Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Vận dụng trò chơi học tập để giáo dục môi trường trong dạy học môn tự nhiên và xã hội lớp 3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (255.72 KB, 39 trang )

Bài tiểu luận
LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình thực hiện đề tài, ngoài sự cố gắng của bản thân tôi còn nhận
được sự giúp đỡ tận tình, chu đáo của các thầy cô trong khoa Tiểu học - Mầm non
trường Đại học Quảng Bình. Với tấm lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin
chân thành cảm ơn đến thầy Đoàn Kim Phúc người trực tiếp hướng dẫn đề tài,
cùng thầy cô giáo trong khoa, giáo viên và học sinh trường Tiểu học Yên Hóa huyện Minh Hoá - Quảng Bình.
Mặc dù bản thân đã có sự cố gắng trong việc sưu tầm, bám sát thực tiễn để đề
tài có tính khả thi cao nhưng chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy,
tôi rất mong muốn nhận được nhiều ý kiến đóng góp của các thầy cô giáo và bạn
bè để đề tài ngày càng hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Quảng Bình, tháng 12 năm 2018
Người thực hiện


Bài tiểu luận
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT
1
2
3
4
5
6
7
8
9
10
11
12


13

Viết tắt
BVMT
GDMT
GVTH
GV
HS
HSTH
MT
PPDH
SGK
SGV
TC
TCHT
TNXH

Diễn giải
Bảo vệ môi trường
Giáo dục môi trường
Giáo viên tiểu học
Giáo viên
Học sinh
Học sinh tiểu học
Môi trường
Phương pháp dạy học
Sách giáo khoa
Sách giáo viên
Trò chơi
Trò chơi học tập

Tự nhiên xã hội


Bài tiểu luận
MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU.................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài...................................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu............................................................................................2
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu......................................................................2
4. Giả thuyết khoa học..............................................................................................2
5. Các nhiệm vụ nghiên cứu.....................................................................................2
6. Phạm vi nghiên cứu..............................................................................................3
7. Các phương pháp nghiên cứu...............................................................................3
8. Cấu trúc của khóa luận..........................................................................................5
B. PHẦN NỘI DUNG.............................................................................................6
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN DỤNG
TRÒ CHƠI HỌC TẬP ĐỂ GIÁO DỤC MÔI TRƯỜNG TRONG DẠY HỌC
MÔN TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI LỚP 3..................................................................6
1.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN...............................................................................................6
1.1.1. Vấn đề môi trường và GDMT.........................................................................6
1.1.2. Một số khái niệm............................................................................................9
1.1.3. Trò chơi học tập............................................................................................10
1.1.4. Vai trò của TCHT trong GDMT cho HSTH..................................................12
1.1.5. Giáo dục môi trường trong trường tiểu học..................................................13
1.1.6. Đặc điểm nhận thức của HS tiểu học............................................................14
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN........................................................................................15
1.2.1. Đặc điểm môn học........................................................................................15
1.2.2. Đặc điểm nội dung SGK môn TNXH lớp 3..................................................16
1.2.3. Thực trạng nhận thức và sử dụng phương pháp trò chơi trong dạy học môn
TNXH lớp 3............................................................................................................17

CHƯƠNG 2: ĐỀ XUẤT MỘT SỐ TRÒ CHƠI HỌC TẬP ĐỂ GIÁO DỤC
MÔI TRƯỜNG TRONG DẠY HỌC MÔN TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI LỚP 3 20

SVTH: Cao Thị Mỹ Hạnh

Lớp: ĐHGD Tiểu học A - K58


Bài tiểu luận
2.1. Những nội dung về MT và BVMT có trong nội dung chương trình và SGK
môn TNXH lớp 3....................................................................................................20
2.2. Vận dụng tcht để gdmt trong dạy học môn tự nhiên và xã hội lớp 3...............21
2.2.1. Xây dựng và giới thiệu một số TCHT để GDMT trong dạy học môn TNXH
lớp 3........................................................................................................................21
2.2.2. Sử dụng phương pháp TCHT trong dạy học môn TNXH.............................23
CHƯƠNG 3: THIẾT KẾ - THỂ NGHIỆM........................................................26
3.1. MỘT SỐ YÊU CẦU CHUNG.........................................................................26
3.1.1. Nghiên cứu tài liệu, SGK, SGV, thiết kế bài giảng.......................................26
3.1.2. Định hướng thiết kế bài dạy..........................................................................26
3.2.2. Nhiệm vụ thiết kế..........................................................................................27
3.2.3. Nội dung của thiết kế....................................................................................27
3.2.4. Phương pháp thiết kế....................................................................................27
3.2.5. Cấu trúc thiết kế............................................................................................27
3.2.6. Giáo án..........................................................................................................28
3.3. THỂ NGHIỆM.................................................................................................28
3.3.1. Mục đích thể nghiệm....................................................................................28
3.3.2. Đối tượng thể nghiệm...................................................................................28
3.3.3. Nội dung thể nghiệm.....................................................................................28
3.3.4. Cách thức tiến hành......................................................................................29
3.3.5. Cách thức đánh giá kết quả thể nghiệm........................................................29

C. PHẦN KẾT LUẬN...........................................................................................31
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................................33

SVTH: Cao Thị Mỹ Hạnh

Lớp: ĐHGD Tiểu học A - K58


Bài tiểu luận
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Bảo vệ môi trường (BVMT) là vấn đề mang tính sống còn của đất nước, của
nhân loại, là một trong những yếu tố quyết định sự phát triển bền vững, liên quan
chặt chẽ tới sự phát triển kinh tế - xã hội, gắn liền với cuộc đấu tranh xóa đói, giảm
nghèo đảm bảo công bằng xã hội, ổn định chính trị và an ninh quốc gia. Yếu tố
môi trường ngày càng ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm, hàng hóa, năng lực
cạnh tranh của nền kinh tế. Môi trường còn ảnh hưởng trực tiếp tới sự phát triển
thể chất con người, phát triển giống nòi. Sau 10 năm thực hiện Luật BVMT, 6 năm
thực hiện Chỉ thị 36 - CT/TW của Bộ chính trị (khóa VIII), công tác BVMT đã có
những chuyển biến và đạt được một số tiến bộ nhất định. Tuy nhiên, công tác
BVMT cũng còn nhiều tồn tại và yếu kém, trong đó đang nảy sinh những mâu
thuẫn ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của đất nước [3].
Trong hệ thống giáo dục quốc dân thì tiểu học là bậc học quan trọng nhất, là
bậc học đặt nền móng cho sự phát triển của xã hội về vật chất và tinh thần, là cơ sở
ban đầu hết sức quan trọng trong việc đào tạo thế hệ trẻ thành những con người có
tri thức khoa học, có tư duy sáng tạo, có năng lực thực hành, có tác phong công
nghiệp, tính tổ chức kỉ luật cao. Hơn nữa, ở bậc học này còn trang bị những kiến
thức cơ bản phù hợp với độ tuổi và tâm sinh lí của HS về các yếu tố môi trường,
vai trò của môi trường đối với con người và tác động của con người đối với môi
trường, giáo dục cho HS có ý thức trong việc BVMT, phát triển khả năng bảo vệ

