QUÁ TRÌNH BIẾN ĐỔI CÁCH TIẾP
CẬN CỦA PHÁP LUẬT QUỐC TẾ
TRONG LĨNH VỰC NGƯỜI KHUYẾT
TẬT
Người khuyết tật chiếm tỷ lệ khá lớn trong xã hội, ước tính có khoảng 10% dân số thế giới (hơn 650 triệu người)
phải sống chung với những khuyết tật. Khuyết tật là nguyên nhân khiến nhiều người phải đối mặt với nguy cơ bị vi phạm
nghiêm trọng các quyền và nhân phẩm.Vì vậy, để thay đổi cuộc sống người khuyết tật trước tiên cần bắt đầu từ thay đổi
trong nhận thức của xã hội.[1]
Trong thế kỷ trước, người ta đã chứng kiến một cuộc cách mạng lớn về vấn đề người khuyết tật, qua đó thay đổi
cách đề cập, nhìn nhận, tương tác và hỗ trợ đối với họ, cụ thể:
1.1. Giai đoạn trước năm 1970
Trong giai đoạn này, người khuyết tật mới chỉ được coi là đối tượng của tình thương; theo đó một quan niệm phổ
biến là người khuyết tật cần được hỗ trợ, chăm sóc và họ không thể và không đủ khả năng chăm lo cho cuộc sống của
mình. Việc bảo vệ, hỗ trợ họ chủ yếu dựa trên cách tiếp cận của lòng nhân đạo chứ không bắt nguồn từ nhận thức rằng họ
cũng là những chủ thể của quyền, còn nhà nước, xã hội và các cá nhân khác là những chủ thể có nghĩa vụ phải tôn trọng
và đảm bảo thực hiện các quyền ấy.
Các văn bản pháp luật quốc tế liên quan đến quyền con người được các nước phê chuẩn từ những năm 1940 đến
năm 1960, như: Tuyên ngôn Liên hợp quốc (LHQ) về Quyền con người năm 1948, Công ước của LHQ về quyền kinh tế,
văn hóa, xã hội năm 1966 và Công ước của LHQ về quyền dân sự và chính trị năm 1966… nhưng đều không đề cập trực
tiếp đến người khuyết tật.
1.2. Giai đoạn những năm 70 của thế kỷ XX đến nay
Đến năm 1970, xuất phát từ Hoa Kỳ – bằng nhiều hình thức khác nhau, người khuyết tật và các hiệp hội của họ đã
minh chứng rằng họ hoàn toàn có khả năng và có quyền được sống và lao động như những người bình thường. Sự nỗ lực
bền bỉ của họ cùng với sự thay đổi về nhận thức trong xã hội đã dẫn đến những biến đổi mạnh mẽ về chính sách và pháp
luật của Hoa Kỳ về người khuyết tật. Đến những năm 1980, những quan niệm nhân quyền tiến bộ của Hoa Kỳ về người
khuyết tật được phổ biến ở nhiều nước như Thụy Điển, Nhật Bản, Brazin…và gần đây là Hàn Quốc, Thái Lan… Tư tưởng
cốt lõi của nhận thức mới này là các vấn đề về người khuyết tật được xem xét dưới góc độ quyền con người, dựa trên quan
điểm tất cả mọi người đều có quyền được sống một cuộc sống đầy đủ và có phẩm giá đã được ghi nhận trong Tuyên ngôn
toàn thế giới về quyền con người năm 1948.[2]
Bản Tuyên bố của LHQ về quyền người chậm phát triển và Tuyên bố về quyền của người khuyết tật được thông
qua vào những năm 70 được coi là văn kiện quốc tế đầu tiên quy định rõ các nguyên tắc nhân quyền liên quan đến người
khuyết tật. Việc áp dụng những công cụ pháp lí này vào thời gian đó là bước tiến quan trọng trong việc công nhận quyền
của người khuyết tật, nâng cao nhận thức về quyền con người của người khuyết tật. Tuy nhiên, các văn kiện này sớm bị
chỉ trích bởi người ta cho rằng chúng vẫn chỉ thể hiện các quan điểm y tế và từ thiện đối với người khuyết tật và cuối cùng
làm gia tăng thêm thái độ gia trưởng đối với người khuyết tật.[3]
Theo quan điểm khuyết tật cá nhân (quan điểm y tế) này, họ cho rằng khuyết tật là do hạn chế cá nhân, là ở chính
con người đó, chú trọng rất ít hoặc không để ý đến các yếu tố về môi trường xã hội và môi trường vật thể xung quanh
người khuyết tật. Từ đó, họ quan niệm người khuyết tật có thể hưởng lợi từ phương pháp khoa học như thuốc điều trị và
