TRƯỜNG ĐẠI HỌC QUẢNG NAM
KHOA TIỂU HỌC – MẦM NON
----------
TRẦN THỊ TƯỜNG VY
SỬ DỤNG ÂM NHẠC TRONG DẠY HỌC
PHÂN MÔN ĐỊA LÝ LỚP 4
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Quảng Nam, tháng 04 năm 2018
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu, tôi đã nhận được rất nhiều sự
quan tâm, giúp đỡ, học hỏi được nhiều kinh nghiệm từ các thầy cô giáo ở trường
Đại học cũng như tại trường Tiểu học.
Lời đầu tiên, bằng sự kính trọng và lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin bày tỏ
lòng biết ơn đến cô giáo, Thạc sĩ Lê Thị Bình, giảng viên khoa Tiểu học – Mầm
non. Nhờ sự giúp đỡ tận tình, những lời góp ý đầy chân thành, động viên, nhắc
nhở của cô trong suốt quá trình thực hiện khóa luận là động lực rất lớn để tôi có
thể hoàn thành khóa luận tốt nghiệp này theo đúng thời gian quy định.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong khoa Tiểu học –
Mầm non trường Đại học Quảng Nam đã giảng dạy tôi trong suốt thời gian học
tập ở trường, đã tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi học tập, nghiên cứu và hoàn
thành bài khóa luận tốt nghiệp.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn trường Tiểu học Trần Quốc Toản,
thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam và các thầy cô giáo khối lớp 3, 4, 5 cùng các
học sinh thân yêu của khối lớp 4. Đặc biệt là các cô Trần Lê Thu Thủy, Huỳnh
Thị Ái Trinh và thầy Nguyễn Đức Nhân đã tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình
khảo sát, điều tra sư phạm và thu thập những số liệu cần thiết để hoàn thành bài
khóa luận này.
Mặc dù đã cố gắng và nỗ lực hết sức mình nhưng với khả năng có hạn của
bản thân, tôi chắc rằng đề tài của mình vẫn còn nhiều thiếu sót cần được bổ sung và
chỉnh sửa. Tôi kính mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý của thầy cô giáo cũng như ý
kiến đóng góp của các bạn quan tâm để khóa luận ngày càng hoàn thiện hơn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Tam Kỳ, tháng 4 năm 2018
Sinh viên thực hiện
Trần Thị Tường Vy
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của bản thân dưới sự
hướng dẫn, chỉ dạy tận tình của cô giáo - thạc sĩ Lê Thị Bình. Kết quả được trình
bày trong khóa luận là trung thực và chưa từng được công bố. Nếu có kế thừa kết
quả nghiên cứu của người khác thì được trích dẫn rõ ràng. Có gì sai sót, tôi xin
chịu hoàn toàn trách nhiệm.
Quảng Nam, ngày 14 tháng 5 năm 2018
Tác giả khóa luận
Trần Thị Tường Vy
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC BẢNG
ST
T
1
Tên
Bảng 1.1
2
Bảng 1.2
3
Bảng 1.3
4
Bảng 1.4
5
Bảng 1.5
6
Bảng 1.6
7
Bảng 1.7
8
Bảng 1.8
9
Bảng 1.9
10
Bảng 1.10
11
Bảng 1.11
12
Bảng 1.12
13
Bảng 1.13
14
15
Bảng 1.14
Bảng 1.15
16
Bảng 1.16
17
Bảng 1.17
18
19
Bảng 2
Bảng 3.1
20
Bảng 3.2
21
Bảng 3.3
Nội dung
Trang
Đánh giá của giáo viên về tầm quan trọng của việc
dạy học phân môn Địa lý cho học sinh lớp 4.
Nhìn nhận, đánh giá của giáo viên về sự hứng thú,
yêu thích của học sinh khi học phân môn Địa lý.
Thuận lợi của giáo viên trong dạy học phân môn
Địa lý.
Khó khăn của giáo viên trong dạy học phân môn
Địa lý.
Mức độ quan tâm của giáo viên đến cách tiếp cận,
hướng đi mới cho việc dạy học phân môn Điạ lý.
Yếu tố quan trọng cần có để học sinh có thể học và
hiểu tốt kiến thức về Địa lý.
Thầy (cô) đã từng sử dụng Âm nhạc trong dạy học
phân môn Địa lý lớp 4 chưa?
Hoạt động dạy học thầy (cô) sử dụng Âm nhạc
trong dạy học phân môn Địa lý
Tác dụng của việc sử dụng Âm nhạc trong dạy học
phân môn Địa lý lớp 4.
Mức độ hứng thú của học sinh khi học phân môn
Địa lý.
Mức độ nhận thức của học sinh khi học các kiến
thức Địa lý.
Những khó khăn của học sinh khi học các kiến
thức Địa lý.
Mức độ hiểu và ghi nhớ kiến thức Địa lý của học
sinh sau bài học.
Mức độ giáo viên sử dụng Âm nhạc trong dạy học.
Tác dụng của việc giáo viên sử dụng Âm nhạc trong
dạy học.
Mức độ mong muốn được thầy (cô) sử dụng Âm
nhạc trong dạy học phân môn Địa lý .
Mức độ mong muốn tìm hiểu các kiến thức Địa lý
thông qua Âm nhạc.
Nội dung bài học có thể sử dụng Âm nhạc
21
Mức độ hứng thú, thích thú của học sinh khi giáo
viên vào bài học.
Mức độ hiểu và ghi nhớ kiến thức Địa lý sau bài học.
Kết quả làm bài tập của học sinh
22
22
23
23
24
24
25
25
27
27
28
29
29
29
30
31
58
69
70
70
22
Bảng 3.4
Số lượng học sinh đạt và chưa đạt sau khi làm bài tập
71
DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
ST
T
1
Tên
Nội dung
Trang
Biểu đồ 1.1
24
2
Biểu đồ 1.2
3
Biểu đồ 1.3
4
Biểu đồ 1.4
5
Biểu đồ 1.5
6
Biểu đồ 1.6
7
Biểu đồ 1.7
Thầy (cô) đã từng sử dụng Âm nhạc trong dạy
học phân môn Địa lý lớp 4 chưa?
Hoạt động dạy học thầy (cô) sử dụng Âm nhạc
trong dạy học phân môn Địa lý
Tác dụng của việc sử dụng Âm nhạc trong dạy
học phân môn Địa lý lớp 4.