và giữ gìn môi trường.
Môn Tự nhiên và xã hội nhằm cung cấp cho HS những kiến thức cơ bản, ban
đầu và thiết thực về con người ở hai khía cạnh sinh học và nhân văn, về xã hội theo
không gian và thời gian, về thế giới vật chất xung quanh bao gồm cả thế giới vô
sinh và hữu sinh. Từ đó hình thành ở HS ý thức thái độ, cách ứng xử đúng đắn với
bản thân, gia đình, nhà trường và xã hội, thể hiện tình yêu thiên nhiên với quê
hương đất nước đồng thời hình thành lòng ham hiểu biết cho HS.

SVTH: Cao Thị Mỹ Hạnh

1

Lớp: ĐHGD Tiểu học A - K58


Bài tiểu luận
Đối với HS lớp 3, ở lứa tuổi này các em còn mang đậm bản sắc hồn nhiên, sự
chú ý chưa cao. Bên cạnh hoạt động học là hoạt động chủ đạo thì nhu cầu vui chơi
giao lưu với bạn bè vẫn còn tồn tại và cần thỏa mãn. Nếu GV biết phối hợp nhịp
nhàng giữa hoạt động học và sự thỏa mãn nhu cầu vui chơi, giao tiếp của các em
thì các em sẽ say mê học tập, tất yếu kết quả học tập sẽ cao. Đây cũng là đặc thù
của phương pháp trò chơi học tập (TCHT).
Trong thực tiễn dạy học môn TNXH lớp 3 cho thấy: TCHT là phương pháp
dạy học mới, GV sử dụng chưa nhiều. Nếu có thì GV tổ chức cho HS chơi nhưng
chưa theo quy trình chặt chẽ mà còn lộn xộn, trò chơi chưa làm nổi bật được trong
tâm của bài học, GV mới chỉ sử dụng trò chơi để củng cố bài chứ chưa nhằm cung
cấp kiến thức chưa xem trò chơi là phương pháp dạy học. Vì vậy, việc sử dụng
phương pháp trò chơi trong dạy học chưa đạt kết quả cao.
Xuất phát từ những lí do trên, tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: "Vận dụng trò
chơi học tập để giáo dục môi trường trong dạy học môn Tự nhiên và xã hội lớp 3".

2. Mục đích nghiên cứu
Vận dụng trò chơi học tập để nâng cao hiệu quả giáo dục môi trường trong
dạy học môn Tự nhiên và xã hội lớp 3.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu: HS lớp 3 Trường Tiểu học Yên Hóa - huyện Minh Hóa
- tỉnh Quảng Bình
Đối tượng nghiên cứu: Vận dụng trò chơi học tập để giáo dục môi trường
trường trong dạy học môn Tự nhiên và xã hội lớp 3.
4. Giả thuyết khoa học
Nếu giáo viên biết vận dụng một cách linh hoạt và hợp lí một số trò chơi học
tập trong dạy học môn Tự nhiên và xã hội lớp 3 thì sẽ nâng cao hiệu quả giáo dục
môi trường cho học sinh tiểu học.
5. Các nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn của vấn đề giáo dục môi trường trong
dạy học môn Tự nhiên và xã hội lớp 3 nói chung và giáo dục môi trường bằng trò
chơi học tập nói riêng;
SVTH: Cao Thị Mỹ Hạnh

2

Lớp: ĐHGD Tiểu học A - K58


Bài tiểu luận
Vận dụng một số trò chơi học tập để giáo dục môi trường cho học sinh tiểu
học qua môn tự nhiên và xã hội lớp 3;
Thực nghiệm để kiểm nghiệm tính khả thi của vấn đề nghiên cứu.
6. Phạm vi nghiên cứu
Vận dụng TCHT để GDMT cho HS lớp 3 Trường Tiểu học Yên hóa - huyện
Minh Hóa - tỉnh Quảng Bình

7. Các phương pháp nghiên cứu
7.1. Các phương pháp nghiên cứu lí luận
- Phương pháp nghiên cứu lí thuyết các vấn đề có liên quan đến GDMT và trò
chơi.
- Phương pháp phân tích hệ thống: GDMT cho học sinh tiểu học không
được dạy riêng lẻ như một môn học ở trường tiểu học mà nội dung GDMT
được tích hợp trong các môn học khác như: TNXH, Lịch sử và Địa lí, Khoa học,
Đạo đức... Chính vì vậy khi nghiên cứu vấn đề GDMT nói chung và vận dụng một
số trò chơi học tập nhằm nâng cao chất lượng GDMT cho học sinh nói riêng cần
nghiên cứu nó trong hệ thống mục tiêu giáo dục, chương trình, nội dung sách giáo
khoa, cách thức tổ chức dạy học của giáo viên, khả năng tiếp thu kiến thức của học
sinh.
- Phương pháp hệ thống hoá: Từ việc nghiên cứu, phân tích các vấn đề có liên
quan tới phương pháp này được sử dụng nhằm xây dựng và trình bày các nội dung
được nghiên cứu.
7.2. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
- Phương pháp quan sát: tiến hành quan sát các hoạt động GDMT của học
sinh tại trường tiểu học nhằm tìm hiểu kinh nghiệm sử dụng trò chơi để GDMT
cho học sinh thông qua dạy học môn TNXH lớp 3.
- Phương pháp đàm thoại:
+ Trao đổi với giáo viên để tìm hiểu quan niệm, thái độ, cách thức tổ chức
dạy học mà họ đã tiến hành nhằm GDMT cho học sinh trong dạy học môn TNXH
lớp 3, những thuận lợi và khó khăn mà giáo viên đã gặp phải khi GDMT cho HS.
- Phương pháp điều tra:
SVTH: Cao Thị Mỹ Hạnh

3

Lớp: ĐHGD Tiểu học A - K58



Bài tiểu luận
+ Điều tra nhận thức giáo viên về các vấn đề môi trường, các hình thức đã sử
dụng để GDMT cho học sinh thông qua môn TNXH cũng như hiệu quả của nó.
- Phương pháp thể nghiệm: Dựa vào giả thuyết khoa học đã đặt ra tiến hành
thể nghiệm ở trường tiểu học để xem xét hiệu quả và tính khả thi của việc sử dụng
trò chơi học tập để GDMT cho học sinh tiểu học thông qua môn TNXH lớp 3 như
đã đề xuất.

