Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Tác động của tham nhũng đến nợ công của các quốc gia đang phát triển châu á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (518.63 KB, 80 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

PHẠM THỊ LAN PHƯƠNG

TÁC ĐỘNG CỦA THAM NHŨNG ĐẾN NỢ
CÔNG CỦA CÁC QUỐC GIA ĐANG PHÁT
TRIỂN Ở CHÂU Á

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Tp. Hồ Chí Minh - Năm 2018


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

PHẠM THỊ LAN PHƯƠNG

TÁC ĐỘNG CỦA THAM NHŨNG ĐẾN NỢ
CÔNG CỦA CÁC QUỐC GIA ĐANG PHÁT
TRIỂN Ở CHÂU Á
Chuyên ngành: TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG
Mã số: 8340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS NGUYỄN HỒNG THẮNG

Tp. Hồ Chí Minh - Năm 2018




 

MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG BIỂU
CHƯƠNG 1.GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI ............................................................................. 1
1.1.

Lý do lựa chọn đề tài .......................................................................................... 1

1.2.

Mục tiêu nghiên cứu ........................................................................................... 2

1.3.

Câu hỏi nghiên cứu ............................................................................................. 2

1.4.

Dữ liệu nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu ..................................................... 3

1.5.

Mô hình hồi quy ................................................................................................. 3


1.6.

Nội dung đề tài ................................................................................................... 5

CHƯƠNG 2.CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM ............ 7
2.1.

Cơ sở lý thuyết.................................................................................................... 7

2.1.1.

Nợ công ........................................................................................................ 7

2.1.2.

Tham nhũng ................................................................................................. 7

2.1.3.

Lý thuyết nợ công ........................................................................................ 9

2.2.

Mối quan hệ tham nhũng và nợ công ............................................................... 12

2.3.

Bằng chứng thực nghiệm .................................................................................. 14

CHƯƠNG 3.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ........................................................ 27

3.1.

Lựa chọn biến độc lập ...................................................................................... 27


 

3.1.1.

Tham nhũng ............................................................................................... 27

3.1.2.

Tăng trưởng kinh tế ................................................................................... 27

3.1.3.

Lạm phát .................................................................................................... 28

3.1.4.

Tăng trưởng dân số .................................................................................... 29

3.1.5.

Thất nghiệp ................................................................................................ 30

3.1.6.

Chi tiêu chính phủ ...................................................................................... 31


3.2.

Mô hình nghiên cứu .......................................................................................... 32

3.3.

Phương pháp nghiên cứu .................................................................................. 34

3.4.

Dữ liệu nghiên cứu ........................................................................................... 35

CHƯƠNG 4.KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .................................................................... 37
4.1.

Sơ bộ dữ liệu và ma trận tương quan................................................................ 37

4.2.

Kết quả kiểm định tính dừng ............................................................................ 44

4.3.

Kết quả kiểm định hiện tượng tự tương quan và phương sai thay đổi ............. 45

4.4.

Kết quả ảnh hưởng của tham nhũng đến nợ công của các quốc gia................. 47


CHƯƠNG 5.KẾT LUẬN ............................................................................................. 55
5.1.

Kết luận............................................................................................................. 55

5.2.

Hàm ý chính sách ............................................................................................. 56

5.3.

Hạn chế đề tài và hướng nghiên cứu sau này ................................................... 58

TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC 01. KẾT QUẢ ĐỊNH LƯỢNG
PHỤ LỤC 02. DANH SÁCH QUỐC GIA
 


 

DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Tổng hợp các nghiên cứu trước đây .............................................................. 22
Bảng 3.1. Mô tả cách đo lường các biến ........................................................................ 33
Bảng 4.1. Mô tả sơ bộ dữ liệu nghiên cứu ..................................................................... 39
Bảng 4.2. Nợ công và tham nhũng bình quân theo quốc gia ......................................... 41
Bảng 4.3. Ma trận tương quan........................................................................................ 43
Bảng 4.4. Kết quả kiểm định nghiệm đơn vị ................................................................. 45
Bảng 4.5. Kết quả kiểm định Wooldridge ..................................................................... 46
Bảng 4.6. Kết quả kiểm định Modified Wald ................................................................ 47

Bảng 4.7. Kết quả hồi quy ảnh hưởng của tham nhũng đến tỷ lệ nợ công của các quốc
gia ................................................................................................................................... 47


1
 
 

CHƯƠNG 1. GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
1.1.

Lý do lựa chọn đề tài

Nợ công được xem như là công cụ quan trọng trong việc điều hành chính sách
tài khóa của quốc gia do nợ công được sử dụng như là một nguồn vốn bù đắp sự chênh
lệch giữa chi ngân sách và thu ngân sách. Cho nên chủ đề về nợ công nhận được nhiều
sự quan tâm bởi các nhà nghiên cứu và các nhà hoạch định chính sách triên toàn cầu
trong thời gian vừa qua. Tuy rằng có ưu điểm trong việc bù đắp thâm hụt ngân sách,
nhưng việc sử dụng nợ công được xem như là con dao hai lưỡi. Chẳng hạn như, một
mặt, việc sử dụng nợ công hiệu quả có thể làm tăng trưởng kinh tế cho quốc gia và
giúp Chính phủ đạt được các mục tiêu kinh tế xã hội. Về mặt lý thuyết, bằng cách sử
dụng nợ để tài trợ cho các dự án đầu tư có thể cải thiện năng lực sản xuất của quốc gia
và tạo điều kiện tăng trưởng kinh tế (Cohen, 1993). Tuy nhiên, khi quốc gia phụ thuộc
đáng kể vào nợ công và quản lý nợ công không hiệu quả thì có thể làm gia tăng rủi ro
kinh tế vĩ mô và cản trở sự phát triển kinh tế của quốc gia. Thậm chí trong trường hợp
các khoản nợ công mà quốc gia đang vay mượn đang được hưởng ưu đãi nhiều hơn, thì
một mức nợ công cao đòi hỏi chi phí trả lãi càng cao, điều này cho thấy quốc gia sẽ
không có cơ sở thu thuế rộng. Kết quả là, Chính phủ không còn việc nào khác phải cắt
giảm việc phân bổ chi tiêu chính phủ để hạn chế sự gia tăng trong nợ công, mà những
khoản mục trong chi tiêu chính phủ này lại có ảnh hưởng tích cực đến tăng trưởng kinh

tế (Audu, 2004).
Từ đây có thể thấy rằng sự hiệu quả trong cơ chế quản lý nợ công có thể đóng
vai trò quan trọng đối với tác động của nợ công đến tăng trưởng kinh tế. Cụ thể, chất
lượng thể chế tốt (đặc biệt là mức độ tham nhũng thấp) có thể giúp các nước quản lý
nợ công tốt hơn bằng cách giảm thiểu chi phí đi vay, rủi ro tài chính thấp và phát triển