Mức độ hứng thú của học sinh khi học phân môn
Địa lý
Mức độ nhận thức của học sinh khi học các kiến
thức Địa lý.
Mức độ mong muốn được thầy (cô) sử dụng Âm
nhạc trong dạy học phân môn Địa lý.
Mức độ mong muốn tìm hiểu các kiến thức Địa
lý thông qua Âm nhạc.
8
Biểu đồ 3.1
9
Biểu đồ 3.2
10
Biểu đồ 3.3
11
Biểu đồ 3.4
Mức độ hứng thú, thích thú của học sinh khi giáo
viên vào bài học.
Mức độ hiểu và ghi nhớ kiến thức Địa lý sau bài
học.
Kết quả làm bài tập của học sinh
Số lượng học sinh đạt và chưa đạt sau khi làm
bài tập
25
26
27
28
30
31
69
70
71
72
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sự phát triển của kinh tế thị trường và toàn cầu hóa xã hội đã tạo thành
dòng chảy trong công cuộc đổi mới đất nước trên toàn thế giới. Do vậy, nền giáo
dục phổ thông phải đào tạo những con người phát triển toàn diện, phục vụ cho sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong Nghị quyết số 88/2014/QH 13 ngày 28/11/2014 của Quốc hội về đổi
mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông, phần nội dung đổi mới đã
nhấn mạnh: “Tiếp tục đổi mới phương pháp giáo dục theo hướng: phát triển
toàn diện năng lực và phẩm chất người học, phát huy tính tích cực, chủ động,
sáng tạo, bồi dưỡng phương pháp tự học, hứng thú học tập, kỹ năng hợp tác, làm
việc nhóm và khả năng tư duy dạy học”. Hay Luật Giáo dục đã chỉ rõ: “Phương
pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tính tích cực, chủ động, tự giác, sáng tạo
của học sinh, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, môn học, bồi dưỡng
phương pháp tự học, rèn luyện kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác
động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh”.
Môn Địa lý ở trường phổ thông nói chung, lớp 4 nói riêng có vai trò quan
trọng trong việc giúp học sinh biết được vị trí địa lý của nước ta cũng như các
nước trong khu vực, biết được bản sắc văn hóa, đặc trưng riêng của từng vùng….
Đó sẽ là những viên gạch đầu tiên giúp cho việc học tập, nghiên cứu và định
hướng của các em sau này. Quan trọng hơn là hình thành cho các em lòng yêu
nước, yêu quê hương, thấy được vai trò, trách nhiệm của mỗi người đối với quê
hương. Nhưng thực tế việc học Địa lý hiện nay, đa phần các em xem môn Địa lý
là môn phụ, không thích học, nhàm chán, khô khan…. Do vậy, vấn đề đặt ra và
đáng để suy ngẫm là làm thế nào để giúp học sinh thay đổi thái độ và quan điểm
khi học Địa lý. Để làm được điều đó, khi giảng dạy giáo viên cần biến mỗi bài
học thành niềm đam mê, thành mong muốn, thành nhu cầu học tập của học sinh.
Hay nói cách khác, dạy học phân môn Địa lý không nên quá đặt nặng về kiến
thức, mà phải chú trọng khơi dậy sự hứng thú, niềm say mê, tò mò, sáng tạo của
học sinh.
7
Một trong những con đường gần nhất để đến với sự hứng thú, khơi dậy đam
mê là thông qua Âm nhạc. Bởi Âm nhạc là ngôn ngữ chung của nhân loại, không
cần phiên dịch, không cần hoa mỹ vẫn có thể phát triển. Và Âm nhạc mang trong
mình hơi thở của cuộc sống, chứa đựng trong nó cả cái hồn, nét đẹp của con
người, quê hương, đất nước. Âm nhạc còn giúp con người kích thích trí thông
minh, sự hứng thú, hưng phấn trong công việc.
Từ những phân tích trên, với mong muốn mang lại sự yêu thích, giúp học sinh
hiểu được giá trị môn Địa lý thông qua ngôn ngữ âm nhạc, chúng tôi đã lựa chọn
nghiên cứu đề tài: “Sử dụng Âm nhạc trong dạy học phân môn Địa lý lớp 4”
2. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu cơ sở lý luận và biện pháp của việc sử dụng Âm nhạc
trong dạy học phân môn Địa lý lớp 4. Qua đó nhằm tạo hứng thú, nâng cao hiệu
quả dạy học phân môn Địa lý lớp 4. Giúp học sinh hiểu được giá trị môn Địa lý
thông qua ngôn ngữ Âm nhạc.
3. Đối tượng và khách thể nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp sử dụng âm nhạc trong dạy học Địa lý lớp 4.
3.2. Khách thể nghiên cứu
Quá trình dạy học phân môn Địa lý lớp 4.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng Âm nhạc trong
dạy học Địa lý lớp 4.
- Nghiên cứu thực trạng của việc sử dụng Âm nhạc trong dạy học phân môn
Địa lý lớp 4.
- Đề xuất một số biện pháp sử dụng Âm nhạc trong dạy học phân môn Địa
lý lớp 4.
- Tiến hành thực nghiệm sự phạm về sử dụng Âm nhạc trong dạy học phân
môn Địa lý lớp 4.
8
5. Phương pháp nghiên cứu
5.1. Nhóm phương pháp nghiên cứu lí luận
5.1.1. Phương pháp phân tích, tổng hợp lý thuyết
Thu thập, đọc, nghiên cứu, xử lý các sách báo, tạp chí, bài nghiên cứu,
mạng internet, các tài liệu có liên quan đến nội dụng của đề tài. Từ đó, chọn lọc
các tư liệu phù hợp với nội dụng , mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài, sau
đó tiến hành phân tích, tổng hợp, đánh giá, áp dụng tư liệu vào nội dung của đề
tài.
5.1.2. Phương pháp phân loại, hệ thống hóa lý thuyết
Sắp xếp các tài liệu khoa học thành một hệ thống logic chặt chẽ theo từng
mặt, từng đơn vị kiến thức, từ đó làm cơ sở hệ thống hóa lý luận cho đề tài.
5.2. Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn
5.2.1. Phương pháp quan sát
Quan sát, dự giờ các tiết dạy để tìm hiểu quy trình, cách dạy, phương pháp
của giáo viên và hoạt động học tập của học sinh.
