Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Pháp luật việt nam về chống khủng bố quốc tế và một số quốc gia

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (583.67 KB, 82 trang )

MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU
Chương I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KHỦNG BỐ
QUỐC TẾ VÀ PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ CHỐNG KHỦNG BỐ
1. Khái niệm khủng bố quốc tế và xu hướng phát triển của hoạt
động khủng bố quốc tế
1.1 Khái niệm khủng bố quốc tế
1.2 Xu hướng phát triển của hoạt động khủng bố quốc tế
2. Lịch sử hình thành, phát triển của chế định pháp lý quốc tế về
chống khủng bố
2.1 Giai đoạn trước cuộc khủng bố tại Mỹ ngày 11/9/2001
2. 2 Giai đoạn từ sau cuộc khủng bố tại Mỹ ngày 11/9/2001 đến nay
3. Mối quan hệ giữa pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia về
chống khủng bố
4. Vai trò của các tổ chức quốc tế trong việc xây dựng và tổ chức
thực thi pháp luật quốc tế về chống khủng bố
TIỂU KẾT
Chương II. THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT QUỐC
TẾ VỀ CHỐNG KHỦNG BỐ VÀ KINH NGHIỆM THỰC THI TẠI
MỘT SỐ QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI
1. Thực trạng nội dung của pháp luật quốc tế về chống khủng bố
1.1 Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế về chống khủng bố


1.2 Các quy định của pháp luật quốc tế về biện pháp chống khủng bố
1.3 Các quy định về hình thức hợp tác quốc tế về đấu tranh chống khủng bố
1.4 Các quy định về nghĩa vụ của các quốc gia trong cuộc đấu tranh chống khủng
bố
2. Chống khủng bố tại một số quốc gia trên thế giới
2.1 Chống khủng bố tại Trung Quốc
2.2 . Chống khủng bố tại Australia


2.3 Chống khủng bố tại Italia
TIỂU KẾT
Chương III. THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CHỐNG
KHỦNG BỐ VÀ VẤN ĐỀ THỰC THI CÁC CAM KẾT QUỐC TẾ CỦA VIỆT
NAM VỀ CHỐNG KHỦNG BỐ
1. Thực trạng pháp luật Việt Nam về chống khủng bố
2. Vấn đề thực thi các cam kết quốc tế của Việt Nam về chống khủng bố quốc
tế
3. Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu qủa thực thi các
cam kết quốc tế của Việt Nam về chống khủng bố
TIỂU KẾT
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


LỜI CẢM ƠN
Trước tiên, tôi muốn gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến thầy giáo, PGS.TS Đoàn
Năng - người đã tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn thạc sĩ .
Tiếp theo, tôi xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc đến những thầy cô giáo đã giảng dạy
tôi trong suốt những năm qua, những kiến thức mà tôi nhận được trên giảng đường Đại
học Luật Hà Nội mà các thầy cô truyền thụ sẽ là hành trang giúp tôi vững bước trong
tương lai.
Cuối cùng, tôi muốn gửi lời cảm ơn sâu sắc đến tất cả bạn bè và đặc biệt là gia
đình, những người luôn kịp thời động viên và giúp đỡ tôi vượt qua những khó khăn để
hoàn thành cuốn luận văn này.

Học viên
Nguyễn Yến Ngọc



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các số liệu, tài liệu tham khảo được sử dụng để phân tích trong luận văn có nguồn
gốc rõ ràng, được trích dẫn đúng quy định. Các kết quả nghiên cứu trong khoá luận
do tôi tự tìm hiểu dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Đoàn Năng. Các vấn đề được
phân tích một cách trung thực, khách quan và phù hợp với thực tiễn của Việt Nam.
Các kết quả này chưa được công bố trong bất kỳ nghiên cứu nào khác.

Xác nhận của giảng viên hướng dẫn

PGS.TS Đoàn Năng

Học viên

Nguyễn Yến Ngọc


LỜI NÓI ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài :
Hòa bình và phát triển luôn là mục tiêu quan trọng mà mỗi quốc gia hướng tới
trong xu thế toàn cầu hóa như hiện nay. Sau khi thế giới phải chứng kiến hai cuộc Chiến
tranh thế giới thứ nhất và Chiến tranh thế giới thứ hai, thì xu thế hợp tác đối thoại đang
dần chiếm lĩnh thay cho việc đối đầu. Tuy nhiên nền an ninh chung của mỗi quốc gia
ngày càng bị đe dọa bởi một hình thức hoạt động không rầm rộ như chiến tranh nhưng
tầm nguy hại lại vô cùng to lớn đó chính là “khủng bố”.
Chống khủng bố quốc tế luôn là mối quan tâm của nhiều quốc gia trên thế giới và
Việt Nam đặc biệt là trong bối cảnh chủ nghĩa khủng bố ngày càng phát triển đe dọa hòa
bình và an ninh quốc tế như hiện nay thì cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa khủng bố đã
trở thành một trong những ưu tiên hàng đầu trong chính sách của nhiều quốc gia, nhất là
các cường quốc. Đây là nguy cơ trước mắt mà chúng ta đang phải đối mặt và chúng ta

phải cùng nhau ngăn chặn điều này.
Sự mở rộng quy mô hoạt động khủng bố quốc tế trong những năm gần đây mà
điển hình là Nhà nước tự xưng IS với những cuộc khủng bố đẫm máu mà trước đó
không một ai trong chúng ta có thể hình dung được đã làm thay đổi sâu sắc nhận thức
của cộng đồng quốc tế về chủ nghĩa khủng bố và cách thức chống khủng bố.
Hậu quả mà khủng bố gây ra không chỉ đe dọa trực tiếp đến tính mạng về người,
gây ra những thiệt hại về tài sản mà nguy hại lớn hơn là gây tâm lý lo sợ, hoang mang
thường trực cho cả cộng đồng quốc tế... Chúng ta không chỉ đang nói đến việc chống
khủng bố mà nói đến cả nhân loại, về số phận của những con người trên thế giới và hàng
tỷ người đang chịu ảnh hưởng bởi điều này.
Nhận thấy vấn đề chống khủng bố quốc tế cần phải nghiên cứu toàn diện hơn nữa về
cả lý luận và thực tiễn. Luận văn hướng tới phân tích thực trạng và chỉ ra các khó khăn
trong thực tiễn liên quan tới hoạt động phòng, chống khủng bố quốc tế, nghiên cứu làm
rõ hơn pháp luật của một số quốc gia và pháp luật Việt Nam về chống khủng bố quốc tế