2
 
 

thị trường nợ trong nước (Tarek và Ahmed, 2017). Ngược lại, tham nhũng càng cao sẽ
càng làm cho quốc gia vay nợ nhiều hơn và chi tiêu chính phủ nhiều hơn. Sự gia tăng
trong mức độ vay nợ xuất phát từ việc thu ngân sách, bởi lẽ nguồn thu ngân sách của
quốc gia để tài trợ cho các khoản chi tiêu chính phủ giảm mạnh (Audu, 2004), do đó sẽ
thúc đẩy động cơ Chính phủ thực hiện vay nợ nhiều hơn để có đủ nguồn vốn tài trợ.
Kết quả là mức độ nợ công của quốc gia ngày càng gia tăng. Theo đó, việc nghiên cứu
tác động của chất lượng thể chế, đặc biệt là tham nhũng, đến nợ công là điều hết sức
quan trọng trong bối cảnh ngày nay.
Mặc dù tham nhũng đóng vai trò quan trọng trong việc ảnh hưởng đến nợ công
của các quốc gia, nhưng tại Việt Nam số lượng nghiên cứu phân tích mối quan hệ giữa
hai biến số này thì vẫn không nhiều. Do đó, học viên cho rằng cần thiết phải tiến hành
nghiên cứu ảnh hưởng của tham nhũng đến nợ công của các quốc gia. Đó chính là lý
do học viên lựa chọn đề tài “Tác động của tham nhũng đến nợ công của các quốc gia
đang phát triển Châu Á” làm đề tài luận văn thạc sỹ.
1.2.

Mục tiêu nghiên cứu

Luận văn có hai mục tiêu như sau:

Mục tiêu đầu tiên: luận văn xem xét tác động của tham nhũng đến nợ công của
các quốc gia đang phát triển ở Châu Á.
Mục tiêu thứ hai: từ các kết quả đạt được, luận văn đưa ra các hàm ý chính sách
dành cho các nhà hoạch định chính sách của quốc gia trong công tác kiểm soát nợ công
của quốc gia.
1.3.

Câu hỏi nghiên cứu

Để giải quyết mục tiêu nghiên cứu, luận văn đưa ra câu hỏi nghiên cứu như sau:


3
 
 

Tham nhũng có tác động đến nợ công của các quốc gia đang phát triển ở Châu
Á hay không?
1.4.

Dữ liệu nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu

 Phạm vi nghiên cứu
Luận văn sử dụng dữ liệu của các quốc gia ở Châu Á trong giai đoạn 1996 –
2016. Cụ thể, luận văn nghiên cứu mẫu nghiên cứu bao gồm 33 quốc gia đang phát
triển ở Châu Á từ năm 1996 đến 2016 với 660 quan sát.
 Đối tượng nghiên cứu
Các đối tượng nghiên cứu trực tiếp trong luận văn là nợ công, tham nhũng, lạm
phát, tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp, chi tiêu chính phủ, tăng trưởng dân số của
các quốc gia.

1.5.

Mô hình hồi quy

Để giải quyết mục tiêu nghiên cứu, luận văn dựa trên phương pháp tiếp cận
được thực hiện trước đó bởi Cooray và các cộng sự (2017), Tarek và Ahmed (2017) và
Benfratello và các cộng sự (2018) khi xem xét mối quan hệ giữa tham nhũng và nợ
công của các quốc gia. Cụ thể phương trình nghiên cứu được trình bày như sau:
𝐷𝐸𝐵𝑇
𝛽

𝛽 ∗ 𝐷𝐸𝐵𝑇

𝑈𝑁𝐸𝑀𝑃

𝛽 ∗ 𝐶𝑂𝑅𝑅

𝛽 ∗ 𝐼𝑁𝐹𝐿

𝛽 ∗ 𝐺𝑂𝑉𝐸𝑋𝑃

𝛽 ∗ 𝑃𝑂𝑃𝐺𝑅

𝛽 ∗ 𝐺𝐷𝑃𝑃𝐶𝐺𝑅

𝜀

Trong đó
𝐷𝐸𝐵𝑇 là nợ công của quốc gia được tính bởi tỷ lệ nợ công trên GDP


𝛽 ∗
(1)


4
 
 

𝐷𝐸𝐵𝑇

là giá trị trễ của biến phụ thuộc, hàm ý nợ công ở năm trước

𝐶𝑂𝑅𝑅 là tham nhũng của quốc gia được đo lường bởi 02 biến tham nhũng
được thu thập từ WGI của Ngân hàng Thế giới (WorldBank), tham nhũng được thu
thập từ ICRG. Đồng thời, luận văn thực hiện tương tự như các nghiên cứu trước đây đã
làm và đưa từng đại diện cho tham nhũng vào mô hình nghiên cứu để phân tích tác
động của tham nhũng đến nợ công của các quốc gia ở Châu Á. Trong đó giá trị của hai
chỉ tiêu của WGI và ICRG cao thì ngụ ý các quốc gia đang có mức tham nhũng thấp,
và ngược lại các quốc gia có mức tham nhũng cao khi giá trị của hai chỉ tiêu của WGI
và ICRG thấp. Cụ thể, chỉ số tham nhũng của ICRG (CORR1) có mức độ dao động
trong khoảng từ 0 đến 6, trong đó giá trị của CORR1 càng tăng đến giá trị 6 thì cho
thấy tham nhũng của quốc gia thấp và ngược lại (Kotlanova và Kotlan, 2012). Tương
tự vậy, giá trị kiểm soát tham nhũng của WGI (CORR2) càng tiến về giá trị -2.5 càng
cho thấy quốc gia đang có mức độ tham nhũng càng cao, ngược lại khi giá trị của
CORR2 tiến về mức 2.5 thì cho thấy tham nhũng càng ít. Nhưng để cho người đọc dễ
hiểu, không mắc cái sai lầm hay ảo tưởng sai về tham nhũng khi sử dụng hai đại diện
này, luận văn nhân các chỉ số này với giá trị -1, để hàm ý rằng khi các chỉ số này tăng
thì cho thấy tham nhũng đang cao và ngược lại.
𝐺𝑂𝑉𝐸𝑋𝑃 là chi tiêu chính phủ được tính bởi tỷ lệ chi tiêu chính phủ trên GDP
𝐺𝐷𝑃𝑃𝐶𝐺𝑅 là Mức độ biến động trong thu nhập trên đầu người của quốc gia

𝑈𝑁𝐸𝑀𝑃 là tỷ lệ thất nghiệp của quốc gia
𝐼𝑁𝐹𝐿 là tỷ lệ lạm phát của quốc gia được đo lường bởi sự gia tăng trong chỉ số
tiêu dùng của quốc gia.
𝑃𝑂𝑃𝐺𝑅 là Mức độ biến động trong tổng dân số của quốc gia
𝜀 là sai số mô hình


5
 
 

1.6.