5.2.2. Phương pháp hỏi ý kiến chuyên gia
Tham khảo, tiếp thu các ý kiến, đóng góp của thầy cô giáo khoa Tiểu học Mầm non, cùng các thầy cô ở trường được thực tập để định hướng, thực hiện
đúng quá trình nghiên cứu, góp phần hoàn thiện đề tài.
5.2.3. Phương pháp điều tra
Sử dụng phiếu điều tra để nắm được thực trạng việc sử dụng Âm nhạc trong
dạy học Địa lý lớp 4 trong phần điều tra và thực nghiệm.
5.2.4. Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Thực tế kết quả thực nghiệm là cơ sở để kiểm chứng tính khả thi của đề tài.
Chúng tôi tiến hành dạy ở các lớp, trên cơ sở đó rút ra được ưu điểm và khuyết
điểm để rút kinh nghiệm và bổ xung.
5.3. Phương pháp thống kê toán học
Phương pháp này dùng để phân tích và xử lý các kết quả thu được qua điều
tra và khảo sát bằng công thức toán học như trung bình cộng, tìm tỉ lệ phần trăm.
9
Từ đó rút ra những con số cụ thể về vấn đề sử dụng Âm nhạc trong dạy học Địa
lý lớp 4 để tăng mức độ tin cậy cho đề tài.
6. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
Phân môn Địa lý ở Tiểu học nói chung, lớp 4 nói riêng đã, đang được các
thầy cô giáo và các cấp quan tâm. Đã có nhiều nghiên cứu tìm hiểu về dạy học
phân môn Địa lý ở trường Tiểu học, cụ thể như sau:
- Nghiên cứu của Lê Thị Huyền về “Phương pháp dạy học phân môn Địa lý
lớp 4”, Sáng kiến kinh nghiệm, Trường Tiểu học Hoàng Văn Thụ, Buôn Đôn,
năm 2011: Đề tài nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn về một số phương pháp
giảng dạy môn Lịch sử và Địa lý nói chung, phân môn Địa lý lớp 4 nói riêng. Từ
đó đưa ra những biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học Địa lý bằng cách
thay đổi phương pháp dạy học tích cực giúp học sinh phát huy tính tích cực, tự
giác, chủ động, sáng tạo, rèn luyện khả năng và thói quen tự học, tinh thần hợp
tác, kỹ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tạo hứng thú học tập cho học sinh.
- Nghiên cứu của Nguyễn Thị Vân về “Sử dụng thiết bị dạy học Địa lý ở
Tiểu học theo hướng dạy học tích cực”, Luận văn thạc sỹ, Trường Đại học sư
phạm Hà Nội, năm 2014: Đề tài nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn việc sử
dụng thiết bị dạy học Địa lý ở Tiểu học theo hướng dạy học tích cực. Từ đó
nghiên cứu đưa ra cách thức và quy trình sử dụng một số thiết bị dạy học Địa lý
ở Tiểu học theo hướng dạy học tích cực. Đề xuất phương hướng xây dựng các
thiết bị dạy học Địa lý ở Tiểu học.
- Nghiên cứu của Đặng Thị Nguyệt về “Quy trình hình thành biểu tượng
Địa lý cho học sinh Tiểu học”, Luận văn thạc sỹ, Đại học Vinh, Nghệ An, năm
2014: Đề tài nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn của quy trình hình thành biểu
tượng Địa lý cho học sinh Tiểu học. Từ đó đề xuất và thử nghiệm quy trình hình
thành biểu tượng Địa lý cho học sinh Tiểu học, nhằm nâng cao hiệu quả dạy học
môn Địa lý ở Tiểu học.
- Nghiên cứu của Tống Thị Hằng về “Hướng dẫn học sinh lớp 4 sử dụng
bản đồ Việt Nam trong tiết học Địa lý”, Sáng kiến kinh nghiệm, Trường Tiểu học
Lam Sơn, Bỉm Sơn, năm 2011: Đề tài nghiên cứu cơ sở lý luận, thực trạng của
10
việc dạy học môn Địa lý nói chung, sử dụng bản đồ nói riêng. Từ đó đưa ra các
biện pháp hướng dẫn học sinh lớp 4 sử dụng bản đồ Việt Nam trong tiết dạy học
Địa lý.
- Nghiên cứu của Trần Thị Thúy Nga về “Phát huy tính tích cực của học
sinh khi dạy môn Địa lý lớp 5”, Sáng kiến kinh nghiệm, Trường Tiểu học Trưng
Vương, thành phố Hồ Chí Minh, năm 2014: Đề tài nghiên cứu cơ sở lý luận và
thực trạng của việc phát huy tính tích cực của học sinh lớp 5 khi học môn Địa lý.
Từ đó đưa ra các biện pháp và thiết kế giáo án cụ thể nhằm phát huy tính tích cực
của học sinh khi dạy môn Địa lý lớp 5.
Như vậy, qua tìm hiểu lịch sử nghiên cứu của đề tài, chúng tôi thấy phân
môn Địa lý ở trường Tiểu học nói chung, lớp 4 nói riêng được khá nhiều người
quan tâm. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu về sử dụng Âm nhạc trong dạy học
phân môn Địa lý lớp 4. Bởi vậy, chúng tôi muốn thực hiện đề tài này để giúp học
sinh học tốt phân môn Địa lý lớp 4 và bước đầu tìm hiểu, giới thiệu các bài hát có
thể áp dụng để dạy học phân môn Địa lý lớp 4.
7. Đóng góp của đề tài
-
Về lý luận: Góp phần hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về việc sử dụng Âm
-
nhạc trong dạy học phân môn Địa lý lớp 4.
Về thực tiễn:
+ Tìm hiểu thực trạng của việc sử dụng Âm nhạc trong dạy học phân môn
Địa lý lớp 4.
+ Xây dựng một số biện pháp sử dụng Âm nhạc trong dạy học phân môn
Địa lý lớp 4.
+ Tiến hành thực nghiệm sư phạm các biện pháp, kiểm chứng tính khả thi
của đề tài.
8. Giới hạn phạm vi nghiên cứu
Tìm hiểu những vấn đề lý luận của việc sử dụng Âm nhạc trong dạy học
phân môn Địa lý lớp 4.
Thực tiễn sử dụng Âm nhạc trong dạy học phân môn Địa lý lớp 4 ở trường
Tiểu học Trần Quốc Toản, thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam.