SVTH: Cao Thị Mỹ Hạnh

4

Lớp: ĐHGD Tiểu học A - K58


Bài tiểu luận
8. Cấu trúc của khóa luận
Tiểu luận gồm các phần: mở đầu, 3 chương và kết luận. Trong đó:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc vận dụng trò chơi học tập để
GDMT trong dạy học môn TNXH lớp 3
Chương 2: Đề xuất một số trò chơi học tập để GDMT trong dạy học môn
TNXH lớp 3
Chương 3: Thiết kế - Thể nghiệm

SVTH: Cao Thị Mỹ Hạnh

5

Lớp: ĐHGD Tiểu học A - K58



Bài tiểu luận
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN DỤNG
TRÒ CHƠI HỌC TẬP ĐỂ GIÁO DỤC MÔI TRƯỜNG TRONG DẠY HỌC
MÔN TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI LỚP 3
1.1. CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1.1. Vấn đề môi trường và GDMT
Trên thế giới, việc GDMT được tiến hành từ những năm đầu của thập niên
70 và từ đó đến nay, dưới sự hướng dẫn và theo dõi của các tổ chức MT của
Liên Hiệp Quốc, GDMT đã phát triển mạnh mẽ và sâu rộng.
Do nhận thức rõ tình trạng MT bị biến đổi ngày càng xấu đi, Liên Hiệp Quốc
đã tổ chức hội nghị Quốc tế về “Con người và MT” tại Stôckhôm (Thụy Điển) từ
ngày 5 - 15/6/1972. Tại hội nghị này, các thành viên đã nhất trí nhận định: Việc
bảo vệ thiên nhiên và MT là một trong hai nhiệm vụ hàng đầu của toàn nhân loại
(cùng với nhiệm vụ bảo vệ hòa bình chống chiến tranh). Từ đó, ngày 5 tháng 6
hàng năm trở thành "Ngày MT thế giới". Hội nghị cũng đã tuyên bố GDMT là
phương pháp quan trọng để hình thành nhận thức và hành vi có trách nhiệm cho
cá nhân và tổ chức trong việc bảo vệ và cải thiện MT, là một yếu tố quyết định
trong việc giải quyết cuộc khủng hoảng MT trên toàn thế giới.
Sau hội nghị Stôckhôm năm 1972, GDMT đã được đưa vào các trường học.
Có khoảng hơn 1000 chương trình MT và BVMT được giảng dạy trong 750 trường
thuộc 70 nước khác nhau. Tuy nhiên, về mục đích, nội dung và phương pháp
GDMT phải đợi đến nhiều hội nghị quốc tế sau đó mới được giải quyết và hoàn
thiện dần.
Hội nghị quốc tế về GDMT họp tại Belgrade (Nam Tư) vào tháng 10 năm
1975, lần đầu tiên tổ chức Giáo dục khoa học và văn hóa của Liên hợp Quốc
(UNESCO) đã khởi thảo một chương trình về GDMT, qua đó vạch ra các nguyên lí
và chiến lược GDMT cho thế hệ trẻ trên toàn thế giới.

Tiếp sau đó, nhiều hội thảo khu vực về GDMT được tổ chức, trong đó, hội
thảo khu vực châu Á - Thái Bình Dương được tổ chức tại Băng Cốc (Thái Lan)


Bài tiểu luận
vào tháng 10 năm 1976 đã đưa ra bốn vấn đề: (1)-Chương trình GDMT; (2) - Đào
tạo và bồi dưỡng giáo viên; (3) - GDMT phi chính quy và vấn đề soạn thảo tài liệu;
(4) - Xây dựng các phương tiện giảng dạy GDMT.
Hội nghị liên chính phủ về GDMT được tổ chức tại Tbilixi (Grudia) vào
tháng 10 năm 1977 với sự tham gia của 66 quốc gia thành viên UNESCO. Hội
nghị này là đỉnh cao của giai đoạn xây dựng chương trình và đặt cơ sở cho sự phát
triển GDMT trên bình diện quốc tế. Nhiều hội thảo khu vực lại được tiếp tục trong
đó có hội thảo khu vực châu Á - Thái Bình Dương được tổ chức tại Băng Cốc
(Thái Lan) vào tháng 9 năm 1980 với sự tham gia của 17 nước. Tại hội thảo này,
các nước đã trao đổi kinh nghiệm GDMT, đồng thời hội thảo cũng đã nêu ra sự cần
thiết phải đưa GDMT vào các trường đại học và đào tạo, bồi dưỡng cho các đối
tượng khác nhau (bồi dưỡng giáo viên dạy đại học, trung học, tiểu học). [7]
Tháng 8 năm 1987, UNESCO và UNEP phối hợp tổ chức hội nghị quốc tế về
GDMT tại Matxcơva (Nga), với sự tham gia của đại diện hơn 100 nước và nhiều tổ
chức quốc tế khác nhau. Hội nghị đã xây dựng chiến lược quốc tế về chương trình
hành động GDMT cho thập kỷ 90 gồm 9 mục tiêu về tăng cường hệ thống thông
tin quốc tế và trao đổi kinh nghiệm, đẩy mạnh nghiên cứu thực nghiệm về nội
dung, phương pháp GDMT, xây dựng hoàn thiện chương trình và tài liệu, phương
pháp GDMT, xây dựng hoàn thiện chương trình và tài liệu, phương tiện cho
GDMT ở mọi cấp học và đặt tên cho thập kỷ 90 là "Thập kỉ toàn thế giới cho
GDMT".[7]
Để thực hiện chương trình hành động GDMT thập kỷ 90, UNESCO và UNEP
phối hợp tổ chức hội nghị quốc tế về GDMT tại Pari (Pháp) vào tháng 10 năm
1990. Hội nghị nhằm trao đổi về trách nhiệm của từng tổ chức quốc tế trong lĩnh
vực GDMT, và một lần nữa nhấn mạnh nhiệm vụ GDMT cho tất cả mọi người đặc

biệt là cho thế hệ trẻ và việc bồi dưỡng kiến thức MT cho giáo viên các cấp.
Tháng 6 năm 1992, Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu về "MT và phát triển" đã
diễn ra tại Rio de Janeiro (Brazil). Hội nghị đã thông qua chương trình hành động
cho thế kỉ XXI. Các quốc gia, các dân tộc theo đó giải quyết vấn đề MT trong quan
hệ hữu cơ với sự phát triển của cộng đồng. Các vấn đề cụ thể được nêu lên ở hội