Nội dung đề tài

Luận văn bao gồm 05 chương như sau:
Chương 1. Giới thiệu đề tài
Chương này luận văn sẽ đưa ra các lý lo mà học viên lựa chọn nghiên cứu đề tài
này, cũng như xác định mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu. Đồng thời luận văn trình bày
dữ liệu và đối tượng nghiên cứu, và thể hiện mô hình nghiên cứu mà luận văn dự kiến
nghiên cứu.
Chương 2. Cơ sở lý thuyết và bằng chứng thực nghiệm
Chương này luận văn sẽ đưa ra các cơ sở lý thuyết liên quan đến nợ công, tham
nhũng, cũng như xác định mối quan hệ giữa tham nhũng và nợ công của các quốc gia.
Đồng thời luận văn trình bày các bằng chứng thực nghiệm trước đây có làm về nợ công
và ảnh hưởng của tham nhũng đến nợ công.
Chương 3. Phương pháp nghiên cứu
Chương này luận văn sẽ trình bày việc lựa chọn các biến độc lập trong mô hình
giải thích nợ công của quốc gia bằng cách phân tích các tác động của các yếu tố này
đến nợ công. Đồng thời luận văn trình bày phương pháp nghiên cứu và dữ liệu nghiên

cứu mà luận văn áp dụng.
Chương 4. Kết quả nghiên cứu
Chương này luận văn sẽ thể hiện thống kê mô tả và ma trận tương quan của các
biến có trong mô hình giải thích nợ công của quốc gia bằng cách phân tích các tác
động của các yếu tố này đến nợ công. Đồng thời luận văn trình bày kết quả kiểm tra tự
tương quan và phương sai thay đổi từ đó lựa chọn phương pháp hồi quy phù hợp và
tiến hành thảo luận kết quả đạt được.


6
 
 

Chương 5. Kết luận
Chương này luận văn sẽ tổng hợp lại các kết quả đạt được khi giải thích nợ công
của quốc gia. Đồng thời luận văn trình bày một số hàm ý chính sác từ các kết quả đạt
được, cũng như nêu lên hạn chế và hướng mở rộng cho các đề tài sau này.


7
 
 

CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ BẰNG CHỨNG THỰC
NGHIỆM
2.1.

Cơ sở lý thuyết

2.1.1. Nợ công

Theo định nghĩa của Ngân hàng Thế giới (2002), nợ công được xem như là tổng
nợ của chính phủ và các khoản nợ được chính phủ bảo lãnh. Đồng thời, Quỹ Tiền Tệ
Quốc tế (2010) đã định nghĩa nợ công được hiểu như là nghĩa vụ trả nợ của khu vực
công của một quốc gia. Quỹ Tiền tệ Quốc tế (2010) cũng đưa ra định nghĩa cụ thể cho
khu vực công là bao gồm khu vực chính phủ và khu vực doanh nghiệp nhà nước.
Trong đó, khu vực chính phủ bao gồm các đơn vị trực thuộc chính phủ hoặc các đơn vị
do chính phủ giám sát và kiểm soát với mục đích cung cấp các hàng hóa và dịch vụ
công cho quốc gia. Cụ thể khu vực này bao gồm chính phủ trung ương (Central
Government), chính quyền địa phương (Local Government) hoặc chính quyền tiểu
bang (State Government). Khu vực doanh nghiệp nhà nước thì bao gồm các doanh
nghiệp hoạt động trong lĩnh vực phi tài chính và, ngân hàng trung ương, và các doanh
nghiệp/tổ chức hoạt động trong lĩnh vực tài chính.
2.1.2. Tham nhũng
Tham nhũng là một thuật ngữ được gọi là hành động cụ thể của một con người.
Theo Otahal (2010), một đối tượng đang thực hiện tham nhũng bởi vì tham nhũng có
thể mang đến cho anh ta/chị ta một số lợi ích, tiện ích nhất định.
Theo Tổ chức Minh Bạch Quốc tế (Transparency International), tham nhũng
được xem như là việc lạm dụng quyền lực được giao để thực hiện các hành vi mang lợi


8
 
 

cho cá nhân. Bên cạnh đó, Ngân hàng thế giới thì lại định nghĩa tham nhũng như là
việc lạm dụng quyền lực tại nơi công tác để đạt được lợi ích cá nhân.
Bên cạnh đó, tại Việt Nam, tham nhũng có thể được định nghĩa như là hành vi
của một cá nhân/tổ chức có chức vụ và quyền lực hoặc được giao nhiệm vụ và quyền
hạn nhưng lại lợi dụng chức vụ hoặc quyền lực được giao để đạt được lợi ích cá nhân
(Tài liệu bồi dưỡng về phòng chống tham nhũng, dành cho Giảng viên các Trường Đại

học, Cao đẳng, Trung Cấp).
Hiện nay, có tương đối ít tổ chức thực hiện và đo lường tham nhũng của các
quốc gia trên thế giới. Trong số các tổ chức này phải kể đến Ngân hàng Thế giới với bộ
số liệu Chỉ tiêu Quản trị Thế giới, Tập Đoàn PRS với bộ Hướng dẫn Quốc tế về Rủi ro
Quốc gia và Tổ chức Minh Bạch Quốc tế với bộ chỉ số nhận thức tham nhũng
(Corruption Perception Index).
Đầu tiên, kể từ năm 1995, Tổ chức Minh bạch Quốc tế đã công bố chỉ số nhận
thức tham nhũng CPI. Mỗi năm, chỉ số của Tổ chức Minh bạch Quốc tế sẽ cho thấy
mức độ tham nhũng trong khu vực công của quốc gia đang là bao nhiêu và xếp hạng
thứ bao nhiêu trong tổng số các quốc gia được công bố chỉ số nhận thức tham nhũng.
Ví dụ như trong năm 2013, chỉ số nhận thức tham nhũng đã đo lường mức độ tham
nhũng của khu vực công ở 177 quốc gia. Trong đó, giá trị của chỉ số nhận thức tham
nhũng biến động từ 0 đến 100, với số điểm của chỉ số này bằng 0 thì đại diện cho mức
độ tham nhũng rất cao.
Ngân hàng Thế giới công bố bộ Chỉ tiêu Quản trị Thế giới WGI. Theo đó, Ngân
hàng Thế giới đã tóm tắt tình hình chất lượng thể chế của 212 quốc gia trên thế giới
dựa vào 06 khía cạnh quản trị. Các khía cạnh này bao gồm tiếng nói và trách nhiệm
giải trình, sự ổn định của chính trị, hiệu quả của chính phủ, chất lượng của các quy


9
 
 