9. Cấu trúc tổng quan của đề tài
11
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, phụ lục thì khóa luận gồm
có 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc sử dụng Âm nhạc trong dạy
học phân môn Địa lý lớp 4.
Chương 2: Một số biện pháp sử dụng Âm nhạc trong dạy học phân môn Địa
lý lớp 4.
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm.
12
NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG ÂM
NHẠC TRONG DẠY HỌC PHÂN MÔN ĐỊA LÝ LỚP 4.
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Một số lý luận về âm nhạc
1.1.1.1. Khái niệm âm nhạc
Theo Từ điển Bách khoa toàn thư: “Âm nhạc là một bộ môn nghệ
thuật dùng âm thanh để diễn đạt. Các yếu tố chính của nó là cao độ (điều chỉnh
giai điệu), nhịp điệu (và các khái niệm liên quan của nó: tempo, tốc độ), âm
điệu, và những phẩm chất âm thanh của âm sắc và kết cấu bản nhạc”.
Theo Thạc sĩ Nguyễn Thanh Hà, tác giả cuốn “ Khoa học Âm nhạc”: Âm
nhạc là môn nghệ thuật chứa đựng tình cảm, âm nhạc có hòa hợp với con người
hay không là do khả năng và thói quen cảm thụ âm nhạc của mỗi người, do chủ
quan từng người suy xét.
Theo Nguyễn Văn Huân, tác giả cuốn “Âm nhạc Việt Nam những điều cần
biết”: Âm nhạc là một loại hình nghệ thuật đặc biệt, xuất hiện rất sớm trên thế
giới, sử dụng âm thanh làm phương tiện để biểu đạt tâm lý, tình cảm của con
người cũng như hoàn cảnh xã hội.
1.1.1.2. Các thể loại âm nhạc trên thế giới
Âm nhạc thế giới đa dạng với nhiều thể loại, được phân theo những tiêu chí
khác nhau. Những tiêu chí được đưa vào để phân loại các thể loại nhạc là: chức
năng, đối tượng, xuất xứ, phân bố địa lý, lịch sử, những đặc trưng về kĩ thuật,
nhạc cụ và sản xuất, và sự pha trộn giữa những thể loại khác nhau. Trong bài
nghiên cứu của mình, do phạm vi của đề tài, chúng tôi đã chọn những tiêu chí về:
xuất xứ, những đặc trưng về kĩ thuật để làm cơ sở cho sự phân loại. Bao gồm các
thể loại:
+ Âm nhạc cổ điển
Là dòng nhạc được sản xuất, bắt nguồn từ truyền thống tế lễ của phương
Tây. Đặc điểm nổi bật nhất của Âm nhạc cổ điển là tác phẩm được ghi lại bằng kí
hiệu âm nhạc. Việc thể hiện các bài hát âm nhạc cổ điển đòi hỏi người thực hiện
phải có một trình độ nhất định, sự hiểu biết thấu đấu các nguyên tắc âm, hòa
13
mình vào tác phẩm, gửi gắm tâm tư, ý nguyện của mình trong các giai điệu.
[5;102,104]
+ Âm nhạc truyền thống (nhạc dân gian, dân ca)
Âm nhạc dân gian bao gồm nhạc dân gian truyền thống và nhạc dân gian
đương đại:
- Nhạc dân gian truyền thống là âm nhạc truyền miệng, mà người sáng tác
là vô danh hoặc được biểu diễn theo phong tục trong một thời gian dài. [5;105]
- Nhạc dân gian đương đại là những tác phẩm sử dụng chất liệu dân gian,
làn điệu dân ca, hoặc âm hưởng dân gian, trong quá trình sáng tác, nhạc sĩ lồng
vào đó những tiết tấu và nhịp điệu hiện đại, đương thời. [5;105]
+ Âm nhạc đại chúng
Nhạc đại chúng hay nhạc phổ thông là bất kì loại nhạc nào có sức hút rộng
khắp và được phân phối đến lượng lớn khán giả thông qua ngành công nghiệp
giải trí. [5;367]
Được chia làm các nhóm chính:
- Nhạc Pop: là loại nhạc có giai điệu đơn giản dễ nghe, cùng với một số
đoạn trong bài hát được lặp đi lặp lại. Ca từ trong nhạc Pop thường nói tới tình
yêu, xúc cảm và sự nhảy múa. [2;374]
- Nhạc Country: loại nhạc này thường có giai điệu trầm buồn. Nội dung các
bài hát thường nói về những triết lý nhỏ trong cuộc sống, sự cô đơn hay niềm tin
trong cuộc sống, nói về cuộc đời của những người lao động và các mối quan hệ
trong gia đình. [2;371]
- Nhạc Jazz: là sự kết hợp giữa nhạc tế thần và bài ca lao động của những
nô lệ trên ruộng đồng. Giai điệu và chất nhạc của Jazz mang phong cách sầu bi,
thê thảm. Nội dung là cả một câu chuyện về những phong tục, di sản và cả triết
học. [2;369]
- Nhạc Rock: là nhạc có tiết tấu mạnh và nhanh, thường sử dụng các loại
nhạc cụ điện tử. Rock chú ý tới hiệu ứng âm thanh của các nhạc cụ hơn là giọng
hát. [2;376]
14
- Nhạc Blues: nhạc Blues khá buồn, vì thế nên có tên Blues (buồn), thường
được biểu diễn bằng kèn, giai điệu réo rắt. Blues có thể rất buồn, hạnh phúc,
chậm, nhanh, không lời, ca khúc…và thậm chí là bất cứ nét nhạc nào do các nghệ
sỹ viết ra. [2;380]
- Nhạc Rap: là loại nhạc nói hoặc đọc thanh, được đệm bằng những nhịp
mạnh, dồn dập. Rap vì thế chú ý đến nhịp hơn giai điệu, biểu hiện cho sức mạnh
dữ dội, cuồng nhiệt và tạo cảm giác giận dữ, bạo lực. [2;384]
- Nhạc Opera: là loại nhạc thể hiện cảm xúc của nhân vật, được bày tỏ qua
những tổ hợp giai điệu trầm bổng. Opera là một loại hình nghệ thuật biểu diễn,
cũng là một dạng của kịch mà những hành động diễn xuất của nhân vật hầu hết
được truyền đạt toàn bộ qua âm nhạc và giọng hát. [2;63]
1.1.1.3. Âm nhạc Việt Nam
Âm nhạc Việt Nam là 1 phần của lịch sử và văn hóa Việt Nam. Âm nhạc
Việt Nam phản ánh đúng những nét đặc trưng của con người, văn hóa, phong
tục, địa lý,... của đất nước Việt Nam, trải dài qua suốt chiều dài lịch sử của dân
tộc. Âm nhạc Việt Nam rất phong phú và đa dạng. Do các yếu tố về lịch sử, sự
giao thoa nên nền âm nhạc Việt Nam mang cả yếu tố bản địa và chịu ảnh hưởng
của nền âm nhạc thế giới.