qua đó góp phần nâng cao hiệu quả hợp tác đấu tranh chống khủng bố giữa Việt Nam
với các nước trong khu vực cũng như trên thế giới.
2. Tình hình nghiên cứu ở trong và ngoài nước :
Hiện nay ở Việt Nam, việc nghiên cứu pháp luật quốc tế về chống khủng bố khá
nhiều. Ở cấp độ đề tài khoa học cấp Bộ “Khủng bố và giải pháp phòng, chống khủng bố
ở nước ta hiện này” do PGS. TS. Hoàng Công Tư, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục I, Bộ
Công an làm Chủ nhiệm... Ở cấp độ luận văn có một số đề tài của tác giả Nguyễn Long
tại Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội có tên: “Pháp luật quốc tế về chống khủng bố một số vấn đề lý luận và thực tiễn”, của tác giả Bùi Mạnh Hùng , Đại học quốc gia có
tên : “ Hợp tác quốc tế về chống khủng bố và liên hệ thực tiễn Việt Nam”, của tác giả
Trần Minh Thu tại Khoa luật, Đại học Quốc gia Hà Nội có tên : “Pháp luật quốc tế với
vấn đề khủng bố quốc tế : Lý luận và thực tiễn”, của tác giả Vũ Ngọc Dương tại Khoa
luật, Đại học Quốc gia Hà Nội có tên : “Pháp luật quốc tế về chống khủng bố và việc
hoàn thiện Bộ luật Hình sự Việt Nam”... Ngoài ra, còn một số sách tham khảo giới thiệu
các công ước quốc tế về chống khủng bố như “Pháp luật về chống khủng bố của một số

nước trên thế giới” của TS. Phạm Văn Lợi – Viện khoa học pháp lý ….và các bài viết
hội thảo về vấn đề này.
Trên thế giới cũng đã có khá nhiều công trình nghiên cứu của các học giả về khủng bố
quốc tế như : Alex Schmid (1983), Political terrorism, Transaction Publishers, U.S, 1983;
Nations And Regional Organizations in the Fight Against Terrorism, Ashgate Publishing,..
Cronin (2004), Attacking Terrorism: Elements of a Grands Stratery, Washington, DC:
Georgettown University Press, Boaz Ganor (2005), The counter - terrorism puzzle : a
guide for decision makers, New Brunswick. - London: Transaction, Moghadam (2006),
The Roots of Terrorism, New York: Infobase Publishes, Nesi, Giuseppe (Editor) (2006),
International Cooperation in Counter-terrorism: The United Nations And Regional
Organizations in the Fight Against Terrorism, Ashgate Publishers... và một số bài viết
khác như: Al-Qaeda's Master Plan, Inside terrorism, Sự phát triển của các mối đe dọa


khủng bố toàn cầu...
Các công trình nghiên cứu trên chỉ đề cập đến một hoặc một vài khía cạnh của chủ
nghĩa khủng bố như mà không nghiên cứu một cách tổng thể, có tính khái quát toàn diện.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu :
3.1. Mục đích nghiên cứu :
Mục đích nghiên cứu là làm rõ thêm một số vấn đề lí luận cơ bản về khủng bố
quốc tế và pháp luật quốc tế về chống khủng bố quốc tế cũng như tập trung tìm hiểu
thực trạng các quy định pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về chống khủng bố;
kinh nghiệm thực thi các quy định của pháp luật quốc tế của một số nước và việc thực
thi cam kết quốc tế của Việt Nam trong hợp tác chống khủng bố, qua đó góp phần nâng
cao hiệu quả hợp tác đấu tranh chống khủng bố giữa Việt Nam với các nước trong khu
vực cũng như trên thế giới.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu trên, nhiệm vụ nghiên cứu được đặt ra như sau :
- Tìm hiểu khái niệm và xu hướng phát triển của hoạt động khủng bố quốc tế, lịch
sử hình thành phát triển của chế định pháp lý quốc tế về chống khủng bố

- Tìm hiểu thực trạng nội dung của pháp luật quốc tế về chống khủng bố và kinh
nghiệm thực thi các quy định của pháp luật quốc tế về chống khủng bố quốc tế của một
số quốc gia trên thế giới đại diện cho các khu vực Châu Âu, Châu Á...
- Tìm hiểu thực trạng pháp luật Việt Nam về chống khủng bố và vấn đề thực thi
các cam kết quốc tế của Việt Nam về vấn đề này từ đó đưa ra một số giải pháp hoàn
thiện pháp luật để nâng cao hiệu quả thực thi các cam kết quốc tế tại Việt Nam về chống
khủng bố.
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu :
Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề pháp lý xung quanh vấn đề chống khủng
bố quốc tế với nguồn chủ yếu là điều ước quốc tế, các quy định pháp luật của một số
quốc gia trên thế giới đại diện cho Châu Âu, châu Á và pháp luật Việt Nam về vấn đề


này.
Đề tài tập trung làm rõ thêm một số vấn đề lí luận cơ bản về khủng bố quốc tế và
pháp luật quốc tế về chống khủng bố. Bên cạnh đó đề tài cũng tập trung tìm hiểu thực
trạng các quy định pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam về chống khủng bố; kinh
nghiệm thực thi các quy định của pháp luật quốc tế của một số nước và việc thực thi
cam kết quốc tế của Việt Nam trong hợp tác chống khủng bố.
5. Các câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề có
liên quan đến quy định của pháp luật quốc tế và pháp luật việt nam về chống khủng bố
và trả lời cho các câu hỏi chính sau:
- Thứ nhất, khủng bố quốc tế là gì và xu hướng phát triển của hoạt động khủng bố
quốc tế ?
- Thứ hai, lịch sử hình thành, phát triển của chế định pháp lý quốc tế về chống
khủng bố như thế nào ?
- Thứ ba, hệ thống pháp luật quốc tế quy định như thế nào về chống khủng bố ?
- Thứ tư, thực trạng thực thi pháp luật về chống khủng bố của Việt Nam ra sao?
6. Phương pháp nghiên cứu :

Để tài nghiên cứu được tiếp cận theo phương pháp duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử - phương pháp luận của khoa học pháp lý nói chung và khoa học luật quốc tế
nói riêng, đường lối đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.
Bên cạnh đó, tác giả cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác như:
phương pháp phân tích - tổng hợp và các phương pháp nghiên cứu truyền thống và hiện
đại khác…
7. Dự kiến những đóng góp mới của đề tài :
- Làm rõ thêm một số vấn đề lí luận cơ bản về khủng bố quốc tế và pháp luật quốc
tế về chống khủng bố quốc tế.
- Tìm hiểu thực trạng các quy định pháp luật quốc tế về chống khủng bố và kinh
nghiệm thực thi ở một số nước.


- Tìm hiểu thực trạng pháp luật Việt Nam về chống khủng bố và việc thực thi cam
kết quốc tế của Việt Nam trong hợp tác chống khủng bố
8. Kết cấu của Luận văn :
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn gồm 3
chương:
Chương I : Một số vấn đề lý luận cơ bản về khủng bố quốc tế và pháp luật
quốc tế về chống khủng bố
Chương II : Các quy định pháp luật quốc tế về chống khủng bố và hoạt động
nhằm thực thi tại một số quốc gia trên thế giới
Chương III: Pháp luật Việt Nam về chống khủng bố và một số giải pháp hoàn
thiện