định, nhà nước pháp quyền và kiểm soát tham nhũng. Trong đó các khía cạnh này biến
động từ -2.5 đến 2.5, cụ thể, với giá trị kiểm soát tham nhũng càng tiến về giá trị -2.5
càng cho thấy quốc gia đang có mức độ tham nhũng càng cao, ngược lại khi giá trị tiến
về mức 2.5 thì cho thấy tham nhũng càng ít.
Cuối cùng, được thành lập vào năm 1979, Tập đoàn PRS là một trong những
nhà cung cấp các dự báo rủi ro chính trị và rủi ro quốc gia. Trong đó, tập đoàn PRS đã

công bố Bộ hướng dẫn Quốc tế về Rủi ro Quốc gia bao gồm 22 biến số khác nhau
thuộc 03 danh mục rủi ro: rủi ro chính trị, rủi ro tài chính và rủi ro kinh tế. Theo đó, rủi
ro chính trị biến động từ 0 đến 100 điểm, rủi ro tài chính biến động từ 0 đến 50 điểm và
rủi ro kinh tế biến động từ 0 đến 50 điểm; với sự gia tăng điểm trong các thành phần
này thì phản ánh được rằng quốc gia đang có rủi ro thấp và ngược lại sự suy giảm trong
các thành phần sẽ cho thấy mức rủi ro của quốc gia đang gia tăng. Bên cạnh đó, chỉ số
tham nhũng của ICRG thì dao động trong khoảng từ 0 đến 6 với mức gia tăng thì càng
ít tham nhũng (Kotlanova và Kotlan, 2012)
2.1.3. Lý thuyết nợ công
Lý thuyết lựa chọn công là một nhánh kinh tế phát triển từ nghiên cứu về thuế
và chi tiêu công. Lựa chọn công có cùng nguyên tắc mà các nhà kinh tế sử dụng để
phân tích hành động của mọi người trên thị trường và áp dụng chúng trong việc ra
quyết định nhóm (Buchanan, 1967). Các nhà kinh tế học hành vi trong thị trường tư
nhân cho rằng con người được thúc đẩy chủ yếu bằng sự tư lợi. Mặc dù mọi người đa
số hành động dựa trên mối quan tâm của họ đối với người khác, động lực chủ yếu
trong hành động của mọi người trên thị trường cho dù họ là chủ lao động, người lao
động hay người tiêu dùng là mối quan tâm cho bản thân họ (Buchanan và Tullock,
1962). Các nhà kinh tế nghiên cứu thuyết lựa chọn công đưa ra giả định tương tự rằng
mặc dù những người hoạt động trong thị trường chính trị có những mối quan tâm dành


10
 
 

cho người khác, thì động cơ chính của họ, cho dù họ là cử tri, chính trị gia, những
người vận động hành lang hay công chức là tư lợi.
Các nhà kinh tế nghiên cứu lý thuyết lựa chọn công chỉ ra rằng tồn tại một vấn
đề là "sự thất bại của chính phủ". Đó là, có những lý do tại sao sự can thiệp của chính
phủ không đạt được hiệu quả mong muốn. Một trong những nền tảng chính của lý

thuyết lựa chọn công là thiếu các ưu đãi cho cử tri để theo dõi chính phủ một cách hiệu
quả (Buchanan, 1967). Anthony Downs, trong một trong những cuốn sách nói về lựa
chọn công sớm nhất, “Lý thuyết kinh tế dân chủ”, chỉ ra rằng cử tri phần lớn là không
biết gì về các vấn đề chính trị và rằng sự thiếu hiểu biết này là hợp lý. Mặc dù kết quả
của cuộc bầu cử có thể rất quan trọng, nhưng phiếu bầu của một cá nhân hiếm khi
quyết định một cuộc bầu cử (Buchanan và Tullock, 1962). Các nhà kinh tế nghiên cứu
thuyết lựa chọn công chỉ ra rằng sự không biết về khuyến khích này là hiếm trong khu
vực tư nhân.
Các nhà kinh tế nghiên cứu lý thuyết lựa chọn công cũng kiểm tra hành động
của các nhà lập pháp. Mặc dù các nhà lập pháp dự kiến sẽ theo đuổi "lợi ích công
cộng", họ đưa ra quyết định về cách sử dụng các nguồn lực của người khác, chứ không
phải của chính họ (Gordon, 2008). Hơn nữa, những tài nguyên này phải được cung cấp
bởi người nộp thuế và những người sẽ bị tổn thương bởi các quy định cho dù họ có
muốn cung cấp cho họ hay không. Các chính trị gia có thể có ý định chi tiền một cách
khôn ngoan. Tuy nhiên, các quyết định hiệu quả sẽ không tiết kiệm tiền riêng của họ và
cũng không cung cấp cho họ bất kỳ phần nào của cải mà họ tiết kiệm được cho công
dân. Không có phần thưởng trực tiếp để chống lại các nhóm lợi ích mạnh mẽ để trao
lợi ích cho công chúng, những người mà thậm chí không nhận thức được lợi ích hoặc
lợi ích từ những người đã trao cho họ (Buchanan, 1967).


11
 
 

Ngoài lý thuyết lựa chọn công, lý thuyết động về chi tiêu công, thuế và nợ công
cũng có thể giải thích sự thay đổi trong nợ công của quốc gia. Cụ thể lý thuyết này xây
dựng trên phương pháp làm đẹp thuế nổi tiếng với chính sách tài khóa được tiên phong
bởi Barro (1979). Cách tiếp cận này dự đoán rằng các chính phủ sẽ sử dụng thặng dư
ngân sách và thâm hụt ngân sách như một bộ đệm để ngăn chặn thuế suất thay đổi quá

mạnh (Battaglini và Coate, 2008). Do đó, các chính phủ sẽ thiếu thâm hụt trong các
thời điểm nhu cầu và thặng dư chi tiêu của chính phủ tăng cao khi nhu cầu thấp. Theo
cách tiếp cận này là giả định rằng các chính phủ là rộng lượng, rằng chi tiêu của chính
phủ cần dao động theo thời gian, và các chi phí gánh nặng của thuế thu nhập là một
hàm lồi của thuế suất (Battaglini và Coate, 2008). Môi trường kinh tế dựa trên lý thuyết
này cũng tương tự như trong lý thuyết làm đẹp thuế. Tuy nhiên, xuất phát điểm chính
là các quyết định này được thực hiện bởi một cơ quan lập pháp chứ không phải là một
nhà hoạch định rộng lượng. Hơn nữa, lý thuyết này giới thiệu sự xung đột mà các nhà
lập pháp có thể phân phối doanh thu trở lại các quận huyện của họ thông qua chi tiêu rổ
thịt (Bohn, 1998).
Lý thuyết xem xét một thẩm quyền chính trị trong đó các lựa chọn chính sách
được thực hiện bởi một cơ quan lập pháp bao gồm các đại diện được bầu bởi các thành
viên đơn lẻ, các khu vực địa lý được xác định. Cơ quan lập pháp có thể tăng doanh thu
theo hai cách: thông qua thuế thu nhập theo tỷ lệ trên thu nhập lao động và bằng cách
vay trên thị trường vốn. Vay có hình thức phát hành một trái phiếu kỳ hạn. Cơ quan lập
pháp cũng có thể mua trái phiếu và sử dụng thu nhập lãi suất để giúp tài trợ cho chi
tiêu công trong tương lai. Thu nhập công được sử dụng để tài trợ cho việc cung cấp
một lợi ích công cộng mang lại lợi ích cho tất cả các công dân và để cung cấp các dịch
chuyển cụ thể theo từng khu vực, được hiểu là chi tiêu rổ thịt. Giá trị của lợi ích công
cộng đối với công dân là ngẫu nhiên, phản ánh những cú sốc như chiến tranh hoặc
thiên tai. Cơ quan lập pháp đưa ra quyết định chính sách theo quy tắc đa số và hoạch