Âm nhạc, với đặc điểm có trước sự xuất hiện của chữ viết, từ lâu luôn là
phương tiện để người dân thể hiện mọi cảm xúc của mình về thế giới xung
quanh, dù là tình yêu đôi lứa, lòng căm thù hay sự buồn giận, chán nản. Âm nhạc
ở Việt Nam còn sớm thể hiện những tư tưởng tôn giáo, đời sống tâm linh và
phong tục tập quán của dân tộc. Vì vậy, Âm nhạc Việt Nam được chia thành ba
nhóm chính:
+ Âm nhạc cổ điển Việt Nam
Nhạc cổ điển Việt Nam chủ yếu thể loại nhạc giao hưởng. Nhạc giao hưởng
( Symphony) được ghép từ hai chữ Hi Lạp syn và phone, được dùng để chỉ sự
hòa hợp giữa các âm thanh phát ra đồng thời, âm điệu thiên về trầm ấm, sau đó
15
được dùng để chỉ các bản nhạc có nhiều bè. Âm nhạc cổ điển Việt Nam vẫn
không ngừng phát triển và hội nhập với thế giới. [8;374]
+ Âm nhạc dân gian Việt Nam
Trải qua những triều đại phong kiến, nền âm nhạc Việt Nam có được những
nét phát triển rõ rệt và đặc trưng. Tới thời kỳ đô hộ của phương Bắc, của các nền
văn hóa ngoại lai khác như Ấn Độ, Chăm Pa,... âm nhạc Việt Nam sớm có được
những ảnh hưởng và quan điểm mới, dung hòa hoàn hảo những yếu tố ảnh hưởng
từ nước ngoài với những nét nổi bật vốn có của âm nhạc truyền thống, từ đó tạo
nên những loại hình âm nhạc cổ truyền của từng vùng miền như hát xẩm, hát
chèo, ca trù, hò, cải lương, đờn ca tài tử, nhã nhạc cung đình Huế, quan họ, chầu
văn...Tuy nhiên, chỉ có một vài thể loại âm nhạc dân gian phù hợp để sử dụng
trong dạy học Địa lý lớp 4, cụ thể có:
- Xẩm là một loại hình dân ca của khu vực miền Bắc Việt Nam, phổ biến ở
đồng bằng và trung du Bắc Bộ. Hát xẩm vốn là loại ca nhạc truyền đời của những
người mù lòa, nghèo đói ở Việt Nam. Xẩm đa số được biểu diễn ở chợ, đường
phố, nơi đông người qua lại, rất ít được biểu diễn ở những sân khấu lớn nên ít
người biết đến loại nhạc truyền thống này. Lời ca hết sức mộc mạc chân thành,
song nó cũng chứa đựng những nội dung tư tưởng sâu sắc. Những ca từ của xẩm
hàm chứa những triết lý, những lời răn dạy đạo lý ở đời. Lời ca trong hát xẩm
không chỉ phong phú về thể loại như ca dao, tục ngữ, thơ của các tác giả nổi
tiếng..., mà còn rất đa dạng về mặt nội dung. Các bài xẩm thu thập được hầu hết
là những sáng tác truyền miệng, không ai nhớ tên tác giả. [11;108]
- Dân ca ví giặm Nghệ Tĩnh là một loại hình nghệ thuật trình diễn dân ca
chiếm vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa của người dân 2 tỉnh Nghệ
An và Hà Tĩnh thuộc miền Trung Việt Nam. Loại hình nghệ thuật này phổ biến
trong đời sống của các cộng đồng xứ Nghệ, được hát trong hầu hết mọi hoạt
động đời thường, từ ru con, dệt vải, trồng lúa... Lời ca của dân ca ví giặm ca ngợi
những giá trị sâu sắc và truyền thống như sự tôn trọng với các bậc cha mẹ, lòng
16
chung thủy, tận tụy vì người khác cũng như ngợi ca đức tính thật thà và cách cư
xử tử tế giữa con người với con người. [5;114]
+ Âm nhạc đại chúng Việt Nam
Âm nhạc phương Tây xuất hiện ở Việt Nam vào thế kỷ 18, nhưng đến giai
đoạn Pháp thuộc cuối thế kỷ 19 mới đặc biệt góp phần giúp âm nhạc Việt Nam
được tiếp xúc với những phong cách và văn hóa của phương Tây, đồng thời tiếp
tục phát triển với những nét đặc trưng riêng. Nền âm nhạc đại chúng của Việt
Nam từ đó phát triển với nhiều thể loại khác nhau: nhạc bolero, nhạc vàng, nhạc
đỏ, nhạc tiền chiến, nhạc trẻ…. Trong số đó, chỉ một vài loại nhạc: bolero, nhạc
vàng có thể sử dụng để dạy học Địa lý lớp 4.
Bolero: là một loại nhạc du nhập vào Việt Nam từ năm 1950, là một điệu
nhạc của Mỹ La Tinh sử dụng trong nghệ thuật và nhạc đại chúng. Bolero mang
đậm chất dân ca, giai điệu đều đều, chậm, lời ca vần và dễ thuộc, chủ đề đơn
giản, ít có hình tượng mang tính triết lý. Thể điệu chính của bolero là nhạc
country, jazz, bues. Bolero của Việt Nam khác Bolero của Tây Ban Nha hay Nam
Mỹ, Bolero của Việt Nam rất chậm, Nam Mỹ và Tây Ban Nha lẹ hơn. [8;277]
Nhạc vàng: là tên gọi dòng tân nhạc Việt Nam, ra đời trong thập niên 1960,
trong thời tiền chiến, với lời ca trữ tình, bình dân, được viết theo điệu trầm buồn
đều của bolero, và slow rock. Tuy nhiên trong nhân dân, thì cụm từ nhạc vàng
hay chỉ các bài nhạc bolero, chứ không dùng cho nhạc tiền chiến. [8;286]
Như vậy, dựa vào các thể loại Âm nhạc Việt Nam cho thấy được nền Âm
nhạc Việt Nam chịu ảnh hưởng không nhỏ từ nền Âm nhạc thế giới. Tuy nhiên,
Âm nhạc Việt Nam đã có sự cải tiến, tiếp thu chọn lọc những tinh hoa của thế
giới để xây dựng, phát triển một nền Âm nhạc Việt Nam độc đáo, đa dạng và
đậm đà bản sắc vùng miền, dân tộc.
