NỘI DUNG CHẾ ĐỘ CHĂM SÓC SỨC
KHỎE NGƯỜI KHUYẾT TẬT VÀ
THỰC TIỄN THỰC HIỆN TẠI VIỆT
NAM
I. Khái quát chung về chế độ chăm sóc sức khỏe người khuyết tật
1. Khái niệm
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO): “Sức khỏe là trạng thái thoải mái toàn diện về thể chất, tâm thần và xã hội chứ
không chỉ bao gồm tình trạng không có bệnh hay thương tật”.
CSSK NKT là sự chăm sóc toàn diện, đặt trong mối liên hệ chặt chẽ và tác động giữa các yếu tố môi trường bên
ngoài (thức ăn, nước uống,…) và các yếu tố môi trường bên trong (di truyền, gen, tế bào,…) giữa các hoạt động đề phòng
sự phát sinh ra bệnh tật, phát hiện sớm bệnh tật… đến việc điều trị kịp thời và phục hồi sức khoẻ cho NKT. Bao gồm:
chăm sóc y tế (chăm sóc do ngành y tế đảm nhiệm: chăm sóc về phòng bệnh; khám bệnh, chữa bệnh; điều dưỡng, phục hồi
chức năng…) và chăm sóc ngoài y tế (do các ngành khác đảm nhiệm: tập luyện thể dục thể thao; chăm sóc về dinh dưỡng;
nước uống, vệ sinh môi trường; nhà ở;...).
Chế độ CSSK NKT: là tổng hợp các quy định về quyền của NKT được nhà nước, cộng đồng xã hội thực hiện trong
các hoạt động phòng bệnh, khám chữa bệnh, chỉnh hình, phục hồi chức năng nhằm giúp NKT ổn định sức khỏe, vượt qua
nỗi khó khăn bệnh tật, vươn lên hòa nhập cộng đồng.
2. Ý nghĩa
Ý nghĩa xã hội và nhân văn:thể hiện sự chia sẻ, cảm thông của cộng đồng với những rủi ro của NKT. Từ đó giúp
NKT khắc phục các bất lợi, khó khăn, vượt qua mặc cảm, tự ti về ngoại hình, về tật, vươn lên khẳng định bản thân.
Ý nghĩa pháp lý: bảo đảm quyền được CSSK của NKT được đề cập trong Tuyên ngôn về quyền con người của
Liên hợp quốc:“mỗi người đều có quyền… hưởng mức sống bao gồm cơm ăn, áo mặc, nhà ở, chăm
sóc y tế và phục vụ xã hội để duy trì sức khoẻ và thoả mãn nhu cầu của chính bản thân và gia
đình”, trong đó đã bao hàm quyền được CSSK. Đồng thời, thể hiện trách nhiệm của cộng đồng xã hội trong CSSKNKT.
Ý nghĩa kinh tế: tạo điều kiện cho NKT tham gia các quan hệ lao động, việc làm và để sống độc lập. NKT luôn
được đánh giá cao về lòng tận tụy và ý chí vươn lên trong công việc, khi sức khoẻ được đảm bảo, NKT sẽ có cơ hội tham
gia các hoạt động xã hội khác, thực hiện đầy đủ các quyền và nghĩa vụ công dân, có nhiều đóng góp cho công cuộc xây
dựng và phát triển đất nước.
3. Các nguyên tắc cơ bản của chế độ chăm sóc sức khỏe người khuyết tật
Đa dạng hóa các hoạt động CSSKNKT: thể hiện ở việc lồng ghép chế độ CSSKNKT với chương trình kinh tế, xã
hội; thực hiện đồng bộ chăm sóc y tế và ngoài y tế; đa dạng hóa các loại hình, cơ sở CSSK cùng với khai thác nguồn đầu
tư tài chính; phát huy sáng kiến ứng dụng khoa học kỹ thuật thích nghi với mọi dạng tật.
Xã hội hóa các hoạt động CSSK người khuyết tật: ngoài việc nhà nước thống nhất quản lý và thực hiện bằng nguồn
ngân sách nhà nước, còn huy động thêm sự tham gia của cả cộng đồng cũng như chính bản thân NKT.