các công nghệ cải thiện chức năng.Mô hình y tế chú trọng vào việc trị liệu cá nhân chứ không xem trọng việc trị liệu xã
hội.Như vậy, mô hình y tế nhìn nhận người khuyết tật là người có vấn đề về thể chất và đưa ra giải pháp chữa trị để làm
người đó “bình thường”.[4]
Vào thập niên 80, việc xác định lại vấn đề người khuyết tật theo mô hình xã hội diễn ở cấp quốc gia như là kết quả
của các phong trào ủng hộ cho quyền khuyết tật đang dấy lên ở tầm quốc tế. Và đến cuối những năm 90, mô hình xã hội
trở nên khá nổi trội trong những nghiên cứu khuyết tật trên thế giới, đó là khái niệm được sử dụng phổ biến nhất. Những
người theo quan điểm khuyết tật xã hội nhìn nhận khuyết tật là hệ quả bị xã hội loại trừ và phân biệt. Bởi vì xã hội được tổ
chức không tốt nên những người khuyết tật phải đối mặt với một số phân biệt đối xử như: i/Thái độ: thể hiện sự sợ hãi, sự
thiếu hiểu biết và ít kỳ vọng (ảnh hưởng bởi văn hóa và tín ngưỡng); ii/ Môi trường: dẫn đến việc không tiếp cận về vật
chất, ảnh hưởng đến tất cả các mặt của đời sống (trường học, cửa hàng, tòa nhà công cộng, giao thông…); iii/ Thể chế: là
những phân biệt mang tính pháp lý (ví dụ như không được lập gia đình hay có con, không được nhận vào trường học…)
[5].
Mô hình xã hội khuyết tật coi những khiếm khuyết của con người là bình thường, thể hiện sự đa dạng về hình dáng
của con người, và chỉ có xã hội là có vấn đề, là ‘khuyết tật”, qua đó đưa ra giải pháp là phải thay đổi xã hội. Chính xã hội
và chính sách cần phải cải tổ chứ không phải người khuyết tật[6].
Các quyền con người của người khuyết tật trở thành phần quan trọng trong chương trình nghị sự của các chính
sách quốc tế. Ngày càng nhiều các chương trình, quy tắc, chính sách đối với người khuyết tật được thông qua, có thể kể
đến như:Chương trình hành động thế giới liên quan đến người khuyết tật đã được thông qua bởi Đại hội đồng tại phiên
họp thứ 37 vào năm 1982; Các quy tắc tiêu chuẩn của LHQ về bình đẳng hoá cơ hội cho người khuyết tật (1993); Công
ước LHQ về xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối với phụ nữ (1999), cụ thể hóa một số nội dung liên quan đến phụ nữ
khuyết tật; Các nguyên tắc bảo vệ người mắc bệnh tâm thần và Cải thiện việc chăm sóc sức khỏe tâm thần đã được thông
qua năm 1991…
Giai đoạn 1983 – 1992 được LHQ lấy làm thập kỉ của người khuyết tật.Và đặc biệt, ngày 13/12/2006, tại kì họp lần
thứ 61 của Đại hội đồng LHQ, các nước đã nhất trí thông qua Công ước về quyền của người khuyết tật.Đây là văn bản quy
phạm pháp luật quốc tế đầu tiên khẳng định mọi tiếp cận của người khuyết tật đều dựa trên quyền của người khuyết tật.
Công ước nhằm thúc đẩy, bảo vệ và đảm bảo người khuyết tật được hưởng đầy đủ và bình đẳng tất cả quyền con người và
quyền tự do cơ bản, đồng thời, thúc đẩy sự tôn trọng phẩm giá vốn có của người khuyết tật.[7]
Từ các phân tích trên, có thể thấy rằng, trong thời gian qua, pháp luật quốc tế về người khuyết tật đã có những biến
đổi trong cách nhìn nhận về người khuyết tật, từ việc coi những người khuyết tật là đối tượng của tình thương, là đối tượng
“vô dụng” hay “bỏ đi” trong những năm 40, 50 của thế kỷ XX, đến những năm 70 đã có những biến đổi về cách tiếp cận
khi coi người khuyết tật là người, và có các quyền con người như những người bình thường. Và đến nay, với những quan
điểm tiến bộ về mô hình khuyết tật xã hội, pháp luật quốc tế đã không coi những khiếm khuyết của những người khuyết tật
là khuyết tật, mà khuyết tật ở đây chính là sự kỳ thị, sự phân biệt đối xử của xã hội.