12
 
 

định chính sách lập pháp trong từng giai đoạn được mô hình hóa bằng cách sử dụng
phương pháp thương lượng lập pháp của Baron và Ferejohn (1989). Mức nợ công đóng
vai trò là một biến trạng thái, tạo ra một liên kết động trong các giai đoạn hoạch định

chính sách.
2.2.

Ảnh hưởng của tham nhũng đến nợ công

Theo Tổ chức Minh bạch Quốc tế, tham nhũng hay tham ô là hành vi của người
lạm dụng chức vụ, quyền hạn, hoặc cố ý làm trái pháp luật để phục vụ cho lợi ích cá
nhân. Acemoglu và Verdier (2000) khẳng định tham nhũng là sản phẩm phụ của quá
trình can thiệp của chính phủ. Lý thuyết kinh tế học công cộng đã chỉ ra rằng các quyết
định của cán bộ công quyền thường bị chi phối bởi hành vi tìm kiếm đặc lợi mà một
trong những biểu hiện của nó là tham nhũng, hối lộ. Những khoản tiền tham nhũng, hối
lộ luôn có sức hấp dẫn lớn đối với các chủ thể tìm kiếm đặc lợi. Chỉ với một mức tỷ lệ
phần trăm “hoa hồng” nhỏ trong một dự án công có chi phí lên tới hàng triệu, thậm chí
hàng trăm triệu đôla cũng sẽ trở thành một khoản tiền đủ để cám dỗ tham nhũng. Khi
cán bộ công quyền bị chi phối bởi hành vi tìm kiếm đặc lợi, họ có động cơ để tham gia
kiểm soát và gây ảnh hưởng tới các quyết định liên quan tới quy mô tổng chi đầu tư,
lựa chọn các dự án đầu tư, thiết kế dự án và quá trình triển khai dự án. Hệ quả là việc
kiểm soát chi tiêu đầu tư gặp khó khăn, dự án được đầu tư khi chưa thực sự cần thiết
đầu tư, dự án được đầu tư với quy mô và công suất không phù hợp với nhu cầu, dự án
được đầu tư với yêu cầu kỹ thuật và mỹ thuật không phù hợp so với nhu cầu, dự án
được đầu tư ở thời điểm và địa điểm không hợp lý, thiết bị công trình của dự án có
chất lượng thấp làm giảm tuổi thọ của dự án…
Nhà kinh tế học thể chế đoạt giải Nobel, Douglass C. North đã khẳng định: “Sự
phát triển giàu có của một quốc gia không phải chủ yếu do nó giàu có tài nguyên như
dầu mỏ, cũng không phải do sự cần cù của số đông người lao động mà chủ yếu là do


13
 
 


các yếu tố kích thích gắn kết bên trong về các thể chế quản lý và tổ chức cho phép
thúc đẩy đầu tư và phát triển. Một sự phát triển lâu bền không thể dựa vào một thể
chế bị lũng đoạn bởi tham nhũng. Và một nền kinh tế lạc hậu không phải không thể
bao giờ đuổi kịp được các nước tiên tiến. Vấn đề là phải tạo lập một hệ thống thể chế
tích cực nhằm đảm bảo quyền sở hữu của các cá nhân và thúc đẩy sự tiến bộ của xã
hội. Việc cải cách thể chế là cần thiết để đảm bảo sự phát triển. Thể chế tốt tạo ra một
môi trường kinh tế có khả năng khuyến khích sự sáng tạo, thúc đẩy sản xuất và đem
lại tăng trưởng bền vững” (North, 1990). Trong khi đó, những kẻ tham nhũng vì lợi
ích cá nhân (vụ lợi) có xu hướng bảo vệ lợi ích của mình bằng cách duy trì các thể chế
lạc hậu, yếu kém cản trở quá trình cải cách thể chế. Không chỉ vậy, tham nhũng còn
ảnh hưởng tới phân bổ tài năng con người. Do cơ chế tham nhũng, nhiều chức vụ
quan trọng có thể rơi vào tay những người không có tài năng, hình thành nên hệ
thống quan chức bất tài, những người tài giỏi rút ro khỏi hệ thống, hậu quả là các
chính sách (bao hàm chính sách đầu tư công) được xây dựng và triển khai bởi những
người thiếu năng lực, dẫn đến chất lượng và hiệu quả của chính sách giảm sút. Xét
cho cùng, thể chế yếu kém sinh ra tham nhũng và khi tham nhũng phát triển mạnh sẽ tác
động trở lại ngăn cản những động lực cải cách thể chế. Hệ quả là tham nhũng sẽ triệt tiêu
những tác động tích cực mà thể chế đem lại đối với thị trường như: hỗ trợ thông tin, tăng
cường tính cạnh tranh, giảm chi phí giao dịch, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, bảo
vệ quyền về tài sản… Tất cả những yếu tố thể chế này đều liên quan mật thiết và ảnh
hưởng tới đầu tư công là một phần trong chi tiêu công.
Đối với mối quan hệ giữa tham nhũng và nợ công thì hầu như các lý thuyết
trước đây vẫn chưa trực tiếp đề cập đến mối quan hệ này (Tarek và Ahmed, 2017). Tuy
nhiên, tham nhũng được cho rằng có ảnh hưởng đến nợ công bằng cách tác động đến
cơ chế quản lý nợ công của quốc gia (Roubini và Sachs, 1989; De Haan và Sturn,
2000; Woo, 2006). Cụ thể, Alesina và Tabellini (1990) và Person và Svensson (1989)
đã phát triển lý thuyết nợ tích cực, khi cho rằng mức độ nợ công cao chỉ tồn tại khi các