Chương I.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ KHỦNG BỐ QUỐC TẾ
VÀ PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ CHỐNG KHỦNG BỐ
1. Khái niệm khủng bố quốc tế và xu hướng phát triển của hoạt động khủng bố

quốc tế :
1.1. Khái niệm khủng bố quốc tế :
1.1.1. Định nghĩa khủng bố trong các ĐƯQT :
Có thể nói định nghĩa về khủng bố đầu tiên xuất hiện tại điều ước quốc tế đa
phương là định nghĩa được nêu ra trong Công ước Giơnevơ năm 1937 về ngăn ngừa và
trừng trị khủng bố quốc tế. Mặc dù không phát sinh hiệu lực nhưng theo Công ước này
thì khủng bố là việc thực hiện các hành vi phá hoại, hành vi gây nguy hiểm cho nhiều
người, việc vận chuyển, chuyển giao, cố ý sử dụng các giấy tờ, tài liệu giả mạo, các hành
vi ám sát nguyên thủ quốc gia và các nhà lãnh đạo của quốc gia khác…
Trong các điều ước quốc tế thuộc khuôn khổ Liên hợp quốc về đấu tranh chống
khủng bố đã có 3 công ước trực tiếp nhắc đến khái niệm "khủng bố” (terrorism) ngay tại
tiêu đề, đó là: Công ước New York năm 1997 về trừng trị khủng bố bằng bom
(International convention for the suppression of terrorist bombings); Công ước New
York năm 1999 về trừng trị việc tài trợ khủng bố (International convention for the
suppression of the financing of terrorism); Công ước New York năm 2005 về ngăn chặn
các hành vi khủng bố hạt nhân (International convention for the suppression of acts of
nuclear terrorism )
Công ước New York năm 1999 về trừng trị hành vi tài trợ khủng bố bên cạnh việc
định nghĩa hành vi tài trợ khủng bố đã gián tiếp quy định thế nào là khủng bố. Theo
Công ước này thì khủng bố là: i) "Bất kì hành vi nào cấu thành một tội phạm trong
phạm vi và được định nghĩa tại một trong số các điều ước về đấu tranh chống khủng bố
còn lại (được quy định tại phụ lục)” hoặc ii) "Bất kì hành vi nào khác với ý định giết hại
hoặc làm bị thương nghiêm trọng đến thân thể thường dân, hoặc bất kì người nào khác
không tham gia vào chiến sự trong bối cảnh xung đột vũ trang, nếu mục đích của hành


vi này về bản chất hoặc bối cảnh xảy ra là nhằm hăm doạ dân chúng hay ép buộc một
chính phủ hoặc một tổ chức quốc tế phải thực hiện hoặc không thực hiện bất kì hành vi
nào”. Hai công ước New York 1999 và Công ước New York năm 2005 chỉ đưa ra định
nghĩa về từng hành vi khủng bố cụ thể thuộc phạm vi điều chỉnh của công ước .

Các công ước khác Công ước New York năm 1979 về chống bắt cóc con tin, Công
ước Montreal năm 1991 … không nhắc đến khái niệm khủng bố một cách trực tiếp ở
tiêu đề mà chỉ quy định về những tội phạm mà việc thực hiện các tội phạm đó được coi
như biểu hiện của khủng bố quốc tế.
Không chỉ các công ước quốc tế mà các Nghị quyết của Hội đồng Bảo an Liên
hợp quốc về các biện pháp phòng, chống khủng bố cũng không đưa ra định nghĩa cụ thể
nào về khủng bố. Ngay cả Nghị quyết số 1373 ngày 28/9/2001 làm cơ sở ra đời Uỷ ban
chống khủng bố thuộc Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc mặc dù kêu gọi "các quốc gia
hợp tác khẩn thiết nhằm phòng và trấn áp các hành động khủng bố, thông qua sự tăng
cường hợp tác và thực hiện đầy đủ các công ước quốc tế liên quan đến chủ nghĩa khủng
bố” cũng không đưa ra định nghĩa cụ thể về khủng bố.
Hầu hết các điều ước quốc tế khu vực như Công ước chung về chống khủng bố
(ASEAN Convention on Counter Terrorism)...cũng không đưa ra được định nghĩa khủng
bố. Các điều ước này trong phạm vi hợp tác đấu tranh chống khủng bố lại dẫn ra những
hành vi được quy định tại các công ước quốc tế đa phương của Liên hợp quốc.
Như vậy, có thể thấy có rất ít điều ước quốc tế nhắc đến khái niệm “ khủng bố” một
cách trực tiếp . Tuy nhiên, nhiều văn bản quốc tế khác đã thể hiện nội hàm của khủng bố
như :
Các cơ quan hữu quan của Liên hợp quốc định nghĩa: "Hoạt động khủng bố là
hoạt động huỷ hoại nhân quyền, quyền dân chủ và tự do cá nhân, uy hiếp sự an toàn và
toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia, tạo sức ép lên quốc gia, phá vỡ văn minh xã hội, là hành
vi phạm tội với việc gây hậu quả bất lợi cho sự phát triển kinh tế - xã hội".
Tuyên ngôn về vấn đề chủ nghĩa khủng bố của Liên hợp quốc nêu rõ: "Tất cả các


hình thức của chủ nghĩa khủng bố, dù xảy ra ở nơi nào, ai là kẻ chủ mưu, và hành vi
phạm tội ra sao, cũng không thể thanh minh, cho nên thông qua các điều của Hiệp ước
Quốc tế, cần tăng thêm mức độ xử phạt"
1.1.2. Định nghĩa khủng bố theo pháp luật của một số quốc gia và pháp luật Việt Nam :
- Theo pháp luật một số quốc gia :

* Hoa Kì :
Bộ Luật Hình sự Hoa Kì quy định :
Khủng bố quốc tế- Những hoạt động liên quan đến các hành động bạo lực hoặc nguy
hiểm với đời sống con người, mà vi phạm pháp luật hình sự của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ
hoặc của bất kỳ bang nào thuộc Hợp chủng quốc, hoặc sẽ vi phạm Luật hình sự nếu hành
động đó được thực hiện trong phạm vi nước Mỹ hoặc bất kỳ bang nào được thực hiện
nhằm mục đích đe doạ hoặc cưỡng ép, khống chế một cộng đồng dân cư; hoặc nhằm gây
ảnh hưởng đến chính sách của một chính phủ bằng sự cưỡng bức đe doạ; hoặc nhằm tác
động đến sự điều hành của một chính phủ thông qua việc sát hại hoặc bắt cóc; và xảy ra
chủ yếu bên ngoài lãnh thổ Hoa Kỳ kiểm soát, hoặc ở những vùng biên giới liên quốc gia,
theo những cách thức mà đã được hoàn tất, những người này có ý đồ đe doạ hoặc cưỡng
ép chính phủ, hoặc khu vực ở đó những kẻ phạm tội hoạt động hoặc tìm cách xin tị nạn"
Trong Chính phủ Hoa Kỳ, các cơ quan chịu trách nhiệm cho các chức năng khác nhau
trong cuộc chiến chống khủng bố cũng liên tục sử dụng những định nghĩa khác nhau:
+ Bộ Ngoại giao Mỹ định nghĩa khủng bố: “là hành vi bạo lực có chủ ý và mục
đích chính trị nhằm vào các mục tiêu không tham chiến, tiểu quốc gia hoặc tổchức bí
mật tiến hành thường dùng để gây ảnh hưởng đến công chúng.” (Nguồn cụ thể ?)
+ Cục điều tra liên bang Mỹ (FBI) định nghĩa: “khủng bố là việc sử dụng vũ lực hoặc
bạo lực bất hợp pháp đối với người hay tài sản để đe doạ hay ép buộc một chính phủ,
một cộng đồng dân cư nhằm thực hiện các mục tiêu chính trị hoặc xã hội”. (Nguồn cụ
thể ?)