Bài tiểu luận
nghị này là: Bảo vệ tầng khí quyển, chống nạn phá rừng, chống sa mạc hóa và hạn
hán, bảo vệ sự đa dạng sinh học, bảo vệ tài nguyên nước, xử lí các chất độc hại,
nâng cao và cải thiện điều kiện sống, bảo vệ sức khỏe con người, chấm dứt sự
thoái hóa của MT.
Gần đây, Hội nghị thượng đỉnh toàn cầu "MT và phát triển" được tổ chức lần
thứ hai tại Niu Ooc (Mĩ). Hội nghị đã tổng kết và đánh giá những nhiệm vụ đã
thực hiện trong 5 năm mà hội nghị lần một đã đề ra.[3]
Có thể nhận thấy rằng, vấn đề GDMT trong nhiều năm qua đã được các hội
nghị quốc tế và khu vực quan tâm. Nội dung chủ yếu mà các hội nghị này đưa ra là
các chương trình, chiến lược và giải pháp GDMT chung cho tất cả các quốc gia
trên toàn thế giới.
Ở nước ta, việc giáo dục MT mới được bắt đầu từ những năm cuối của thập
niên 70, còn việc GDMT trong nhà trường phổ thông mới được thực hiện vào đầu
năm 1981 cùng với kế hoạch cải cách giáo dục.
Từ năm học 1986 đến 1992 các sách giáo khoa Tiểu học, trung học cơ sở và
trung học phổ thông với một số nội dung được cải tiến, trong đó vấn đề GDMT đã
được quan tâm nhiều hơn. Đặc biệt, bắt đầu từ năm học 2002 - 2003, việc đổi mới
nội dung chương trình, SGK với nhiều bài, nhiều mục, nhiều nội dung GDMT
được đưa vào các môn học tạo điều kiện thuận lợi cho việc GDMT trong nhà
trường phổ thông.
Tuy nhiên, hiện tại nhận thức và hành động tiêu cực của đông đảo quần
chúng, trong đó có cả học sinh vẫn còn là trở ngại lớn cho việc BVMT và thiên

nhiên ở nước ta. Do đó việc nâng cao nhận thức cho nhân dân và học sinh về MT
và BVMT cần được quan tâm hơn. Kiến thức MT và phát triển bền vững phải đưa
dần từng bước giúp học sinh có ý thức tự giác từ nhỏ cho đến hết đời mình. Chúng
ta nhận thấy, công tác GDMT ở nước ta những năm qua tuy đã thu được một số kết
quả bước đầu nhưng đang còn nhiều tồn tại và thiếu sót. Theo đánh giá của các tác
giả Đinh Quang Báo và Dương Tiến Sỹ: "tài liệu phục vụ GDMT còn thiên về
cung cấp kiến thức chưa đề cập đến phương pháp, hình thức GDMT, thiếu phương
pháp, biện pháp giáo dục kĩ năng, thái độ, hành vi BVMT, dẫn tới việc khai thác


Bài tiểu luận
tri thức MT và BVMT lồng ghép tích hợp trong nội dung môn học còn gặp nhiều
lúng túng và mức độ thực hiện còn hạn chế”. Để khắc phục những thiếu sót trên và
thực hiện mục tiêu GDMT trong quá trình dạy học, cần phải triển khai đồng bộ các
hướng nghiên cứu khoa học lấy GDMT làm định hướng và cơ sở thực hiện . Bên
cạnh đó, cần tập trung nghiên cứu khai thác các nội dung GDMT được lồng ghép
tích hợp trong các môn học, các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học sao cho
phát huy được tính tích cực sáng tạo của học sinh, đảm bảo GDMT sát với yêu cầu
thực tiễn.
1.1.2. Một số khái niệm
-

Ta có thể hiểu khái niệm MT như sau: MT là toàn bộ các hệ thống tự nhiên

và các hệ thống xã hội do con người tạo ra, chúng có mối quan hệ mật thiết với
nhau, bao xung quanh con người và ảnh hưởng tới đời sống sản xuất, sự tồn tại,
phát triển của con người và thiên nhiên.
- Khoa học MT là một trường học liên ngành tích hợp các khoa học vật lí,
sinh học (bao gồm nhưng không giới hạn Sinh thái học, Vật lí, Hóa học, Sinh học,
khoa học đất, Địa chất, khoa học khí quyển và Địa lí) cho việc nghiên cứu MT và

các giải pháp về vấn đề MT.
Khái niệm này được giải thích là: “Ý muốn hướng tới việc bảo tồn những di
sản của thiên nhiên và việc chăm sóc chúng”.
Vì vậy bảo vệ thiên nhiên được coi là bảo tồn những đối tượng hiếm, đặc hữu
của tự nhiên để chúng khỏi bị tiêu diệt. Từ đó, người ta bắt đầu xây dựng những
khu rừng cấm để nhằm bảo vệ toàn vẹn các điều kiện tự nhiên của những khu vực
nhất định.[6]
- BVMT như lời kêu gọi sự quan tâm thích đáng và hợp lí tới MT. Ngay lập
tức phải hợp tác với nhau một cách đầy thiện ý trong việc sử dụng, quản lí nguồn
tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ tính đa dạng sinh học, sự cân bằng sinh thái, phòng
chống sự suy thoái và ô nhiễm MT.
- GDMT là tiền đề của sự phát triển bền vững. GDMT là làm cho từng người
và cộng đồng hiểu được bản chất phức tạp của MT tự nhiên và nhân tạo, có được