14
 
 

nhà điều hành chính sách, các nhà chính trị gia của quốc gia không có sự nhất quán
trong việc quản lý nợ công. Nói cách khác, một quốc gia có chất lượng thể chế tốt (đặc
biệt là mức độ tham nhũng thấp) có thể giúp các nước quản lý nợ công tốt hơn bằng
cách giảm thiểu chi phí đi vay, rủi ro tài chính thấp và phát triển thị trường nợ trong
nước (Tarek và Ahmed, 2017). Ngược lại, tham nhũng càng cao sẽ càng làm cho quốc
gia vay nợ nhiều hơn và chi tiêu chính phủ nhiều hơn (Wei và Zeckhauser, 1999; Tanzi
và Davoodi, 2002; Cooray và các cộng sự, 2017). Trong khi đó sự gia tăng trong mức
độ vay nợ xuất phát từ việc thu ngân sách, bởi lẽ nguồn thu ngân sách của quốc gia để
tài trợ cho các khoản chi tiêu chính phủ giảm mạnh (Audu, 2004; Kaufam, 2010), do
đó sẽ thúc đẩy động cơ Chính phủ thực hiện vay nợ nhiều hơn để có đủ nguồn vốn tài
trợ. Kết quả là mức độ nợ công của quốc gia ngày càng gia tăng.
2.3.

Bằng chứng thực nghiệm

Grechyna (2010) giải thích tác động của tham nhũng và các yếu tố đại diện cho
chất lượng thể chế đến tỷ lệ nợ công của các quốc gia. Điểm mới của tác giả là nhắm
vào các quốc gia có thu nhập cao bởi do các đề tài nghiên cứu trước đây đều phân tích
mẫu nghiên cứu các quốc gia có thu nhập trung bình và thấp. Trong đó mẫu nghiên cứu
của tác giả thu thập bao gồm 23 quốc gia thuộc nhóm OECD trong giai đoạn nghiên
cứu từ năm 1995 đến năm 2007. Mô hình nghiên cứu của các tác giả sử dụng với biến
phụ thuộc là tỷ lệ nợ công của các quốc gia và các yếu tố như tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ
thất nghiệp, tham nhũng, chi phí sử dụng nợ và các yếu tố đại diện cho chất lượng thể
chế được sử dụng như là các biến độc lập của mô hình nghiên cứu. Qua đó tác giả nhận
thấy rằng các quốc gia trong mẫu nghiên cứu có tỷ lệ nợ công bình quân đạt 48% so
với GDP. Đồng thời, tác giả sử dụng phương pháp hồi quy GMM để ước lượng mô

hình nghiên cứu và tìm thấy rằng tham nhũng có tác động cùng chiều đến tỷ lệ nợ công
của các quốc gia có trong mẫu nghiên cứu ở mức ý nghĩa 5% trong hầu hết các phương
trình hồi quy. Điều này hàm ý rằng các quốc gia càng có mức độ tham nhũng càng cao


15
 
 

thì sẽ làm gia tăng tỷ lệ nợ công của các quốc gia. Ngoài ra, tỷ lệ thất nghiệp và chi phí
sử dụng nợ lại có tác động cùng chiều đến tỷ lệ nợ công của các quốc gia ở mức ý
nghĩa 10%. Điều này cho thấy rằng các quốc gia có tỷ lệ thất nghiệp càng cao, chi phí
sử dụng nợ càng cao thì có khuynh hướng tiếp cận với các khoản vay nợ và gia tăng tỷ
lệ nợ công của quốc gia. Ngược lại, tác giả cũng tìm thấy rằng tăng trương kinh tế có
thể được sử dụng như một công cụ để giảm thiểu tỷ lệ nợ công của các quốc gia.
Grechyna (2012) giải thích tác động của tham nhũng đến tỷ lệ nợ công của các
quốc gia. Trong đó mẫu nghiên cứu của tác giả thu thập bao gồm 30 quốc gia thuộc
nhóm OECD trong giai đoạn nghiên cứu từ năm 1995 đến năm 2010. Mô hình nghiên
cứu của các tác giả sử dụng với biến phụ thuộc là tỷ lệ nợ công của các quốc gia và các
yếu tố như tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp, tham nhũng, chi phí sử dụng nợ, quy
mô chính phủ được sử dụng như là các biến độc lập của mô hình nghiên cứu. Qua đó
tác giả nhận thấy rằng các quốc gia trong mẫu nghiên cứu có tỷ lệ nợ công bình quân
đạt 46.922% so với GDP. Đồng thời, tác giả sử dụng phương pháp hồi quy OLS và
GMM để ước lượng mô hình nghiên cứu và tìm thấy rằng qua các phương pháp hồi
quy và các phương trình hồi quy thì tham nhũng đều thể hiện tác động cùng chiều đến
tỷ lệ nợ công của các quốc gia có trong mẫu nghiên cứu ở mức ý nghĩa 10% trong hầu
hết các phương trình hồi quy. Điều này hàm ý rằng các quốc gia càng có mức độ tham
nhũng càng cao thì sẽ làm gia tăng tỷ lệ nợ công của các quốc gia. Ngoài ra, quy mô
chính phủ và chi phí sử dụng nợ lại có tác động cùng chiều đến tỷ lệ nợ công của các
quốc gia ở mức ý nghĩa 10%. Điều này cho thấy rằng các quốc gia có quy mô chính

phủ càng cao, chi phí sử dụng nợ càng cao thì có khuynh hướng tiếp cận với các khoản
vay nợ và gia tăng tỷ lệ nợ công của quốc gia. Ngược lại, tác giả cũng tìm thấy rằng
tăng trưởng kinh tế và tỷ lệ thất nghiệp có thể được sử dụng như một công cụ để giảm
thiểu tỷ lệ nợ công của các quốc gia vì cho thấy tác động ngược chiều đến tỷ lệ nợ
công của các quốc gia.


16
 
 