1.1.1.4. Sử dụng âm nhạc trong dạy học Địa lý
Âm nhạc là những sáng tác có giai điệu, hình ảnh, kết cấu ngắn gọn, dễ nhớ
phản ánh những nhận thức, tâm tư, tình cảm của con người trong cuộc sống,
17
trong đó có những hiện tượng liên quan đến địa lý. Sử dụng Âm nhạc vào dạy
học Địa lý là một cách để tạo hứng thú cho học sinh, minh họa cho bài học, gần
gũi với thực tiễn và phù hợp với tâm lý của học sinh. Âm nhạc phản ánh cuộc
sống tự nhiên, hoạt động sản xuất, tình yêu quê hương đất nước. Âm nhạc mang
tính nghệ thuật, giải trí sẽ giúp học sinh thoải mái, nhẹ nhàng, dễ nhớ, nhớ lâu
kiến thức hơn. Ngoài ra còn gián tiếp giúp các em hiểu, cảm nhận được cuộc
sống qua ngôn từ, giúp cho các em phát triển năng khiếu văn học ngay từ nhỏ.
Cụ thể:
- Để hướng đến một bài học hay hơn, sinh động, sôi nổi, ấn tượng với học
sinh, giáo viên có thể sử dụng bài hát: “Gửi nắng cho em”, sáng tác Phạm Tuyên
để dạy về sự phân hóa khí hậu theo chiều Bắc – Nam (quy luật địa đới).
“Anh ở trong này chưa thấy mùa đông. Nắng vẫn đỏ, mận, hồng, đào cuối
vụ. trời Sài Gòn xanh cao như quyến rũ. Thật diệu kỳ là mùa đông phương nam.
Muốn gửi ra em một chút nắng vàng, thương cái rét của thợ cày, thợ cấy. Nên cứ
muốn chia nắng ra ngoài ấy.”
“Gửi nắng cho em” đã khéo léo nói lên sự phân hóa khí hậu theo chiều Bắc
– Nam ở nước ta. Vào mùa đông, miền Bắc nước ta (từ đèo Hải Vân) trở ra, có
mùa đông lạnh. Càng đi vào Nam thì nhiệt độ càng tăng. Thậm chí từ đèo Cù
Móng trở vào khu vực miền Nam, không có mùa đông lạnh. Nguyên nhân chính
do nước ta trải dài trên nhiều vĩ độ, miền Nam gần xích đạo hơn nên thời gian
chiếu sáng lớn hơn nên khí hậu trong Nam luôn ấm, nóng hơn. Và do ở miền Bắc
thường có những đợt không khí lạnh tràn về, còn miền Nam thì không.
Tương tự như vậy, bài hát “Sợi nhớ sợi thương”, sáng tác Phan Huỳnh Điểu
nói về khí hậu phân hóa theo chiều đông, tây của dãy Trường Sơn (qui luật phi
địa đới). Cùng một dãy núi nhưng khí hậu ở Trường Sơn Đông khác với Trường
Sơn Tây là “bên nắng đốt, bên mưa quay”. Nguyên nhân hiện tượng này là do
Gió Tây Nam ở phía Lào hoạt động, di chuyển qua Việt Nam nên được gọi là gió
Lào (gió phơn Tây Nam), thường xuất hiện vào tháng 4 và tháng 5. Khi bị núi
Trường Sơn chắn thì gió phải vượt lên cao, khiến hơi nước ngưng tụ, làm khí hậu
ẩm, mát, mưa nhiều bên sườn đón gió là khu vực Trường Sơn Tây, (Lào,
18
Campuchia). Khi vượt qua Trường Sơn, gió sẽ thành một luồng khí khô, đi từ
trên cao xuống, quá trình đó làm tăng nhiệt độ khiến cho sườn khuất gió là
Trường Sơn Đông (Việt Nam) dẫn đến khí hậu khô và nóng.
“Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây
Bên nắng đốt, bên mưa quay”
Hoặc bài hát “Vườn cây nhà bé”, sáng tác Thanh Bình.
“Trong vườn nhà bé thật nhiều cây xanh. Này na, này mít tỏa hương thơm
lành. Cây dừa xõa tóc soi bóng bờ ao. Đàn con trên cao nô đùa vui vẻ. Ơ kìa cây
khế hoa tím rụng đầy…Này cam này quít tỏa hương thơm lành. Đây là cây gấc
quả chín đỏ tươi”.
Ẩn sau lớp ca từ vui nhộn, bài hát đã cho thấy khí hậu nhiệt đới thuận lợi
cho việc trồng những loại cây nhiệt đới: na, mít, dừa, khế, gấc… Ngoài ra còn
cho thấy hoạt động sản xuất của nước ta rất đa dạng, có thể luân canh nhiều loại
cây.
Còn với bài hát “Hành khúc người đi tìm lửa”, lời Đinh La Thăng, nhạc
Hoàng Long. Giáo viên có thể dùng làm dữ liệu khi dạy về khoáng sản của Việt
Nam. Giúp học sinh thấy được dầu khí là tài nguyên quan trọng của nước ta, quá
trình khai thác rất gian khổ, và dầu khí đã góp phần phát triển đất nước Việt
Nam.
“Cùng nhau chung sức vì đất nước mạnh giàu. Thắp lên ngọn lửa từ những
giàn khoan…Khởi nguồn tài nguyên từ trong lòng đất. Vì nền công nghiệp vì đất
nước ngày mai….Có những người con ra đi tìm lửa. Vợt gian lao đội nắng mưa.
Một lòng son sắc vì đất nước đẹp tươi”.
1.1.2. Vai trò của Âm nhạc
Âm nhạc là tài sản tinh thần vô hình không thể thiếu của con người. Âm
nhạc có vai trò rất quan trọng trong đời sống của con người, đặc biệt là giáo dục.