Bài tiểu luận
tri thức thái độ và kĩ năng thực tế để tham gia có hiệu quả và có trách nhiệm vào
việc tiên đoán và giải quyết các vấn đề MT và quản lí chất lượng MT.
1.1.3. Trò chơi học tập
1.1.3.1. Nguồn gốc của trò chơi
Từ thời kì nguyên thủy con người đã có nhu cầu về chơi, sau những ngày làm
việc mệt nhọc như săn bắt, hái lượm người ta tụ tập nhau lại để bày tỏ sự vui mừng
của mình và họ nhảy múa, reo hò suốt đêm.
Trong những cuộc vui như vậy thì những người lập được chiến công thường
kể lại, diễn lại những thao tác quyết định như ném đá, phóng lao, đuổi bắt... nhờ
những hành động đó mà họ bắt được nhiều thú rừng. Cứ như vậy sự bắt chước đã
biến thành TC và dần dần TC ngày càng đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống,
TC là một món ăn tinh thần tiếp thêm sức mạnh cho người lao động. Đây là nguồn
gốc, là sự ra đời sơ khai nhất của TC. Lúc đầu sự bắt trước mang tính chân thực và
đơn điệu, nhưng rồi trong quá trình chơi mỗi người thêm bớt một chút sẽ dần dần

làm cho TC mang tính khái quát và trìu tượng từ đó tư duy và ngôn ngữ của con
người cũng phát triển.
Cũng nhờ khả năng tư duy, ngôn ngữ phát triển mà con người bắt đầu biết
tích lũy kinh nghiệm trong cuộc sống. Nhờ vậy, mà chúng ta dần dần thấy được
tầm quan trọng của sự chuẩn bị trước các công cụ lao động, sức khỏe và sự tập
luyện những tao tác cơ bản nhờ đó mà hiệu quả lao động đạt được cao hơn. Lúc
đầu sự chuẩn bị các thao tác này mang tính chất tự nhiên dưới hình thức vui chơi
mà tập luyện, tập luyện mà vui chơi, sau đó người ta dùng TC để dạy cho con
cháu, dạy cho lớp trẻ, chuẩn bị cho họ tiếp bước cha anh tham gia tích cực, có hiệu
quả vào cuộc sống lao động, đấu tranh sinh tồn và phát triển của mình. Như vậy
sau khi ra đời TC đã mang ý nghĩa giáo dục rất cao và có một vai trò quan trọng
trong xã hội loài người. Cuộc sống xã hội ngày càng phát triển, trường học được
hình thành và ngày càng mở rộng và là nơi thu hút những mần non của xã hội. Ở
đây người ta sử dụng nhiều nội dung, nhiều phương pháp để giáo dục, rèn luyện
thế hệ trẻ trong đó có TC. Ngày nay cũng vậy TC trở thành một trong những
phương pháp giáo dục hiệu quả nhất, đặc biệt đối với trẻ bậc tiểu học.


Bài tiểu luận
1.1.3.2. Phân loại trò chơi
Bao gồm TC diễn ra giữa hai người hay hai phe, giữa nhiều người hay nhiều
phe mà kết quả bao giờ cũng có người thắng, kẻ thua. Loại TC này thường thu hút
được nhiều người tham gia. Bởi lẽ, quyền lợi của người chơi và người cổ vũ gắn
chặt với nhau.
1.1.3.3. Cách tổ chức một trò chơi học tập
Khi tổ chức một TCHT GV cần tiến hành theo các bước sau:
Bước 1: Giới thiệu tên TC, hướng dẫn cách chơi, thời gian chơi và phổ biến
luật chơi.
Bước 2: Cho HS chơi thử (nếu cần) nhằm giúp HS có biểu tượng về TC.
Bước 3: Chơi thật.

Bước 4: Nhận xét kết quả TC (có thể thưởng hoặc phạt người thắng hoặc
người thua). Nhận xét thái độ của người chơi và rút kinh nghiệm.
Bước 5: Kết thúc: GV hỏi xem HS đã học được gì qua TC hoặc GV tổng kết
những gì cần học thông qua TC này.
1.1.3.4. Cách xây dựng một trò chơi học tập
Khi xây dựng TCHT GV cần tuân thủ những bước sau:
Bước 1: Lựa chọn trò chơi
- Phân tích yêu cầu cần đạt được của bài học. 10
- Chọn thử TC nào đó để phân tích nội dung bài học và khả năng ứng dụng
của TC đó.
- Đối chiếu khả năng giáo dục của TC (vừa chọn thử) với yêu cầu bài học
(nếu thấy không phù hợp thì cần trở lại việc chọn thử TC).
Bước 2: Chuẩn bị tổ chức trò chơi
- GV thiết kế giáo án chuẩn bị đầy đủ các phương tiện, đồ dùng phục vụ TC.
- Chuẩn bị thực hiện giáo án.
Bước 3: Giới thiệu và giải thích cách chơiGV nêu tên TC, cách thức chơi,
những thao tác cần thiết, cố gắng thật ngắn gọn, rõ ràng làm sao để HS hiểu rõ
cách thực hiện TC.
Bước 4: Điều khiển, nhận xét, đánh giá


Bài tiểu luận
1.1.4. Vai trò của TCHT trong GDMT cho HSTH
Cùng với học, chơi là nhu cầu không thể thiếu được của HSTH. Lí luận và
thực tiễn đã chứng tỏ rằng: Nếu biết tổ chức cho trẻ vui chơi một cách hợp lí, đúng
đắn thì đều mang lại hiệu quả giáo dục. Học trong quá trình chơi là quá trình lĩnh
hội tri thức, vốn sống, kinh nghiệm xã hội một cách nhẹ nhàng, tự nhiên không gò
bó phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí HSTH. Học bằng chơi sẽ khơi dậy hứng thú
tự nguyện, làm giảm sự căng thẳng thần kinh ở các em, giữ được sự hồn nhiên của
trẻ thơ. Chính vì vậy, việc vận dụng trò chơi để GDMT thì hiệu quả giáo dục sẽ

nâng cao. Cụ thể là:
- Mục tiêu cuối cùng của vấn đề GDMT là hình thành hành vi đúng đắn.
Trong khi đó, nội dung trò chơi sẽ minh họa một cách sinh động các mẫu hành
vi này. Nhờ đó mà các hành vi này sẽ tạo được những biểu tượng rõ rệt ở HS,
giúp các em ghi nhớ dễ dàng và lâu bền.
- Nguyên nhân quan trọng gây ra hiện tượng xuống cấp MT là do những hành
động và suy nghĩ trước đây của loài người. Nhiều người trong chúng ta vẫn chưa
thấy được lợi ích về sự thay đổi hành vi và thói quen ứng xử với MT. Ngay cả
những người hiểu được cũng không thường xuyên thực hiện ý muốn này. Việc thay
đổi thái độ và hành vi của con người đòi hỏi phải có một chiến dịch tuyên truyền
đồng bộ. Trong khi đó, qua TC rất dễ làm thay đổi thái độ và hành
vi về MT.Cũng như, qua TC HS được luyện tập những kĩ năng những thao tác
hành vi đúng đắn về vấn đề MT, giúp các em thể hiện hành vi một cách đúng đắn
và tự nhiên.
- Qua TC, HS có cơ hội thể nghiệm những chuẩn mực hành vi BVMT. Chính
nhờ sự thể hiện này, sẽ hình thành được ở HS niềm tin về những chuẩn mực hành
vi đã học, tạo ra động cơ bên trong cho những hành vi BVMT trong cuộc sống.
- Qua trò chơi, HS sẽ được rèn luyện khả năng quyết định lựa chọn cho mình
một cách ứng xử đúng đắn, phù hợp với MT.
Qua trò chơi, HS được hình thành năng lực quan sát, được rèn luyện kĩ năng
nhận xét, đánh giá hành vi của người khác là phù hợp hay không phù hợp với
chuẩn mực hành vi BVMT.