Van Bon (2015) nghiên cứu mối quan hệ giữa nợ công và lạm phát của các quốc
gia. Trong đó mẫu nghiên cứu của tác giả bao gồm 60 quốc gia đang phát triển ở Châu
Á, Mỹ La Tin, và Châu Phi trong giai đoạn nghiên cứu từ năm 1990 đến năm 2014.
Mô hình nghiên cứu của tác giả gồm hai mô hình tương ứng với hai biến phụ thuộc là
nợ công và lạm phát. Ở mô hình nghiên cứu biến phụ thuộc là nợ công thì tác giả sử
dụng các biến độc lập như lạm phát, thu nhập quốc gia, đầu tư tư nhân, lực lượng lao
động, thu chính phủ, cơ sở hạ tầng, độ mở thương mại. Qua đó tác giả nhận thấy rằng
các quốc gia trong mẫu nghiên cứu có tỷ lệ nợ công bình quân đạt 68.175% so với
GDP. Đồng thời, tác giả sử dụng phương pháp hồi quy GMM để ước lượng mô hình
nghiên cứu và tìm thấy rằng đầu tư tư nhân, độ mở thương mại có tác động cùng chiều
đến tỷ lệ nợ công của các quốc gia ở mức ý nghĩa 10%. Điều này cho thấy rằng các
quốc gia càng có đầu tư tư nhân càng cao, và càng mở cửa thương mại hội nhập với thế
giới thì có khuynh hướng tiếp cận với các khoản vay nợ và gia tăng tỷ lệ nợ công của
quốc gia. Ngược lại, tác giả cũng tìm thấy rằng lạm phát, thu nhập quốc gia, thu chính
phủ đều có thể được sử dụng như một công cụ để giảm thiểu tỷ lệ nợ công của các
quốc gia vì cho thấy tác động ngược chiều đến tỷ lệ nợ công của các quốc gia. Bên
cạnh đó, nghiên cứu của tác giả cũng tìm thấy bằng chứng cho thấy rằng nợ công sẽ
làm gia tăng lạm phát của các quốc gia đang phát triển có trong mẫu nghiên cứu.
Pereima và các cộng sự (2015) nghiên cứu mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế

và nợ công của các quốc gia. Trong đó mẫu nghiên cứu của tác giả bao gồm 154 quốc
gia đã phát triển và đang phát triển trên thế giới trong giai đoạn nghiên cứu từ năm
1990 đến năm 2012. Mô hình nghiên cứu của các tác giả sử dụng với biến phụ thuộc là
tỷ lệ nợ công của các quốc gia và các yếu tố như đầu tư nội địa, độ mở thương mại,
lạm phát, chi tiêu chính phủ, tăng trưởng dân số và thu nhập quốc gia được sử dụng
như là các biến độc lập của mô hình nghiên cứu. Qua đó tác giả nhận thấy rằng các
quốc gia trong mẫu nghiên cứu có tỷ lệ nợ công bình quân đạt 60.58% so với GDP.


17
 
 

Đồng thời, tác giả sử dụng mô hình ảnh hưởng cố định, phương pháp hồi quy hai bước
và phương pháp hồi quy GMM để ước lượng mô hình nghiên cứu và tìm thấy rằng độ
mở thương mại, tăng trưởng dân số có tác động cùng chiều đến tỷ lệ nợ công của các
quốc gia ở mức ý nghĩa 10%. Điều này cho thấy rằng các quốc gia càng mở cửa
thương mại hội nhập với thế giới, càng có dân số tăng trưởng càng cao thì có khuynh
hướng tiếp cận với các khoản vay nợ và gia tăng tỷ lệ nợ công của quốc gia. Ngược lại,
tác giả cũng tìm thấy rằng lạm phát, đầu tư, tăng trưởng kinh tế, thu nhập quốc gia và
chi tiêu chính phủ đều có thể được sử dụng như một công cụ để giảm thiểu tỷ lệ nợ
công của các quốc gia vì cho thấy tác động ngược chiều đến tỷ lệ nợ công của các quốc
gia.
Cooray và các cộng sự (2017) giải thích mối quan hệ giữa tham nhũng và tỷ lệ
nợ công của các quốc gia. Trong đó mẫu nghiên cứu của các tác giả thu thập bao gồm
126 quốc gia đã phát triển và đang phát triển trong giai đoạn nghiên cứu từ năm 1996
đến năm 2012. Mô hình nghiên cứu của các tác giả sử dụng với biến phụ thuộc là tỷ lệ
nợ công của các quốc gia và các yếu tố như thu nhập quốc gia, tham nhũng, chi tiêu
chính phủ, vốn con người, chỉ số chính trị và kinh tế ngầm (Shadow economy) được sử
dụng như là các biến độc lập của mô hình nghiên cứu. Qua đó các tác giả nhận thấy

rằng các quốc gia trong mẫu nghiên cứu có tỷ lệ nợ công bình quân đạt 65.92% so với
GDP. Đồng thời, các tác giả sử dụng phương pháp hồi quy GMM để ước lượng mô
hình nghiên cứu và tìm thấy rằng tham nhũng đều thể hiện tác động cùng chiều đến tỷ
lệ nợ công của các quốc gia có trong mẫu nghiên cứu ở mức ý nghĩa 10% trong hầu hết
các phương trình hồi quy. Mặc dù đã có đưa thêm biến bình phương của tham nhũng
nhằm nắm bắt mối quan hệ phi tuyến giữa tham nhũng và tỷ lệ nợ công, tuy nhiên hệ
số hồi quy của biến bình phương này lại không có ý nghĩa thống kê ở mức 10%. Điều
này hàm ý rằng các quốc gia càng có mức độ tham nhũng càng cao thì sẽ làm gia tăng
tỷ lệ nợ công của các quốc gia. Ngoài ra, chi tiêu chính phủ và kinh tế ngầm lại có tác


18
 
 

động cùng chiều đến tỷ lệ nợ công của các quốc gia ở mức ý nghĩa 10%. Điều này cho
thấy rằng các quốc gia càng chi tiêu chính phủ càng nhiều và có nền kinh tế ngầm thì
có khuynh hướng tiếp cận với các khoản vay nợ và gia tăng tỷ lệ nợ công của quốc gia.
Ngược lại, các tác giả cũng tìm thấy rằng thu nhập quốc gia, vốn con người và chỉ số
chính trị có thể được sử dụng như một công cụ để giảm thiểu tỷ lệ nợ công của các
quốc gia vì cho thấy tác động ngược chiều đến tỷ lệ nợ công của các quốc gia.
Tarek và Ahmed (2017) nghiên cứu tác động của các thành phần của chất lượng
thể chế đến tỷ lệ nợ công của các quốc gia, bao gồm tác động của tham nhũng. Trong
đó mẫu nghiên cứu của các tác giả thu thập bao gồm 17 quốc gia thuộc khu vực Trung
Đông và Bắc Phi trong giai đoạn nghiên cứu từ năm 1996 đến năm 2015. Mô hình
nghiên cứu của các tác giả sử dụng với biến phụ thuộc là tỷ lệ nợ công của các quốc
gia và các yếu tố như thu nhập quốc gia, chi tiêu chính phủ, vốn con người, tỷ lệ thất
nghiệp, lạm phát, tăng trưởng kinh tế, và các thành phần của chất lượng thể chế bao
gồm kiểm soát tham nhũng, hiệu quả chính phủ, nhà nước pháp quyền, chất lượng các
quy định, tiếng nói và trách nhiệm giải trình và sự ổn định chính trị được sử dụng như

là các biến độc lập của mô hình nghiên cứu. Qua đó các tác giả nhận thấy rằng các
quốc gia trong mẫu nghiên cứu có tỷ lệ nợ công bình quân đạt 33.97% so với GDP.
Đồng thời, các tác giả sử dụng mô hình ảnh hưởng cố định và phương pháp hồi quy
FGLS để ước lượng mô hình nghiên cứu và tìm thấy rằng tham nhũng đều thể hiện tác
động ngược chiều đến tỷ lệ nợ công của các quốc gia có trong mẫu nghiên cứu ở mức ý
nghĩa 10% ở cả hai phương pháp hồi quy. Điều này hàm ý rằng các quốc gia càng có
mức độ tham nhũng càng cao thì sẽ làm giảm tỷ lệ nợ công của các quốc gia. Ngoài ra,
chi tiêu chính phủ, tỷ lệ thất nghiệp, lạm phát lại có tác động cùng chiều đến tỷ lệ nợ
công của các quốc gia ở mức ý nghĩa 10%. Điều này cho thấy rằng các quốc gia càng
chi tiêu chính phủ càng nhiều, có mức tỷ lệ thất nghiệp cao và lạm phát cao thì có
khuynh hướng tiếp cận với các khoản vay nợ và gia tăng tỷ lệ nợ công của quốc gia.