Âm nhạc tác động đến giáo dục trẻ ở nhiều khía cạnh. Cụ thể:
- Âm nhạc góp phần phát triển năng lực thẩm mỹ, đạo đức, trí tuệ và thể
chất cho trẻ, từ đó tạo cơ sở ban đầu để hình thành nhân cách con người. Giai
19
điệu trầm bổng, sự phong phú của âm hình tiết tấu, sự đa dạng của các thể loại
âm nhạc đưa trẻ em vào thế giới của cái đẹp một cách hấp dẫn và lý thú. [2;24]
- Âm nhạc tạo ra những cảm xúc, khơi gợi ở trẻ tất cả những cái tốt đẹp,
hưng phấn và có sức thuyết phục mạnh mẽ. [2;24]
- Các nghiên cứu khoa học cho hay, âm nhạc có tác dụng giúp trẻ thông
minh hơn. Đây là kết luận rút ra từ cuộc nghiên cứu do Bộ Giáo dục nước Mỹ
thực hiện trong 10 năm, với khoảng 25000 trẻ. Kết quả nghiên cứu cho thấy các
môn nghệ thuật, nhất là âm nhạc đã giúp trẻ em có những tiến bộ rõ rệt trong
môn Toán, Lịch sử, Địa lý, Ngoại ngữ,… Những đứa trẻ có kỹ năng âm nhạc tốt
sẽ xuất sắc hơn trong việc giải quyết vấn đề, đánh giá và phân tích. Những bản
giao hưởng ngắn mang âm hưởng nhẹ nhàng, thuần túy có thể làm phát triển trí
não trẻ. [2;15]
- Nhạc viết về quê hương, đất nước mang tính giáo dục trẻ biết yêu quý quê
hương, biết giữ gìn tổ quốc. [2;20]
- Âm nhạc tạo cơ hội cho những trẻ rụt rè, nhút nhát được tỏa sáng, thể hiện
mình với niềm đam mê âm nhạc. Ngoài ra, một đứa trẻ dành hết thời gian của
mình ngoài giờ học với âm nhạc sẽ tránh được những thói hư, tật xấu. [2;20]
- Âm nhạc tăng sự hiểu biết của trẻ về văn hóa, đặc trưng các vùng miền,
hiện tượng địa lý, hoạt động sản xuất của người dân.
Tất cả những minh chứng trên nhằm khẳng định vai trò quan trọng không
thể thiếu của Âm nhạc trong đời sống, đặc biệt là với việc giáo dục trẻ và dạy học
phân môn Địa lý. Và còn có vô số chức năng khác ngoài giáo dục trẻ nữa, nhưng
với phạm vi của đề tài, chúng tôi chưa có dịp để đề cập đến. Cho nên, có thể
khẳng định rằng, với trẻ, giáo dục bằng con đường Âm nhạc là con đường dễ
chịu, dễ tiếp cận, gần gũi và khoa học.
1.1.3. Đặc điểm về tâm lý của học sinh giai đoạn lớp 4 – 5
1.1.3.1. Đặc điểm nhận thức của học sinh giai đoạn lớp 4 - 5
- Tri giác
Tri giác của học sinh Tiểu học mang tính đại thể, ít đi sâu vào chi tiết và
nặng về tính không chủ định, do đó mà các em phân biệt các đối tượng còn chưa
20
chính xác, dễ mắc sai lầm và có khi còn lẫn lộn. Khi học sinh tri giác thì cảm xúc
của các em thể hiện rất rõ. Điều mà học sinh tiểu học tri giác đầu tiên từ sự vật là
những dấu hiệu, những đặc điểm nào trực tiếp gây cho các em xúc cảm. Vì thế, giáo
viên nên lồng âm nhạc vào để tạo xúc cảm, hứng thú cho các em. Bởi hứng thú thúc
đẩy tích cực học sinh tham gia các hoạt động học tập và đạt được hiệu quả cao.
-Chú ý
Học sinh lứa tuổi lớp 4 -5 đã có thể duy trì chú ý có chủ định ngay cả khi có
động cơ xa. Chú ý có chủ định phát triển cùng với sự phát triển động cơ học tập,
hứng thú, sự trưởng thành về ý thức và trách nhiệm đối với việc học. Chú ý
không chủ định của học sinh tiểu học phát triển nhờ những thứ mang tính mới
mẻ, bất ngờ, rực rỡ, khác thường, dễ lôi cuốn sự chú ý của các em. Nhu cầu,
hứng thú có thể kích thích và duy trì chú ý không chủ định. Điều này tạo cơ hội
cho giáo viên nếu biết cách lồng âm nhạc cho phù hợp với nội dung và mức độ,
sẽ tăng được sự chú ý của các em. Bởi ít thầy cô vận dụng âm nhạc vào dạy học
phân môn Địa lý, nếu giáo viên biết kết hợp âm nhạc vào sẽ tạo sự mới mẻ cho
bài học. Thông qua mỗi bài hát, mỗi thể loại giáo viên vận dụng âm nhạc vào bài
dạy, sẽ gây sự bất ngờ, tò mò và học sinh rất muốn nghe, bên cạnh đó kích thích
hứng thú học tập sẽ giúp các em chú ý hơn.
- Trí nhớ
Học sinh tiểu học có trí nhớ trực quan hình tượng chiếm ưu thế hơn trí nhớ
từ ngữ logic, vì ở lứa tuổi này hoạt động của hệ thống tín hiệu thứ nhất ở các em
tương đối chiếm ưu thế. Các em chưa biết tổ chức ghi nhớ có ý nghĩa, chưa biết
sử dụng sơ đồ logic và dựa vào các điểm tựa để ghi nhớ. Hiệu quả của việc ghi
nhớ chủ định do tính tích cực học tập của học sinh quy định. Vì vậy, trong quá
trình dạy, giáo viên nên thông qua các bài hát, nghe và tìm hiểu các điểm cần lưu
ý để vận dụng vào bài học. Bên cạnh đó, nên cho học sinh về tự tìm hiểu, nghe
nhạc nhiều hơn về các địa danh, hiện tượng mà các em đã học. Mỗi ngày một ít,
qua mỗi lần nghe và lặp lại một cách dễ dàng, nhẹ nhàng, kích thích các em nhớ
bài tốt hơn.