Bài tiểu luận
1.1.5. Giáo dục môi trường trong trường tiểu học
1.1.5.1. Mục tiêu GDMT trong trường tiểu học
Xuất phát từ mục tiêu chung về GDMT, các nước sẽ xây dựng mục tiêu riêng
cho nước mình, phù hợp với đặc điểm lứa tuổi, trình độ nhận thức và khả năng
hành động của từng cấp học, dựa trên tiêu chuẩn quan trọng nhất là hành động tích

cực của cá nhân và tập thể trong việc cải thiện chất lượng MT. Thông qua chỉ thị
36/CT-TƯ đưa ra ngày 25/6/1998 của bộ chính trị về “tăng cường công tác BVMT
trong thời kì công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước” ở đó có công tác GDMT là
giải pháp đầu tiên: “Thường xuyên giáo dục, tuyên truyền, xây dựng thói quen,
nếp sống và phong trào quần chúng BVMT”. Vì vậy, mục tiêu GDMT trong nhà
trường phổ thông nhằm: “Mỗi trẻ được trang bị một ý thức trách nhiệm đối với sự
phát triển bền vững của Trái Đất, một khả năng biết đánh giá vẻ đẹp của thiên
nhiên và một giá trị nhân cách được khắc sâu bởi một nền tảng đạo lí về môi
trường”.[1]
1.1.5.2. Nhiệm vụ GDMT ở trường tiểu học
GDMT là một quá trình nâng cao nhận thức, rèn luyện kĩ năng, hình thành
thái độ và hành vi đúng đắn cho HS về vấn đề MT. Do đó nó có các nhiệm vụ sau:
[1]
- Làm cho HS hiểu biết về thiên nhiên, về MT nói chung và MT Việt Nam nói
riêng. Nhận thức rõ mối quan hệ khắng khít với sự tác động tương hỗ giữa các sinh
vật với các yếu tố của MT. Tầm quan trọng của MT đối với sự tồn tại và phát triển
của xã hội loài người.
- Trên cơ sở những hiểu biết đó, giáo dục cho HS ý thức, thái độ, sự quan
tâm, hành vi cư xử đúng mực với môi trường và BVMT, dần dần hình thành ở
HS lòng yêu thiên nhiên, mong muốn được bảo vệ môi trường sống, các
phongcảnh đẹp, các di tích văn hoá, lịch sử của đất nước và cuối cùng làm cho
việc BVMT trở thành phong cách, nếp sống của HS.
- Trang bị cho HS các kĩ năng và biện pháp BVMT thông thường trong sinh
hoạt và lao động sản xuất để sau này ra đời các em có thể tham gia một cách có
hiệu quả trong việc BVMT ở nơi sinh sống và làm việc.


Bài tiểu luận
1.1.5.3. Nội dung GDMT có trong nội dung chương trình môn TNXH
Phần lớn các nội dung GDMT đều được đưa vào nội dung các môn học để

giáo dục cho HS. Trong môn TNXH nội dung GDMT được đưa vào với các lĩnh
vực sau:
- Những kiến thức về môi trường và các yếu tố của môi trường bao gồm: các
yếu tố của MT tự nhiên và các yếu tố của MT nhân tạo, các điều kiện sinh thái của
MT, quan hệ giữa các yếu tố sinh thái của MT với đời sống của con người.
- Những tác động của MT đến đời sống sinh vật và con người bao gồm: tác
động đến MT đến sự tồn tại và phát triển của động thực vật và con người; tác động
đến các điều kiện lao động sản xuất của con người, tác động đến các điều kiện nghỉ
ngơi, giải trí và sức khoẻ của con người.
- Những tác động của con người và của động thực vật đến MT bao gồm: việc
khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên, việc bảo vệ và cải tạo MT
tự nhiên, những nguyên nhân gây biến đổi MT.
- Những kĩ năng học tập và BVMT bao gồm: các kĩ năng học tập như điều tra
quan sát thực tế....Các kĩ năng BVMT như: vệ sinh nhà cửa, trường lớp, xử lí chất
thải.
1.1.6. Đặc điểm nhận thức của HS tiểu học
- Tri giác mang tính đại thể, toàn bộ, ít đi sâu vào chi tiết tuy nhiên trẻ cũng
bắt đấu có khả năng phân tích dấu hiệu, chi tiết nhỏ của một số đối tượng nào đó.
Tri giác thường gắn với hành động, với hoạt động thực tiễn.
Tri giác và đánh giá không gian và thời gian còn hạn chế: tri gác chưa chính
xác độ lớn của những vật quá lớn hoặc quá nhỏ.
- Tư duy của trẻ mới đến trường là tư duy cụ thể, mang tính hình thức, dựa
vào đặc điểm bên ngoài. Nhờ hoạt động học tập tư duy gần mang tính khái quát.
khi khái quát HSTH thường dựa vào chức năng và công dụng của chúng, trên cơ
sở này HS tiến hành phân loại, phân hạng. Hoạt động phân tích tổng hợp còn sơ
đẳng. Việc học TNXH sẽ giúp các em biết phân tích và tổng hợp. Trẻ thường
gặp khó khăn trong việc thiết lập mối quan hệ nhân - quả.