19
 
 

Ngược lại, các tác giả cũng tìm thấy rằng thu nhập quốc gia, vốn con người và tăng
trưởng kinh tế đều có thể được sử dụng như một công cụ để giảm thiểu tỷ lệ nợ công
của các quốc gia vì cho thấy tác động ngược chiều đến tỷ lệ nợ công của các quốc gia.
Bên cạnh đó, chất lượng các quy định, sự ổn định chính trị và nhà nước pháp quyền
đều cho thấy rằng cơ chế quản trị quốc gia yếu kém sẽ làm gia tăng tỷ lệ nợ công của
các quốc gia ở mức ý nghĩa thống kê 10%.
Benfratello và các cộng sự (2018) nghiên cứu tác động của tham nhũng đến tỷ lệ
nợ công của các quốc gia. Trong đó mẫu nghiên cứu của các tác giả thu thập bao gồm
164 quốc gia đã phát triển và đang phát triển trong giai đoạn nghiên cứu từ năm 1995
đến năm 2015. Mô hình nghiên cứu của các tác giả sử dụng với biến phụ thuộc là tỷ lệ
nợ công của các quốc gia và các yếu tố như tham nhũng, thu nhập quốc gia, chi phí nợ
vay, tăng trưởng kinh tế, lạm phát, chi tiêu chính phủ, dân số, độ ổn định của chính trị,
và dòng vốn ODA được sử dụng như là các biến độc lập của mô hình nghiên cứu. Qua

đó các tác giả nhận thấy rằng các quốc gia trong mẫu nghiên cứu có tỷ lệ nợ công bình
quân đạt 49.5% so với GDP. Đồng thời, các tác giả sử dụng phương pháp hồi quy
GMM để ước lượng mô hình nghiên cứu và tìm thấy rằng tham nhũng đều thể hiện tác
động cùng chiều đến tỷ lệ nợ công của các quốc gia có trong mẫu nghiên cứu ở mức ý
nghĩa 10% ở các phương trình hồi quy. Điều này hàm ý rằng các quốc gia càng có mức
độ tham nhũng càng cao thì sẽ làm gia tăng tỷ lệ nợ công của các quốc gia. Ngoài ra,
thu nhập quốc gia, chi phí vay nợ, chi tiêu chính phủ có tác động cùng chiều đến tỷ lệ
nợ công của các quốc gia ở mức ý nghĩa 10%. Điều này cho thấy rằng các quốc gia
càng chi tiêu chính phủ càng nhiều, có thu nhập quốc gia càng cao và càng có chi phí
vay nợ cao thì có khuynh hướng tiếp cận với các khoản vay nợ và gia tăng tỷ lệ nợ
công của quốc gia. Ngược lại, các tác giả cũng tìm thấy rằng tăng trưởng kinh tế, lạm
phát, dân số, ổn định chính trị và dòng vốn ODA đều có thể được sử dụng như một


20
 
 

công cụ để giảm thiểu tỷ lệ nợ công của các quốc gia vì cho thấy tác động ngược chiều
đến tỷ lệ nợ công của các quốc gia.
Henri (2018) nghiên cứu tác động của tham nhũng đến tỷ lệ nợ công của các
quốc gia. Trong đó mẫu nghiên cứu của tác giả thu thập bao gồm 29 quốc gia thuộc
khu vực Châu Phi trong giai đoạn nghiên cứu từ năm 2000 đến năm 2015. Mô hình
nghiên cứu của tác giả sử dụng với biến phụ thuộc là tỷ lệ nợ công của các quốc gia và
các yếu tố như tham nhũng, chi tiêu chính phủ, lạm phát, độ mở thương mại, chi tiêu
quân đội, thu nhập trên đầu người dân số và độ ổn định chính trị được sử dụng như là
các biến độc lập của mô hình nghiên cứu. Qua đó tác giả nhận thấy rằng các quốc gia
trong mẫu nghiên cứu có tỷ lệ nợ công bình quân đạt 70.40% so với GDP. Đồng thời,
tác giả sử dụng phương pháp hồi quy GMM để ước lượng mô hình nghiên cứu và tìm
thấy rằng tham nhũng đều thể hiện tác động cùng chiều đến tỷ lệ nợ công của các quốc

gia có trong mẫu nghiên cứu ở mức ý nghĩa 10% ở các phương trình hồi quy. Điều này
hàm ý rằng các quốc gia càng có mức độ tham nhũng càng cao thì sẽ làm gia tăng tỷ lệ
nợ công của các quốc gia. Ngoài ra, độ mở thương mại, thu nhập trên đầu người có tác
động cùng chiều đến tỷ lệ nợ công của các quốc gia ở mức ý nghĩa 10%. Điều này cho
thấy rằng các quốc gia càng có độ mở thương mại với thế giới càng lớn, có thu nhập
quốc gia càng cao thì có khuynh hướng tiếp cận với các khoản vay nợ và gia tăng tỷ lệ
nợ công của quốc gia. Ngược lại, tác giả cũng tìm thấy rằng sự ổn định chính trị có thể
được sử dụng như một công cụ để giảm thiểu tỷ lệ nợ công của các quốc gia vì cho
thấy tác động ngược chiều đến tỷ lệ nợ công của các quốc gia.
Pecaric và các cộng sự (2018) giải thích các yếu tố kinh tế vĩ mô quyết định tỷ
lệ nợ công của các quốc gia. Trong đó mẫu nghiên cứu của tác giả thu thập bao gồm 11
quốc gia thuộc Châu Âu trong giai đoạn nghiên cứu từ năm 1995 đến năm 2015. Mô
hình nghiên cứu của các tác giả sử dụng với biến phụ thuộc là tỷ lệ nợ công của các
quốc gia và các yếu tố như tăng trưởng kinh tế, đầu tư nội địa, cán cân tài khoản vãng


×