+ Bộ Quốc phòng Mỹ định nghĩa khủng bố là: “việc sử dụng hoặc đe doạ sử dụng bạo
lực bất hợp pháp nhằm khắc sâu sự sợ hãi, có ý định cưỡng chế hoặc để đe dọa chính phủ
hoặc xã hội trong việc theo đuổi các mục tiêu mà nói chung là chính trị, tư tưởng hay tôn
giáo”
* Anh :
Theo Luật chống khủng bố 2000: khủng bố là việc sử dụng hay đe dọa sử
dụng bạo lực nhằm vào con người hay gây thiệt hại nghiêm trọng đối với tài sản

hay tính mạng hoặc gây nguy hại tới sức khỏe, an toàn của công chúng nhằm mục đích
thúc đẩy mục tiêu tư tưởng, tôn giáo hoặc chính trị.
* Trung Quốc :
Trong luật Phòng chống khủng bố đã được thông qua 2015 : Khái niệm "khủng
bố" được định nghĩa là mọi ý kiến hay hành động nhằm mưu đồ chính trị và hệ tư tưởng,
thông qua bạo lực, hăm dọa, gây hoang mang trong xã hội, phá hoại an ninh công cộng,
xâm phạm quyền và tài sản cá nhân và đe dọa các tổ chức chính phủ và quốc tế.
Như vậy, mỗi quốc gia có những quan điểm, quy định khác nhau về khủng bố
nhưng nhìn chung các quy định này đều xác định được một số dấu hiệu cơ bản nhận biết
hoạt động khủng bố.
- Ở Việt Nam :
Về góc độ ngôn ngữ, Theo bộ Từ điển Bách khoa của Viện hàn lâm khoa học xã
hội Việt Nam- Viện Từ điển học và bách khoa thư Việt Nam:
“Khủng bố là hành động dùng bạo lực của cá nhân, của một tổ chức, một nhà
nước hoặc liên minh nhà nước để đe dọa, cưỡng bức đối phương, khiến họ vì khiếp sợ
mà phải chịu khuất phục. Các hình thức khủng bố thường là bắt cóc, ám sát, đánh
bom...”.
“Khủng bố quốc tế là khủng bố nhằm vào cá nhân, tổ chức hoặc mục tiêu được pháp
luật quốc tế bảo vệ: giết người đứng đầu nhà nước, Chính phủ, đại diện ngoại giao và
các đại diện khác, phá hủy tấn công đại sứ quan, trụ sở của phái đoàn đại diện của các


tổ chức giải phóng dân tộc, các tổ chức quốc tế; phá hoại hệ thống giao thông quốc tế…
với mục đích gây sức ép đối với chính sách đối nội, đối ngoại của các quốc gia”.
Khủng bố nhà nước hành vi xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, tự do thân thể của nhân
viên nhà nước, nhân viên tổ chức xã hội, công dân Việt Nam hoặc công dân nước ngoài
nhằm chống chính quyền nhân dân.
Dưới góc độ pháp lý, hành vi khủng bố đã được đề cập đến trong một số luật, văn
bản như : BLHS 2015, Luật Phòng chống khủng bố 2013... Theo Luật Phòng chống
khủng bố 2013 thì :

Khủng bố là hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, tự do thân thể hoặc đe dọa xâm
phạm tính mạng, uy hiếp tinh thần của người khác; chiếm giữ, làm hư hại, phá hủy hoặc
đe dọa phá hủy tài sản; tấn công, xâm hại, cản trở, gây rối loạn hoạt động của mạng
máy tính, mạng viễn thông, mạng Internet, thiết bị số ... của tổ chức, cá nhân nhằm
chống chính quyền nhân dân, ép buộc chính quyền nhân dân, tổ chức nước ngoài, tổ
chức quốc tế, gây khó khăn cho quan hệ quốc tế của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam hoặc gây ra tình trạng hoảng loạn trong công chúng.
Tóm lại, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật quốc tế về chống khủng chưa có
một định nghĩa chung hoàn chỉnh, thống nhất về khủng bố mà mới chỉ ghi nhận một số
hành vi khủng bố nhất định và quy định pháp luật và quan điểm của nhiều quốc gia trên
thế giới về khủng bố còn có nhiều điểm khác biệt. Vì vậy, cần phải xây dựng một định
nghĩa chung hoàn chỉnh, chính xác về khủng bố để việc hợp tác chống khủng bố giữa
các quốc gia có hiệu quả hơn.
Theo quan điểm của tác giả , khủng bố là hành vi bạo lực hoặc đe dọa bạo lực do các
các nhân, tổ chức, một nhà nước hoặc liên minh nhà nước thực hiện gây nguy hiểm đến
đời sống con người ( tính mạng, sức khỏe, tinh thần, tài sản ...) và bất ổn chính trị nhằm
gây sức ép đối với chính sách đối nội, đối ngoại của các quốc gia vì những lý do tôn giáo,
sắc tộc....với các hình thức thường thấy như đánh bom, bắt cóc....


1.1.3. Đặc điểm của khủng bố:
- Về hành vi:
Trên thực tế, hành vi khủng bố rất đa dạng, bao gồm các loại hành vi như xâm hại
tính mạng, thân thể con người, tài sản hay tổng hợp các loại hành vi đó. Phần lớn các hành
vi khủng bố là các hành vi sử dụng vũ lực đe doạ sử dụng vũ lực hoặc không mang tính
vũ lực như chống phá bằng công nghệ thông tin (tin tặc); làm ô nhiễm nguồn nước, phát
tán mầm bệnh.. Hiện nay, theo quy định của các công ước quốc tế về chống khủng bố,
hành vi khủng bố bao gồm các hành vi: chống lại an toàn hàng không dân dụng; chống lại
an toàn hành trình hàng hải và những công trình cố định trên thềm lục địa; tài trợ khủng
bố; xâm phạm tính mạng, sức khoẻ con người, tài sản bằng các thiết bị gây nổ; chống lại

những người được hưởng bảo hộ quốc tế bao gồm viên chức ngoại giao; bắt cóc con tin;
xâm phạm an toàn sức khoẻ, tính mạng, tài sản con người bằng thiết bị hạt nhân.
- Về mục đích:
Thực tiễn cho thấy, các vụ khủng bố thường gây ra tâm lý hoang mang, hoảng loạn, gieo
rắc sự sợ hãi, nỗi kinh hoàng bao trùm lên cộng đồng dân cư dần dần làm mất niềm tin
của người dân đối với chính quyền gây ra ảnh hưởng xấu đến ổn định xã hội, đến phát
triển kinh tế của quốc gia, qua đó thực hiện cho được mục đích cuối cùng mà chúng nhắm
tới chính là mục tiêu chính trị . Trong một số công ước quốc tế về chống khủng bố thì
mục đích chính trị cũng đã được nhắc đến, ví dụ Công ước New York 1979 về chống bắt
cóc con tin quy định hành vi thuộc phạm vi điều chỉnh công ước phải là hành vi bắt giữ,
giam giữ, đe doạ sẽ giết chết, sẽ làm bị thương nhằm cưỡng ép bên thứ ba, cụ thể là quốc
gia, tổ chức quốc tế liên chính phủ, pháp nhân hoặc thể nhân, nhóm người nào đó phải
thực hiện hay không được thực hiện bất kì hành vi nào như một điều kiện rõ ràng hoặc
điều kiện ngầm cho việc phóng thích con tin....
- Về chủ thể:
Hiện nay, có một số quan điểm cho rằng chủ thể thực hiện hành vi khủng bố bao gồm
cả quốc gia nhà nước khủng bố. Tuy nhiên, phần lớn các Công ước quốc tế về phòng,