Bài tiểu luận

- Tưởng tượng còn tản mạn, ít có tổ chức, hình ảnh tưởng tượng thì đơn
giản, hay thay đổi. Tưởng tượng tái tạo từng bước hoàn thiện.
- Chú ý không chủ định vẫn phát triển, chú ý có chủ định còn yếu và thiếu bền
vững. Sự phát triển chú ý gắn liền với sự phát triển của hoạt động học tập.
- Trí nhớ trực quan hình tượng phát triển hơn trí nhớ từ ngữ lôgic. Nhiều
HSTH còn chưa biết việc tổ chức ghi nhớ có ý nghĩa mà có khuynh hướng
phát triển trí nhớ máy móc. Ghi nhớ gắn với mục đích đã giúp trẻ nhớ nhanh hơn,
lâu hơn và chính xác hơn.[5]
Tóm lại, đặc điểm nhận thức của HSTH là tri giác mang tính đại thể, sự tập
chung chú ý còn yếu, tư duy cụ thể và khả năng phân tích chưa cao. vì vậy để giúp
HSTH học tốt môn TNXH cần sử dụng phương tiện trực quan sinh động, tham
quan thảo luận và đặc biệt là sử dụng phương pháp trò chơi học tập.
1.2. CƠ SỞ THỰC TIỄN
1.2.1. Đặc điểm môn học
1.2.1.1. Môn TNXH là môn học được xây dựng theo quan điểm tích hợp
- Dạy học theo quan điểm tích hợp là sự trình bày các khái niệm, các nguyên
lí khoa học cho phép sự diễn đạt thống nhất một cách cơ bản của tư tưởng khoa
học, tránh nhấn mạnh quá sớm hoặc quá muộn về sự khai thác giữa các lĩnh vực
khác nhau.
- Tính tích hợp trong môn TNXH ở tiểu học được thể hiện như sau:
+ Môn TNXH xem xét con người trong một thể thống nhất có mối quan hệ
qua lại và tác động khác nhau trong đó có con người là yếu tố cốt lõi, yếu tố quyết
định.
+ Môn TNXH được hình thành từ tri thức của nhiều lĩnh vực khoa học.
- Trong chương trình môn TNXH ở tiểu học tích hợp được thể hiện ở nội
dung và phương pháp dạy học với nhiều mức độ và hình thức khác nhau được thể
hiện theo 2 giai đoạn của quá trình nhận thức:
+ Giai đoạn lớp 1, 2, 3: Ở giai đoạn này HS có cách nhìn nhận về môi trường
ở dạng tổng thể vì vậy nội dung kiến thức được chia theo dạng chủ điểm: gia đình,
con người, xã hội... sở dĩ như vậy là do nhận thức trực quan hình tượng của trẻ còn



Bài tiểu luận
chiếm ưu thế, khả năng phân tích chưa cao, trẻ khó xác định mối quan hệ giữa các
sự vật hiện tượng với nhau.
+ Giai đoạn lớp 4, 5: HS đã bước đầu có khả năng phân tích, so sánh, tổng
hợp đặc biệt là khả năng tư duy trìu tượng phát triển hơn. Vì vậy trẻ có khả năng
tiếp thu kiến thức về mặt bản chất do đó chương trình được cấu tạo dưới dạng các
phân môn: khoa học, lịch sử và địa lí.[13]
1.2.1.2. Môn TNXH được xây dựng theo hướng đồng tâm
Các kiến thức trong chương trình được trình bày từ gần đến xa, từ đơn giản
đến phức tạp. Đặc biệt tăng dần tính phức tạp và khả năng khái quát ở các lớp cao
hơn.[13]
1.2.1.3. Môn TNXH là môn học cung cấp cho HS các kiến thức khoa học
Các kiến thức khoa học cung cấp cho HS về TNXH, con người gấn gũi với
đời sống hàng ngày của trẻ vì vậy HS có thể vận dụng những hiểu biết của mình về
cuộc sống để tham gia vào quá trình dạy học.[10]
1.2.1.4. Môn TNXH là môn học thực hiện theo định hướng đổi mới
Môn TNXH tạo điều kiện tối đa cho GV đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng tích cực trên cơ sở phát huy tính độc lập sáng tạo, tự chủ cho HS.[1]
1.2.2. Đặc điểm nội dung SGK môn TNXH lớp 3
Các bài TNXH lớp 3 được chia làm 3 chủ đề đó là: con người và sức khỏe,
Xã hội, Tự nhiên.
- Chủ đề con người và sức khỏe HS được tìm hiểu về:
+ Cơ quan hô hấp: nhận biết trên sơ đồ, hoạt động lao động và tập thể vừa
sức.
+ Cơ quan bài tiết nước tiểu: nhận biết trên sơ đồ, biết giữ vệ sinh.
+ Cơ quan thần kinh: nhận biết trên sơ đồ, biết ngủ, nghỉ ngơi, học tập và làm
việc điều độ.
- Chủ đề xã hội HS được tìm hiểu về:

+ Gia đình: mối quan hệ họ hàng nội ngoại (cô, dì, chú, bác, cậu và các chị
em họ); quan hệ giữa sự gia tăng số người trong gia đình và số người trong cộng
đồng; biết giữ an toàn khi ở nhà.


Bài tiểu luận
+ Trường học: một số hoạt động chính ở trường tiểu học, vai trò của GV và
HS trong các hoạt động đó; biết giữ an toàn khi ở trường.
+ Tỉnh hoặc thành phố nơi bạn đang sống: một số cơ quan hành chính, giáo
dục, văn hóa, y tế...; làng quê và đô thị; giữ vệ sinh nơi công cộng; an toàn giao
thông.
- Chủ đề tự nhiên HS được tìm hiểu về:
+ Thực vật và động vật: đặc điểm bên ngoài của một số cây xanh và con vật
(đặc điểm chung và riêng của một số cây cối, con vật).
+ Mặt trời và trái đất;
● Mặt trời: nguồn sáng và nguồn nhiệt; vai trò của mặt trời đối với sự sống
trên trái đất; trái đất trong hệ mặt trời; mặt trăng và trái đất.
● Trái đất: hình dạng đặc điểm bề mặt và sự chuyển động của trái đất; ngày
đêm, năm tháng, mùa.[12]
Như vậy ta thấy chương trình, nội dung môn TNXH lớp 3 rất đa dạng và
phong phú, bao gồm kiến thức về tự nhiên, xã hội, con người... do vậy để dạy học
môn này thành công thì GV không chỉ phải nắm vững kiến thức mà còn phải biết
lựa chọn, kết hợp các phương pháp dạy học khác nhau trong một giờ học.
1.2.3. Thực trạng nhận thức và sử dụng phương pháp trò chơi trong dạy
học môn TNXH lớp 3
Tôi tiến hành khảo sát thực trạng nhận thức và sử dụng phương pháp trò chơi
của GV trong dạy học môn TNXH lớp 3 nhằm thu thập thông tin tìm ra những ưu
điểm, hạn chế và xác định nguyên nhân của những hạn chế đó trong quá trình sử
dụng phương pháp. Từ đó có thể đề xuất các trò chơi trong dạy học để khắc phục
những nhược điểm trên.