Ưu tiên hợp lý trong hoạt động CSSK NKT: ưu tiên cho các đối tượng theo mức độ và dạng tật theo hướng ưu tiên
nhiều hơn cho những người có khuyết tật nặng hơn, trẻ em khuyết tật, người cao tuổi khuyết tật, phụ nữ có thai khuyết tật,
người khuyết tật có công với cách mạng như miễn giảm phí y tế, ưu tiên thứ tự cấp thuốc, ưu tiên điều trị nội trú.
II. Nội dung chế độ chăm sóc sức khỏe NKT
1. Chăm sóc sức khỏe ban đầu cho NKT
Theo WHO,CSSK ban đầu là những chăm sóc sức khỏe thiết yếu, dựa trên những phương pháp kỹ thuật thực hành
đưa đến tận cá nhân và từng gia đình, được mọi người chấp nhận thông qua sự tham gia đầy đủ của họ, với giá thành mà
họ có thể chấp nhận được nhằm đạt được sức khỏe cao nhất.
Ở Việt Nam, CSSK ban đầu được thực hiện đối với mọi công dân, trong đó có NKT,cụ thể được quy định tại Điều
21 Luật NKT. Theo đó, việc CSSK ban đầu đối với NKT thuộc trách nhiệm của cơ sở y tế cấp xã, thực hiện các hoạt động:
tuyên truyền, giáo dục kiến thức phổ thông về CSSK, các biện pháp phòng ngừa khuyết tật; lập hồ sơ theo dõi, quản lý sức
khỏe NKT; các hoạt động khám bệnh, chữa bệnh được thực hiện phù hợp trong phạm vi chuyên môn.
Theo quy định của Luật NKT, CSSK ban đầu đối với NKT gồm các nội dung sau đây[1]:
Giáo dục sức khoẻ: thông qua các hoạt động tuyên truyền, giáo dục, phổ biến kiến thức về CSSK bằng các hình
thức, biện pháp phong phú như: tổ chức lớp học, thông tin qua hệ thống truyền thông ở địa phương hoặc lồng ghép vào các
hoạt động văn hoá xã hội khác ở địa phương.., nhằm mục đích tăng cường kiến thức và hiểu biết của NKT về việc tự bảo
vệ và nâng cao sức khoẻ cho bản thân, gia đình và cộng đồng. Từ đó sẽ giúp NKT loại bỏ dần những lối sống, thói quen và
phong tục tập quán có hại cho sức khoẻ.
Nội dung giáo dục sức khoẻ gồm: cải thiện điều kiện dinh dưỡng và ăn uống hợp lí, cung cấp nước sạch và vệ sinh
môi trường, chăm sóc sức khoẻ bà mẹ, trẻ em, các hoạt động về công tác phòng bệnh… Đối với trẻ em khuyết tật, giáo
dục sức khoẻ còn thể hiện ở chương trình giáo dục đặc biệt, đó là giáo dục hoà nhập hoặc giáo dục chuyên biệt tùy thuộc
vào mức độ khuyết tật cũng như khả năng phục hồi sức khoẻ của trẻ em.
Thực hiện các biện pháp phòng ngừa:hoạt động phòng ngừa được thực hiện rất đa dạng, phong phú: phòng ngừa
dựa vào dạng tật, phòng ngừa dựa vào khả năng thực tế của địa phương, hoàn cảnh gia đình, phòng ngừa dựa vào nhu cầu
của người khuyết tật, ... Tuy nhiên, có thể khái quát hoạt động phòng ngừa khuyết tật bao gồm:
Hoạt động phòng ngừa không để xảy ra khuyết tật:là hoạt động phòng ngừa từ xa, nhằm loại bỏ tận gốc nguyên
nhân gây ra bệnh tật. Để thực hiện hoạt động này, mỗi NKTphải có kiến thức hiểu biết về vệ sinh, rèn luyện thân thể, có
lối sống lành mạnh để tăng cường sức đề kháng của cơ thể, chống lại bệnh tật. Cần chăm sóc tốt sức khoẻ bà mẹ và trẻ em,
thực hiện mỗi gia đình chỉ có một hoặc hai con, tư vấn sức khoẻ sinh sản cho đối tượng có nguy cơ sinh con khuyết tật,
thực hiện khám thai cho tất cả phụ nữ ít nhất 5 lần theo quy định của WHO, giải quyết tốt vấn đề dinh dưỡng cho bà mẹ
trong thời kì mang thai và trẻ em,... Ngoài ra, việc thực hiện phòng ngừa khuyết tật còn thể hiện qua các nội dung tiêm
chủng phòng chống các bệnh nhiễm trùng phổ biến của trẻ em, phòng chống các bệnh dịch lưu hành phổ biến ở địa
phương. Đây là các biện pháp phòng bệnh tích cực, chủ động, mang lại hiệu quả cao trong việc phòng ngừa, giảm thiểu
khuyết tật.