chống khủng bố xác định cá nhân hoặc tổ chức là chủ thể của tội phạm khủng bố.
Công ước quốc tế về trừng trị việc khủng bố bằng bom tại Điều 2 quy định: “1. Một
người bị coi là thực hiện một tội phạm nếu người đó ném, đặt, làm nổ hoặc kích nổ một
cách bất hợp pháp và cố ý một thiết bị gây nổ hoặc gây chết người khác tại, vào hoặc
chống lại một địa điểm công cộng, một trang thiết bị của Nhà nước hoặc Chính phủ, một
hệ thống giao thông công cộng hoặc một cơ sở hạ tầng… 2. Một người bị coi là thực
hiện tội phạm nếu người đó có ý đồ thực hiện tội phạm quy định tại khoản 1 Điều này. 3.
Một người cũng bị coi là thực hiện tội phạm nếu người đó: (a) Tham gia với tư cách
đồng phạm trong tội phạm quy định tại khoản 1 và khoản 2 của Điều này; hoặc (b) Tổ
chức hoặc chỉ đạo những người khác thực hiện tội phạm quy định tại khoản 1 và khoản
2 của Điều này; hoặc (c) Đóng góp bằng bất kỳ cách nào khác cho việc thực hiện một

hoặc nhiều tội phạm quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 của Điều này do một nhóm
người có cùng mục đích chung thực hiện; việc đóng góp này phải là cố ý và được thực
hiện để trợ giúp hoạt động phạm tội chung hoặc mục đích chung của nhóm đó, hoặc
được thực hiện khi đã nhận thức được ý đồ thực hiện tội phạm của nhóm đó”. Như vậy,
chủ thể của tội phạm khủng bố theo quy định của Công ước quốc tế về trừng trị việc
khủng bố bằng bom có thể là cá nhân hoặc tổ chức (nhóm người).
Công ước về trừng trị việc chiếm giữ bất hợp pháp tàu bay và Công ước về trừng trị
những hành vi bất hợp pháp chống lại an toàn hàng không dân dụng, Công ước quốc tế
về chống bắt cóc con tin, Công ước về trừng trị các hành vi bất hợp pháp chống lại an
toàn hành trình hàng hải, Nghị định thư về trừng trị các hành vi bất hợp pháp chống lại
an toàn của những công trình cố định trên thềm lục địa... cũng ghi nhận cá nhân là chủ
thể thực hiện tội phạm
Một số Công ước quốc tế khác chỉ đề cập tới tội phạm khủng bố nhưng không nêu rõ
chủ thể của tội phạm.Ví dụ: Công ước về ngăn ngừa và trừng trị các tội phạm chống lại
những người được hưởng bảo hộ quốc tế, bao gồm viên chức ngoại giao không đề cập
tới chủ thể thực hiện tội phạm mà tại Điều 2 chỉ quy định các hành vi bị coi là tội


phạm...
Một số Công ước quốc tế về phòng, chống khủng bố cũng xác định hành động quân sự
của quốc gia không thuộc phạm vi điều chỉnh của Công ước. Ví dụ: Công ước quốc tế về
trừng trị việc khủng bố bằng bom tại phần mở đầu có nêu: “Lưu ý rằng các hoạt động
quân sự của các quốc gia được điều chỉnh theo các quy tắc của luật pháp quốc tế nằm
ngoài khuôn khổ của Công ước này và việc loại trừ một số hành động của nhất định ra
ngoài phạm vi điều chỉnh của Công ước này không có nghĩa là bỏ qua hoặc hợp pháp
hoá các hành vi bất hợp pháp, hoặc loại trừ việc truy tố theo các luật khác.
Dưới giác độ pháp luật quốc tế, cần phân biệt giữa hành vi vi phạm pháp luật
quốc tế của chủ thể luật quốc tế với hành vi vi phạm được xác định là tội phạm có tính
chất quốc tế. Tội phạm có tính chất quốc tế là tội phạm hình sự do các cá nhân thực hiện
xâm phạm tới trật tự pháp lí quốc tế hoặc quốc gia và có tính nguy hiểm trên phạm vi

quốc tế mà tội khủng bố nằm trong nhóm này. Các hành vi xâm phạm luật quốc tế của
quốc gia sẽ được giải quyết theo chế định trách nhiệm pháp lí quốc tế bao gồm hai loại
là tội ác quốc tế và các vi phạm pháp lí thông thường khác. Chính vì lẽ đó mà chủ thể
của tội phạm khủng bố chỉ có thể là cá nhân và các tổ chức tội phạm (các băng, nhóm
phạm tội). (1)
- Về khách thể:
Khách thể của tội phạm khủng bố quốc tế là các quan hệ xã hội được
các điều ước quốc tế đa phương về ngăn ngừa và trừng trị khủng bố quốc tế
bảo vệ và bị tội phạm khủng bố quốc tế xâm hại. Tội khủng bố xâm hại đến nhiều quan
hệ xã hội do vậy khách thể của tội phạm này rất đa dạng bao gồm: quyền tự do cơ bản
của con người, trật tự an toàn công cộng, hoà bình và an ninh quốc tế, mối quan hệ tốt
đẹp giữa các quốc gia vv... Tuy xâm phạm đến nhiều quan hệ xã hội nhưng khách thể
trực tiếp, thể hiện đầy đủ nhất tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi khủng bố
quốc tế chính là hoà bình và an ninh quốc tế. Để xâm hại quan hệ xã hội này thì hành vi
khủng bố phải thông qua những đối tượng tác động nhất định, có thể là con người, tài
sản.... Tuy nhiên, không phải việc tấn công vào con người, tài sản trong trường hợp nào


cũng bị coi là khủng bố. Các công ước quốc tế về chống khủng bố đều loại trừ các đối
tượng bị tấn công là tàu bay, tàu biển được sử dụng phục vụ quân đội, hải quan, cảnh sát
ra khỏi phạm vi điều chỉnh của công ước (như theo quy định tại Điều 1 khoản 4 Công
ước về các tội phạm và một số hành vi khác thực hiện trên tàu bay, Điều 3 khoản 2 Công
ước về trừng trị việc chiếm giữ bất hợp pháp tàu bay… ).
Một số công ước còn quy định cụ thể đối tượng chịu sự tác động của hành vi cấu
thành tội khủng bố bao gồm dân thường hoặc bất kì người nào khác không tham gia
chiến sự trong bối cảnh xung đột vũ trang (điểm b khoản 1 Điều 2 Công ước quốc tế về
trừng trị hành vi tài trợ khủng bố), Công ước về trừng trị khủng bố bằng bom quy định
đối tượng tác động của các hành vi cấu thành tội khủng bố gồm: địa điểm công cộng, hệ
thống giao thông công cộng, cơ sở hạ tầng, các trang thiết bị của nhà nước hoặc chính
phủ.