Như vậy ở trường tiểu học môn học nào có nội dung GDMT nhiều nhất.
Chúng tôi đưa ra câu hỏi số 3 trong phiếu điều tra và kết quả thu được là:


Bài tiểu luận
Bảng 1: Khả năng GDMT qua các môn

Môn

Tiếng
Toán

Chỉ tiêu
Số lượng
Phần trăm

3
3%

Tự nhiên
Đạo đức

việt
6
6%

7
7%

Thể dục Nghệ thuật

và xã hội
10
100

4
4%

5
5%

Vậy điều đáng phấn khởi là đại đa số GVTH được thăm dò ý kiến đều cho
rằng môn TNXH là môn có nhiều khả năng GDMT cao nhất.


Bài tiểu luận
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Qua nghiên cứu cơ sở lí luận và thực tiễn của việc GDMT nói chung và việc
vận dụng TCHT để GDMT trong dạy học môn TNXH lớp 3 nói riêng, chúng tôi
nhận thấy rằng:
Hiện nay, ở nước ta, nội dung GDMT đã được đưa vào nội dung một số môn
học như: TNXH, Đạo đức, Khoa học, Địa lí và Lịch sử, Tiếng Việt…Trong đó,
môn TNXH có nội dung về thiên nhiên, con người và xã hội gần gũi bao quanh
học sinh. Đồng thời là một trong những môn học có nhiều khả năng GDMT.
Có rất nhiều hình thức và biện pháp GDMT, trong đó TCHT rất phù hợp với
tâm lí HSTH và phù hợp với nội dung môn TNXH lớp 3 đồng thời, tạo điều kiện
thuận lợi để đạt được mục tiêu GDMT.
Môn TNXH là môn học được xây dựng theo quan điểm tích hợp và phát triển
theo hướng đồng tâm nhằm cung cấp cho HS những kiến thức cơ bản ban đầu và
thiết thực về tự nhiên và xã hội. Nội dung chương trình môn TNXH lớp 3 rất đa
dạng và phong phú.

Qua khảo sát và phân tích kết quả chúng tôi nhận thấy GVTH đã có được
những nhận thức nhất định về vấn đề MT và BVMT cũng như nhận thức được tầm
quan trọng của việc GDMT qua dạy học môn TNXH lớp 3. Tuy nhiên, các hình
thức GDMT thông qua môn TNXH lớp 3 còn hết sức đơn điệu chưa tương ứng với
đặc trưng môn học cũng như hiệu quả chưa cao, đặc biệt là hình thức dạy học bằng
TCHT. Do vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu việc vận dụng TCHT để GDMT
trong dạy học môn TNXH lớp 3.


Bài tiểu luận
CHƯƠNG 2: ĐỀ XUẤT MỘT SỐ TRÒ CHƠI HỌC TẬP ĐỂ GIÁO
DỤC MÔI TRƯỜNG TRONG DẠY HỌC MÔN TỰ NHIÊN VÀ XÃ HỘI
LỚP 3
2.1. Những nội dung về MT và BVMT có trong nội dung chương trình và
SGK môn TNXH lớp 3
Để vận dụng TCHT nhằm GDMT trong dạy học môn TNXH lớp 3, trước hết, người GV cần biết được những
nội dung về MT và BVMT đã thể hiện trong từng bài học cụ thể của nội dung chương trình sách giáo khoa môn
TNXH lớp 3. Qua nghiên cứu, rà soát chúng tôi đã tiến hành thống kê các nội dung về MT và BVMT được thể hiện
trong sách giáo khoa môn TNXH, cụ thể như sau:

Chủ đề

Các nội dung về MT và BVMT

Con người - Biết được lợi ích của không khí trong lành, giúp cho
và sức

Thể hiện
qua các bài
2


hoạt động hít thở.

khoẻ
- Biết được ích lợi và có ý thức biết, thực hiện những

23, 24, 25,

hành vi nhằm giữ sạch MT xung quanh, khi ở nhà, làng

27 - 28,

Xã hội quê và trường học.

32, 36, 37,

- Sự đa dạng của MT TNXH. Có thái độ yêu mến thiên

38

nhiên và con người.
- Sự đa dạng của động vật và thực vật trong thiên nhiên.

Bài 41 đến

Có ý thức và thái độ yêu quý, bảo vệ các loài động thực vậtbài 55, 61,
đó.

69 - 70


- Các hành tinh trong hệ Mặt Trời và Trái Đất là hành
Tự nhiên

tinh có sự sống. Hình thành thái độ yêu mến thiên nhiên,
gần gũi thiên nhiên.

2.2. Vận dụng tcht để gdmt trong dạy học môn tự nhiên và xã hội lớp 3
2.2.1. Xây dựng và giới thiệu một số TCHT để GDMT trong dạy học môn
TNXH lớp 3.


Bài tiểu luận
Xuất phát từ những cơ sở lí luận và thực tiễn, do đặc điểm của môn TNXH
lớp 3 là môn học có nội dung về giới tự nhiên và xã hội gần gũi bao quanh HS, nên
trong mỗi loại trò chơi chúng tôi cố gắng xây dựng và giới thiệu một số trò chơi
thường được vận dụng khi tổ chức dạy học trong lớp và một số trò chơi thường
được vận dụng khi tổ chức dạy học ngoài thiên nhiên.
2.2.1.1. Xây dựng và giới thiệu một số trò chơi khởi động
a. Mục đích
- Giúp HS biết yêu quý và bảo vệ loài vật
b. Chuẩn bị
- Để TC mang tính hấp dẫn cao cũng như đạt được mục tiêu đề ra GV nên yêu
cầu HS có sự chuẩn bị trước ở nhà.
c. Cách tiến hành
Giáo viên có thể chia lớp ra thành 2, 3 hay 4 đội tùy ý tùy theo thời lượng cho
phép cũng như tình hình của lớp. Yêu cầu các đội cử đại diện (hoặc cả đội) lần lượt
mô phỏng lại tiếng kêu của các con vật, đội nào mô phỏng lại tiếng kêu của con vật
đã được mô phỏng rồi sẽ bị mất lượt. Đội nào mô phỏng được nhiều tiếng kêu của
con vật trong thời gian quy định là đội thắng cuộc.
2.2.1.2. Hát cho nhau nghe

a. Mục đích
- Giúp HS có hiểu biết hơn về loài vật, cây cối
- Có ý thức yêu quý, chăm sóc cũng như bảo vệ loài vật và cây cối.
b. Chuẩn bị
- GV nên yêu cầu HS có sự chuẩn bị trước ở nhà, để có sự lựa chọn tối ưu, tận
dụng các bài hát có nội dung gần với chủ đề trong bài sẽ học hoặc vừa học xong.


×