Hoạt động phòng ngừa để ngăn ngừa tình trạng ốm đau, tai nạn, rủi ro trở thành khuyết tật: khi ốm đau, tai nạn,
rủi ro nào đó xảy ra, ai cũng mong muốn được cứu sống, phục hồi sức khoẻ, không bị tàn tật. Vì thế, yêu cầu đặt ra đối với
hoạt động này là phát hiện sớm, chẩn đoán sớm bệnh tật.Từ đó, có biện pháp xử lí kịp thời và điều trị phù hợp, hạn chế các
rủi ro trở thành khuyết tật.
Đối với hoạt động phòng ngừa để ngăn ngừa khuyết tật gây nên hậu quả nặng hơn: là hoạt động ngăn ngừa những
tái phát gây ra thường thấy ở những người mắc bệnh, tật không được chữa khỏi hoặc không chữa khỏi được. Sự tái phát
bệnh, tật có thể làm cho tình trạng suy giảm chức năng trở nên nặng hơn.Vì thế, phát hiện sớm tình trạng tái phát bệnh, tật
để điều trị kịp thời đồng thời phục hồi nhanh chóng chức năng bị suy giảm để ngăn ngừa hậu quả xấu do khuyết tật gây ra.
Quản lí sức khoẻ: mục tiêu lâu dài mà ngành y tế đặt ra là quản lí sức khoẻ cho toàn dân, trước mắt là thực hiện
quản lí sức khoẻ cho các đối tượng ưu tiên như trẻ em dưới 1 tuổi, trẻ em dưới 5 tuổi, phụ nữ có thai, phụ nữ ở độ tuổi sinh
đẻ, các đối tượng có công với cách mạng và NKT. Theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 21 LuậtNKT, trạm y tế cấp xã
có trách nhiệm lập hồ sơ theo dõi, quản lí sức khoẻ NKT. Mục đích của chế độ này nhằm quản lí theo dõi tình trạng khuyết
tật ở địa phương, từ đó giúp cơ quan chức năng đưa ra các giải pháp hợp lí để chăm sóc sức khoẻ hiệu quả hơn. Quản lí
sức khoẻ NKT cũng được coi là nội dung quan trọng trong CSSKban đầu đối với NKT.
2. Khám bệnh, chữa bệnh
Điều 2 Luật khám bệnh, chữa bệnh 2009 quy định: “Khám bệnh là việc hỏi bệnh, khai thác tiền sử bệnh, thăm
khám thực thể, khi cần thiết thì chỉ định làm xét nghiệm cận lâm sàng, thăm dò chức năng để chẩn đoán và chỉ định
phương pháp điều trị phù hợp đã được công nhận”. “Chữa bệnh được hiểu là việc sử dụng phương pháp chuyên môn kỹ
thuật đã được công nhận và thuốc đã được phép lưu hành để cấp cứu, điều trị, chăm sóc, phục hồi chức năng cho người
bệnh”.
Theo đó, khám bệnh, chữa bệnh là quyền cơ bản của tất cả mọi người trong xã hội khi có nhu cầu, cụ thể nó bao
gồm các quyền được quy định từ Điều 7 đến Điều 13 Luật khám bệnh, chữa bệnh 2009. Bên cạnh những quyền được quy
định tại luật chung là Luật khám bệnh, chữa bệnh 2009 thì Luật NKT cũng có những quy định riêng về quyền được khám
chữa bệnh cho NKT, theo đó Nhà nước phải đảm bảo để NKT được khám bệnh, chữa bệnh và sử dụng các dịch vụ y tế
phù hợp (khoản 1 Điều 22 Luật NKT) và các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh cần thực hiện những biện pháp khám bệnh,
chữa bệnh phù hợp cho NKT (khoản 1 Điều 23 Luật NKT).