Có thể nhận thấy, đối tượng tác động của hành vi cấu thành tội khủng bố là các mục
tiêu dân sự, cộng đồng dân cư hoặc những người không trực tiếp tham gia chiến sự,
những người được hưởng bảo hộ quốc tế
Trong thực tế có trường hợp sự tấn công nhằm vào mục tiêu hỗn hợp, có cả quân sự và
dân sự, ví dụ toà nhà có cả cơ quan quân sự tội phạm khủng bố là tội phạm có "tính quốc
tế" nên khách thể của tội phạm khủng bố không chỉ giới hạn trong phạm vi quốc gia mà
trên phạm vi toàn cầu, đó là hoà bình, an ninh quốc tế, lợi ích của nhân loại, là quan hệ
bình thường ổn định giữa các quốc gia hoặc là tính mạng, tài sản, sức khoẻ, tự do, danh
dự và các quyền con người cơ bản của các công dân thuộc quốc gia đó.
1.1.4. Nguyên nhân khủng bố :
Hoạt động khủng bố đa dạng và xuất hiện ở nhiều vùng khác nhau, với những điều
kiện địa chính trị, xã hội khác nhau do đó nguyên nhân phát sinh và bùng phát chủ nghĩa
khủng bố cũng rất đa dạng, đa phần đó là sự kết hợp của nhiều nguyên nhân chứ không
phải do một hay hai nguyên nhân đơn lẻ. Tuy nhiên, có thể coi nguyên nhân gây ra chủ
nghĩa khủng bố gồm hai nguyên nhân chính sau :


- Về kinh tế :
Trong khi toàn cầu hóa mang lại cho các nước phát triển những lợi ích to lớn, những
cơ hội phát triển mạnh mẽ thì nó mang lại cho các nước đang phát triển đầy những thách
thức và rất nhiều khó khăn. Hệ quả của sự kiện này là khoảng cách giàu nghèo ngày
càng mở rộng, tình trạng bất đình đẳng về kinh tế giữa các quốc gia cũng như giữa các
tầng lớp xã hội trong cùng một quốc gia , mâu thuẫn giữa tăng trưởng kinh tế với tình
trạng phân phối không công bằng ngày một tăng.
Sự bần cùng về kinh tế, nghèo đói, thất nghiệp đã gạt một bộ phận không nhỏ dân
chúng ra bên lề của tiến trình phát triển, khiến họ mong muốn phải có sự thay đổi chính
quyền, thay đổi sự áp đặt, chèn ép của các nước giàu lên các nước nghèo... góp phần tạo
ra khoảng trống về đạo đức, tư tưởng , để chủ nghĩa khủng bố có điều kiện xâm nhập,
gieo rắc tư tưởng phản kháng, thù hận, thúc đẩy một bộ phận của xã hội gia nhập lực
lượng khủng bố. Không ít thành viên hoạt động trong những mạng lưới khủng bố toàn cầu

là những thanh niên trong độ tuổi 20 đến từ châu Phi, Đông Nam Á, khu vực Viễn Đông,
Trung Đông…và cả từ các nước phát triển.
Có thể nói, bên cạnh những tác động tích cực của toàn cầu hóa thì các hệ quả tiêu cực
mà nó gây ra như nghèo đói, thất nghiệp, sự chênh lệch giàu nghèo trong xã hội quốc gia
nói chung hay cộng đồng quốc tế nói riêng, sự bùng nổ khoa học kỹ thuật, phương thức
vận chuyển và thông tin xuyên biên giới , ...là những nguyên nhân quan trọng đưa tới sự
phản kháng, đưa tới tình trạng bạo lực - môi trường thuận lợi, mầm mống tiềm tàng cho
sự phát triển của chủ nghĩa khủng bố.
- Về chính trị :
Các mâu thuẫn dân tộc và xung đột sắc tộc, tôn giáo là nguyên nhân quan trọng
dẫn đến những hành động khủng bố quốc tế. Có một số học giả và cả chính khách trên
thế giới cho rằng tôn giáo là vườn ươm để chủ nghĩa khủng bố sinh sôi. Có người còn
đánh đồng Hồi giáo với chủ nghĩa khủng bố, cho rằng Hồi giáo là nguyên nhân sinh ra
chủ nghĩa khủng bố, nhất là trong bối cảnh hiện nay, khi các hình thức tôn giáo đi tới


chủ nghĩa cực đoan.
Chúng ta không thể đánh đồng chủ nghĩa khủng bố với Hồi giáo , nhưng cũng
không thể phủ định một thực tế là không ít hoạt động khủng bố có nguồn gốc từ mâu
thuẫn tôn giáo. Trong đó, điển hình là các cuộc khủng bố của các tổ chức Al-Qaeda kích
động phong trào Jihad (Thánh chiến) trên toàn cầu nhằm lật đổ các chế độ mà Al-Qaeda
cho là thối nát và phản Hồi giáo tại các quốc gia Ả Rập và các nước Hồi giáo khác. AlQaeda muốn thay thế các chế độ nói trên bằng một nhà nước Hồi giáo duy nhất hoặc
một đế chế được quản lý chặt chẽ bằng cái gọi là sharia (Luật Hồi giáo) hay IS với Tư
tưởng chiến đấu là thiết lập một Nhà nước Hồi Giáo thống nhất toàn Trung Đông, tại đó
những giá trị thiêng liêng của Hồi Giáo sẽ được khôi phục như những ngày đầu của Hồi
giáo, khi Đấng tiên tri Muhammed còn tại thế …
Có thể thấy , mọi thứ tư tưởng hệ nuôi dưỡng chủ nghĩa khủng bố về mặt thế giới
quan đều có thể quy về chủ nghĩa cực đoan (cực đoan dân tộc, cực đoan tôn giáo).
Chủ nghĩa dân tộc cực đoan bảo thủ có thể dẫn đến chủ nghĩa bài ngoại, hoặc chủ
nghĩa ly khai. Đây được coi là một trong những nguồn gốc dai dẳng nhất, mạnh mẽ nhất

và nguy hiểm nhất khiến phát sinh chủ nghĩa khủng bố. Trong khi đó, chủ nghĩa tôn giáo
cực đoan khiến các tín đồ tôn thờ Đấng tối cao một cách mù quáng, lợi dụng đức tin để
kêu gọi “ Thánh chiến”.
Bên cạnh đó, sự thiếu vắng hệ tư tưởng cách mạng cùng với toàn cầu hóa nếu
không biết khai thác thì dễ làm xóa mờ bản sắc văn hóa dân tộc, tôn giáo…đã tạo ra một
khoảng trống, mà chủ nghĩa khủng bố có thể lợi dụng để xâm nhập, kích động tâm lý,
tuyên truyền trong dân chúng, tạo nên những hành động phản kháng chính quyền.
1.1.5. Hậu quả của khủng bố :
Hàng năm, những vụ khủng bố đã cướp đi không biết bao nhiêu sinh mạng con
người, gây nên cảnh đổ máu tàn khốc, người thân li tán. Những người may mắn sống sót
có thể mang theo di chứng suốt đời. Khủng bố còn làm tiêu tốn biết bao nhiêu công sức,
của cải của con người. Tài sản, nhà cửa, các công trình kiến trúc mà bao người phải nỗ lực


