bệnh cao.
- Tất cả mọi người phải được tiêm chủng và uống thuốc phòng đầy đủ.
- Tăng cường khẩu phần ăn hàng ngày để nâng cao sức chống đỡ của cơ thể và
hướng dẫn các biện pháp dự phòng sự lây nhiễm cho tất cả mọi người.
7. Các biện pháp đối với ngoại cảnh

+ Tẩy uế: tiến hành tổng vệ sinh ngoại cảnh, tùy theo mỗi bệnh dịch mà việc tổng
vệ sinh thực hiện có trọng điểm đối với các yếu tố khác nhau của ngoại cảnh. Các biện
pháp tổng vệ sinh bao gồm: thu gom, chôn lấp phân rác, xác súc vật chết, quét vôi
tường nhà, gốc cây, rắc vôi bột, tro ở những nơi bẩn có thể có mầm bệnh như chuồng
gia súc, hố xí, hố phân. Khơi thông cống rãnh, phát quang bụi rậm v.v...
+ Diệt côn trùng: muỗi, bọ chét, ruồi nhặng ... Tuỳ theo mỗi bệnh dịch mà tập
trung diệt loại côn trùng tiết túc nào. Khi diệt các côn trùng tiết túc cần thiết phải áp
dụng các phương pháp thích hợp.
+ Với các súc vật là nguồn truyền nhiễm: cần phối hợp với cơ quan thú y để xác
định những con là nguồn truyền nhiễm để có biện pháp cách ly và xử lý kịp thời.
Phát hiện, xử lý đối với các yếu tố truyền nhiễm ở ngoại cảnh: như xét nghiệm
các nguồn nước, các nguồn thực phẩm (sữa, thịt) v.v... nếu có mầm bệnh phải có biện
pháp xử lý thích hợp và kịp thời.
8. Công tác truyền thông giáo dục sức khỏe
Đây là công tác đặc biệt quan trọng trong phòng chống dịch, xử lý một khu dịch.
Mục đích của công tác này là làm cho mỗi thành viên trong cộng đồng hiểu rõ về loại
dịch đang hoành hành, biết và tự giác thực hiện các biện pháp phòng chống lây nhiễm
cho bản thân và cộng đồng.
Nội dung tuyên truyền: phải trả lời được các câu hỏi sau:
- Loại dịch gì, lây truyền thế nào?
- Mức độ nguy hiểm của bệnh dịch này?
- Biểu hiện như thế nào? Khi bị mắc bệnh phải làm gì?
- Phòng chống lây nhiễm cho bản thân và cộng đồng như thế nào?
Có thể sử dụng mọi hình thức tuyên truyền sẵn có tùy theo khả năng và điều kiện
của mỗi địa phương như: trên loa truyền thanh, họp, mít tinh, cổ động, khẩu hiệu trên
panô, áp phích v.v...




×