NKT là đối tượng yếu thế, chịu nhiều thiệt thòi trong cuộc sống nhưng NKT là trẻ em, phụ nữ có thai, người cao
tuổi, người có công với cách mạng và NKT nặng, đặc biệt nặng còn chịu nhiều khó khăn, thiệt thòi trong cuộc sống hơn
nữa. Vì vậy, bên cạnh quyền được khám chữa bệnh thì nhóm đối tượng NKT trên còn được hưởng những quyền ưu tiên
trong khám chữa bệnh nhằm hỗ trợ, giúp đỡ họ trong việc CSSKthông qua các hình thức như: miễn, giảm viện phí; hỗ trợ
sinh hoạt phí; chi phí đi lại; chi phí điều trị…. Cụ thể, một trong những nguyên tắc hành nghề khám chữa bệnh được quy
định tại Điều 3.4 Luật khám bệnh, chữa bệnh 2009 đó là ưu tiên khám chữa bệnh đối với trường hợp cấp cứu, trẻ em dưới
6 tuổi, NKT nặng, người từ đủ 80 tuổi trở lên, người có công với cách mạng, phụ nữ có thai.
Bên cạnh đó quyền ưu tiên khám chữa bệnh cũng được quy định trong một số văn bản pháp luật khác, cụ thể: tại
Điều 12 Luật người cao tuổi hay tại Điều 41.1 Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân:“Người cao tuổi, thương binh, bệnh
binh và người tàn tật được ưu tiên trong khám bệnh, chữa bệnh, được tạo điều kiện thuận lợi để
đóng góp cho xã hội phù hợp với sức khỏe của mình”. Tuy nhiên, việc ưu tiên khám chữa bệnh trên thực tế
cần căn cứ vào từng trường hợp cụ thể, chẳng hạn như:“Người từ đủ 80 tuổi trở lên được ưu tiên khám trước
người bệnh khác trừ bệnh nhân cấp cứu, trẻ em dưới 6 tuổi, NKT”, như vậy, cần phải dựa vào những yếu tố
khác như tình trạng nguy cấp của bệnh nhân, mức độ khuyết tật, độ tuổi… để xác định đối tượng ưu tiên trong trường hợp
phải lựa chọn giữa nhiều đối tượng đều thuộc đối tượng được ưu tiên khám, chữa bệnh.
Ngoài ra, khi khám, chữa bệnh, NKTđược bảo hiểm y tế thanh toán chi phí y tế theo quy định của pháp luật bảo
hiểm y tế. Nếu họ tham gia loại hình bảo hiểm khác thì cũng sẽ được thanh toán quyền lợi theo quy định hoặc theo thỏa
thuận.
3. Phục hồi chức năng
Phục hồi chức năng đối với NKT không chỉ bó hẹp trong phạm vi các biện pháp y học như trước đây (còn gọi là
phục hồi chức năng truyền thống), mà đã mở rộng phạm vi phục hồi chức năng đến các lĩnh vực giáo dục, xã hội, hướng
nghiệp v.v.. (còn gọi là phục hồi chức năng hiện đại hay phục hồi chức năng dựa vào cộng đồng). Trong đó, không chỉ có
sự tham gia của thầy thuốc tại các cơ sở y tế, mà còn có sự tham gia của chính quyền địa phương, cộng đồng, gia đình và
chính bản thân NKT vào quá trình chăm sóc sức khoẻ NKT.
Theo quy định của pháp luật về NKT, cụ thể tại Điều 24 và Điều 25 Luật NKT 2010 quy định nội dung phục hồi
chức năng NKT bao gồm: Phục hồi chức năng thông qua các cơ sở chỉnh hình, phục hồi chức năng và phục hồi chức năng
dựa vào cộng đồng. Theo đó:
- Phục hồi chức năng thông qua các cơ sở chỉnh hình, phục hồi chức năng.
Căn cứ vào loại hình của cơ sở chỉnh hình, phục hồi chức năng, có cơ sở chỉnh hình, phục hồi chức năng công lập
và ngoài công lập.
Khác với trước đây, việc thực hiện chỉnh hình, phục hồi chức năng cho NKT chủ yếu được tiến hành tại các cơ sở
chỉnh hình, phục hồi chức năng của Nhà nước,hiện nay, với việc quy định đa dạng các loại hình, phong phú các hình thức,
mở rộng phạm vi hoạt động của các cơ sở chỉnh hình, phục hồi chức năng, pháp luật không chỉ đảm bảo quyền hiến định,
mà thể hiện trách nhiệm sâu sắc của Nhà nước, cộng đồng xã hội trong việc chăm sóc sức khoẻ cho nhữn