trong nhiều năm tháng mới tạo dựng lên được chỉ trong một tích tắc đã bị huỷ hoại hoàn
toàn. Nhiều người bị đầy vào cảnh không nhà, không cửa, tay trắng chỉ trong giây phút.
Kèm theo đó, nguy hiểm hơn là môi trường sống của trái đất bị đặt trong nguy cơ bị huỷ
diệt bất cứ lúc nào. Đây là những hậu quả tức thời trước mắt mà ai cũng có thể nhìn thấy.
Không chỉ có vậy, nạn khủng bố lan tràn khiến tất cả mọi người mất đi cảm giác an toàn,
cảm giác yên tâm trong cuộc sống trong cuộc sống. Nỗi ám ảnh về khủng bố len lỏi vào
cuộc sống bình yên của mọi người và đang mài mòn, thách thức sức chịu đựng của tất cả .
Chưa bao giờ trong lịch sử nhân loại hình thức khủng bố lại tàn bạo đến thế. Chúng hành
quyết, chặt đầu nhiều người và bêu thi thể của họ tại quảng trường, nơi công cộng. VD :
IS đã tung video chặt đầu con tin người Mỹ Peter Kassig và công khai hình ảnh ghi lại
cảnh hành hình các phi công và sĩ quan trung thành với chính phủ tổng thống Bashar alAssad cùng lời đe dọa với Anh và Mỹ... Khả năng huỷ hoại thần kinh loài người của nó
còn lớn và tai hại gấp nhiều lần khả năng làm đổ máu hay phá huỷ tài sản. Bên cạnh
những hậu quả có liên quan đến con người, còn tồn tại những hậu quả lâu dài cho tương
lai loài người. Khủng bố khiến cho mâu thuẫn, xung đột trên thế giới ngày càng trở nên
gay gắt quyết liệt. Khối thống nhất, nền hoà bình mà nhân loại nỗ lực xây dựng đã bị xâm
hại và lung lay thực sự gây thiệt hại nghiêm trọng đến hoạt động bình thường của một

Chính phủ, hệ thống giao thông công cộng, hệ thống liên lạc hay cơ sở hạ tầng, làm mất
ổn định nghiêm trọng hoặc huỷ hoại cơ cấu xã hội, kinh tế, thể chế và chính trị căn bản
của một quốc gia hoặc một tổ chức quốc tế. Khủng bố chưa phải là một cuộc chiến tranh
công khai trên một phạm vi rộng nhưng tiến hành khủng bố là cách để nuôi dưỡng mầm
mống và làm bùng phát chiến tranh trên toàn thế giới.
1. 2. Xu hướng phát triển của chủ nghĩa khủng bố :
Khủng bố ngày càng lan rộng. Xu thế toàn cầu hóa hiện nay chính là môi trường lí tưởng
để các nhóm khủng bố xuyên quốc gia phát triển. Ranh giới giữa khủng bố trong phạm vi
một đất nước và khủng bố xuyên quốc gia đang ngày càng lu mờ. Có thể nhận định, xu
hướng phát triển của chủ nghĩa quốc tế hiện nay như sau:


1.2.1. Thay đổi mục tiêu và mục đích tấn công :
Các tổ chức khủng bố hiện nay mở rộng địa bàn tấn công ra ngoài phạm vi các nước
phương Tây và có khuynh hướng tiến hành các vụ tấn công khủng bố ở các quốc gia
đang phát triển. Sau sự kiện 11/9, các hoạt động khủng bố quy mô lớn xảy ra trên thế
giới phần lớn là nhằm vào Mỹ và các quốc gia phương Tây. Tuy nhiên, hiện nay, khủng
bố đã mở rộng mục tiêu tấn công của mình ra các khu vực ngoài phạm vi các nước
phương Tây như khu vực Nam Á, Trung Đông, châu Phi, Đông Nam Á…Hàng loạt
những vụ khủng bố gần đây ở các nước đang phát triển như Ai Cập , Ấn Độ … là minh
chứng cụ thể nhất cho sự thay đổi địa bàn tấn công của bọn khủng bố . Do Mỹ và các
nước phương Tây liên tục tăng cường các biện pháp chống khủng bố trong nước, các tổ
chức khủng bố quốc tế đã điều chỉnh sách lược tấn công các quốc gia đang phát triển.
Đặc điểm chung của những quốc gia đang phát triển này là trình độ phát triển kinh tế xã
hội thấp, không đồng đều, trong đó sự mâu thuẫn tôn giáo, mâu thuẫn dân tộc, mâu
thuẫn xã hội diễn biến hết sức phức tạp. Bên cạnh đó cơ chế chống khủng bố của hầu hết
những quốc gia này chưa hoàn thiện, trang bị chống khủng bố lạc hậu vì thế bọn khủng
bố dễ dàng đạt được mục đích tấn công các nhân viên và trụ sở của các nước phương
Tây đặt tại những nước này.
Ngoài ra, nếu trước đây các phần tử khủng bố đã chĩa mũi nhọn tấn công chủ yếu vào

những thành phố có ý nghĩa tượng trưng hoặc là trung tâm kinh tế chính trị có sự ảnh
hưởng lớn, cơ sở chính trị, quân sự trọng yếu... thì hiện nay đã chuyển sang coi các cơ
sở dân dụng tập trung đông người làm mục tiêu chính. Trong đó chủ yếu bao gồm các
cơ sở hạ tầng, khu dân cư, các phương tiện giao thông công cộng và các khu giải trí, ăn
uống lớn làm cho nhiều người thương vong, gây khủng hoảng trong xã hội.
Về mục đích , các cuộc tấn công hiện nay ngoài mục đích chính trị còn kết hợp nhiều
mục đích khác như tạo ra sự hoang mang cho người dân, khiến người dân đánh mất sự tín
nhiệm với chính phủ , thông qua các phương tiện truyền thông gây chấn động dư luận,
phá hoại những nỗ lực hòa bình, tuyên dương sự tồn tại các hành vi khủng bố và các phần
tử khủng bố, gây ra sự khủng hoảng, hoang mang trong xã hội, qua đó gây ảnh hưởng xấu


đến sự ổn định của xã hội và sự phát triển kinh tế
1.2.2 . Thay đổi hình thức, phương tiện, thành phần khủng bố , tốc độ, chu kì hoạt động
của hành động khủng bố :
Trước đây, các phần tử khủng bố thường dùng các phương thức như ám sát, đánh bom
tự sát,.. …Nhưng đến nay, cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ đã xuất hiện
khủng bố sử dụng công nghệ cao như vũ khí sinh học, hóa học, vũ khí hạt nhân với mức
độ tàn sát lớn và để lại hậu quả lâu dài. Chúng có các chuyên gia máy tính, sinh hóa và
các chuyên gia vũ khí gây nổ, được đào tạo huấn luyện khủng bố chuyên nghiệp, sử
dụng thành thạo các loại vũ khí kể cả loại vũ khí hiện đại nhất
Bên cạnh đó, chúng còn vận dụng tổng hợp nhiều phương thức tấn công, áp dụng
phương thức tổng hợp tấn công mục tiêu, sử dụng tổng hợp nhiều loại vũ khí trang bị
khác nhau như: súng bộ binh tự động, bom, lựu đạn v..v. Đồng thời, sử dụng nhiều thủ
đoạn kết hợp như: tấn công bằng vũ khí, ném lựu đạn. ...tính chất và trình độ của chúng
đã đạt đến cấp độ xung đột vũ trang
Ngoài ra, những phần tử khủng bố được chiêu mộ cũng có sự thay đổi về thành phần.
Chúng không còn chủ yếu là người các nước châu Âu nữa mà giờ đây chúng còn có thể
là người địa phương, người Hồi giáo, người di dân.... điều này khiến cho việc nhận dạng
các phần tử của các cơ quan chức năng trở nên khó khăn hơn.

Tốc độ của hành động khủng bố ngày càng nhanh, chu kỳ hoạt động ngày càng ngắn.
Các phần tử khủng bố hiện nay không cần thời gian lên kế hoạch và huấn luyện lâu ngày
như trước đây, sau khi được chiêu mộ, chỉ cần qua quá trình huấn luyện ngắn là các thành
viên mới kết nạp của các tổ chức khủng bố có thể tiến hành các hoạt động tấn công, tổng
cộng thời gian chỉ cần nửa năm.
1.2.3. Thay đổi quy mô, chiến lược , cơ cấu tổ chức, ngân quỹ hoạt động :
Giờ đây, các tổ chức khủng bố lợi dụng công nghệ, khoa học tiên tiến như internet ...để
tạo thành một mạng lưới tổ chức mang tính toàn cầu, rộng khắp. Mạng lưới này do nhiều
tổ chức nhỏ ở khắp nơi trên thế giới kết hợp thành, chúng không còn tập trung mà phân


chia rải rác, thường phân bố rộng, quân số đông và hành động rất linh hoạt. Chúng hoạt
động độc lập với nhau đồng thời cũng liên hệ mật thiết với nhau. Hàng loạt các vụ
khủng bố được tiến hành đa phần là do các tổ chức quy mô nhỏ thực hiện, thậm chí do
một số cá nhân không thuộc tổ chức nào thực hiện nhưng mức độ tinh vi lại tăng lên rất
nhanh và mang đậm “dấu ấn cá nhân”. Nhiều vụ khủng bố diễn ra bất ngờ khiến các
quốc gia không kịp trở tay. Khiến cho việc đề phòng và ngăn chặn hoạt động khủng bố
sẽ gặp nhiều khó khăn hơn.
Về ngân quỹ hoat động, ngày nay nguồn thu của các tổ chức khủng bố đa dạng và
mạnh hơn. Trong đó có 2 nguồn thu quan trọng là đánh thuế (bền vững, ít bị ảnh hưởng
từ bên ngoài), và bán dầu. Các nguồn khác là quyên góp, bắt cóc, tồng tiền, bán đồ cổ…
Chúng kinh doanh, thao túng kinh tế và tự tích tiểu thành đại. VD: tổ chức IS, chúng
được ví như Taliban với những giếng dầu trong tay. Mỗi ngày IS bán được tới 30 nghìn
thùng dầu với giá rẻ hơn giá thị trường chung trên thế giới, trở thành tổ chức khủng bố
giàu nhất trên thế giới. Ngoài ra, các tổ chức này ít khi dùng tiền để chi cho các hoạt
động chế tạo hoặc mua vũ khí mà hầu hết số tiền đó được dùng vào công tác chiêu mộ,
du lịch và mở lớp bồi dưỡng.
Điều này khiến việc theo dõi hoạt động gây quỹ của các thế lực khủng bố ngày càng gặp
nhiều khó khăn.
1.2.4. Xu thế “địa phương hóa”

Đây là một trong những thay đổi cơ bản của sự phát triển chủ nghĩa khủng bố quốc tế.
Đó là sự liên kết chặt chẽ giữa các tổ chức tội phạm như các tổ chức tôn giáo cực đoan
địa phương, các thế lực dân tộc chủ nghĩa, các thế lực phân biệt chủng tộc hoặc các tổ
chức tội phạm xã hội đen. Từ đó phát triển thế lực của các tổ chức khủng bố địa phương
đồng thời lợi dụng danh nghĩa các thế lực địa phương này để tiến hành các hoạt động
khủng bố. Khủng bố giờ đây không còn là các cuộc tấn công quy mô lớn được lên kế
hoạch và điều phối từ bên ngoài, mà chính là những nhóm hoặc cá nhân địa phương.
1.2.5. Thánh hóa hệ tư tưởng :
Chủ nghĩa khủng bố có liên hệ mật thiết với giáo lý đạo Hồi, hầu hết những phần tử


khủng bố hiện nay đều tự xưng là những tín đồ của đạo Hồi chính thống. Tất cả đều
“thánh hóa” các hành vi khủng bố của mình , nhất là khi tổ chức Nhà nước Hồi giáo tự
xưng (IS) xuất hiện IS đã hiện thực hóa được tư tưởng thống nhất đạo Hồi, từ một tổ
chức Hồi giáo cực đoan dòng Sunni trở thành một nhà nước hiện hữu, sẵn sàng chém giết
bất cứ ai trái ý chúng. IS đã biến tướng thành một nhà nước khủng bố, vượt trên tầm 1 tổ
chức Hồi giáo thánh chiến hùng mạnh như Al-Qaeda.
2. Lịch sử hình thành, phát triển của chế định pháp lý quốc tế về chống
khủng bố :
2.1. Giai đoạn trước cuộc khủng bố tại Mỹ ngày 11/9/2001:
Ban đầu hợp tác quốc tế về chống khủng bố hình thành ở cấp độ song phương giữa
các quốc gia thông qua các tập quán, các hiệp định tương trợ tư pháp về hình sự trong đó
có quy định trách nhiệm của các bên tham gia ký kết trong việc trao đổi thông tin, tương
trợ tư pháp và dẫn độ tội phạm trong đó có tội phạm khủng bố.
Ở cấp độ đa phương, có thể nói điều ước quốc tế đa phương đầu tiên đề cập tới khủng
bố là Công ước Giơnevơ năm 1937 về ngăn ngừa và trừng trị khủng bố quốc tế.Tuy
nhiên, do không hội đủ số lượng thư phê chuẩn nên Công ước đã không phát sinh hiệu
lực. Đây đánh dấu nỗ lực đầu tiên của cộng đồng quốc tế trong hợp tác chống khủng
bố, đặt cơ sở nền móng cho các nỗ lực tiếp theo của cộng đồng quốc tế trong lĩnh vực
này.

Từ sau Công ước Giơnevơ năm 1937 cộng đồng quốc tế đã ngày càng tập trung xây
dựng các quy phạm pháp luật quốc tế về chống khủng bố và đã có nhiều công ước về
chống khủng bố trong các lĩnh vực bảo an ninh hàng không quốc tế , hàng hải, ngoại
giao, chống bắt cóc con tin, đảm bảo an toàn vật liệu hạt nhân, an toàn hàng hải, công
trình cố định trên biển và thềm lục địa, đánh dấu chất nổ dẻo, chống khủng bố bằng
bom… được thông qua. Cụ thể :
Trong lĩnh vực đảm bảo an ninh hàng không quốc tế, dưới sự bảo trợ và chủ trì của Liên
hợp quốc và Tổ chức hàng không dân dụng quốc tế ICAO, nhiều điều ước quốc tế về


×