- Tưởng tượng
21
Tưởng tượng là một trong những quá trình nhận thức quan trọng của học
sinh tiểu học. Nếu tưởng tượng của học sinh phát triển yếu, không đầy đủ sẽ gặp
khó khăn trong hoạt động, trong học tập. Nó được hình thành và phát triển trong
quá trình học tập của các em. Càng gần cuối bậc tiểu học (lớp 4, 5), tưởng tượng
của học sinh càng gần hiện thực hơn. Trí tưởng tượng của các em trong giai đoạn
này bị chi phối mạnh mẽ bởi các xúc cảm, tình cảm, những hình ảnh, sự việc,
hiện tượng đều gắn liền với các rung động tình cảm của các em. Giáo viên cần
căn cứ vào đặc điểm này mà trong quá trình dạy học, giáo viên phải sử dụng
nhiều hình thức khác nhau để khơi gợi hứng thú tham gia cho học sinh bằng cách
biến các kiến thức khô khan thành những hình ảnh có cảm xúc, nhạc điệu, đặt ra
cho các em những câu hỏi mang tính gợi mở, thu hút các em vào các hoạt động
nhóm, hoạt động tập thể.
- Tư duy
Quá trình học tập theo phương pháp nhà trường tạo cho học sinh tiểu học có
sự phát triển về tư duy, từng bước chuyển từ cấp độ nhận thức các sự vật và hiện
tượng chỉ vẻ bề ngoài, các biểu tượng dễ nhận biết bằng cảm tính đến nhận thức
được dấu hiệu bản chất của chúng. Giai đoạn cuối bậc tiểu học (lớp 4,5) các em
có thể phân tích đối tượng mà không cần tới những hành động trực tiếp đối với
đối tượng, các em có khả năng phân biệt những dấu hiệu, những khía cạnh khác
nhau của đối tượng dưới dạng ngôn ngữ. Do đó để các em học tập tốt hơn thì
phải tìm ra những phương pháp, hướng tiếp cận mới phù hợp với đặc điểm nhận
thức của học sinh. Tạo cơ hội để phát triển quá trình nhận thức, tư duy cho học
sinh, giúp phát huy hết khả năng của các em.
1.1.3.2. Đặc điểm tâm lý của học sinh giai đoạn lớp 4 -5
- Tình cảm
Đối với học sinh tiểu học, tình cảm có vị trí đặc biệt quan trọng gắn với
nhận thức, hoạt động học. Tình cảm tích cực sẽ kích thích các em nhận thức và
thúc đẩy hoạt động. Xúc cảm, tình cảm của học sinh tiểu học thường nảy sinh từ
các tác động của những người xung quanh, từ các sự vật, hiện tượng cụ thể, sinh
động. Học sinh tiểu học rất dễ xúc cảm, xúc động và khó kìm hãm cảm xúc của
22
mình. Tính dễ xúc cảm được thể hiện trước hết qua quá trình nhận thức, tri giác,
tưởng tượng, tư duy. Các quá trình nhận thức, hoạt động của học sinh tiểu học
đều chịu chi phối mạnh mẽ của cảm xúc và đượm màu sắc cảm xúc. Ở học sinh
tiểu học, nếu xúc cảm về một sự vật, hiện tượng được củng cố thường xuyên
trong cuộc sống thông qua các môn học, hoạt động thì sẽ hình thành được tình
cảm sâu đậm, bền vững. Với việc vận dụng Âm nhạc trong dạy học Địa lý, giúp
các em thêm yêu quê hương đất nước, yêu môn học vì nó cảm giác nhẹ nhàng,
gần gũi. Từ đó, tạo động lực để các em hứng thú, yêu thích học môn này.
- Nhu cầu nhận thức
Học sinh lớp 4,5 có nhu cầu trả lời được các câu hỏi thuộc loại tại sao, như
thế nào, nhu cầu tham quan, tìm hiểu, đọc sách cũng tăng lên với sự phát triển
của kỹ năng. Lúc đầu là nhu cầu có tính chất chung, sau đó là nhu cầu có tính
chọn lọc theo nhu cầu, sở thích của các em. Ở trẻ đã xuất hiện những nhu cầu
mới liên quan đến cuộc sống và học tập: nhu cầu thực hiện chính xác những yêu
cầu của giáo viên, nhu cầu chiếm lĩnh những điều mới mẻ, nhu cầu đến trường
với sự hoàn thành bài tập được giao…. Điểu này hướng đến cho giáo viên nên
gợi ý, tạo hứng thú để các em có nhu cầu tìm hiểu các bài hát liên quan đến kiến
thức địa lý, nhu cầu nghe nhạc để học tập. Qua mỗi lần học, sẽ tạo sự hưng phấn,
gần gũi mà học sinh muốn tìm hiểu.
1.2. Cơ sở thực tiễn
1.2.1. Mục tiêu và nội dung dạy học phân môn Địa lý lớp 4
1.2.1.1. Mục tiêu dạy học phân môn Địa lý lớp 4
- Kiến thức: Cung cấp cho học sinh một số kiến thức cơ bản, thiết thực về:
các sự vật, hiện tượng và các mối quan hệ địa lí đơn giản ở các vùng chính trên
đất nước ta.
- Kĩ năng: Bước đầu rèn luyện và hình thành cho học sinh các kĩ năng:
+ Quan sát sự vật, hiện tượng; thu thập, tìm kiếm tư liệu địa lý từ các nguồn
khác nhau.
+ Nêu thắc mắc, đặt câu hỏi trong quá trình học tập và chọn thông tin để
giải đáp.
+ Nhận biết đúng các sự vật, hiện tượng, sự kiện địa lý.
23
+ Trình bày lại kết quả học tập bằng lời nói, bài viết, hình vẽ, sơ đồ,….
+ Vận dụng các kiến thức đã học vào thực tiễn đời sống.
- Thái độ: Góp phần bồi dưỡng và phát triển ở học sinh những thái độ và
thói quen:
+ Ham học hỏi, tìm hiểu để biết về môi trường xung quanh các em.
+ Yêu thiên nhiên, con người, quê hương, đất nước.
+ Tôn trọng, bảo vệ cảnh quan thiên nhiên và văn hóa gần gũi với học sinh. [4;3]
1.2.1.2. Nội dung dạy học phân môn Địa lý lớp 4
Nội dung phần Địa lý trình bày các đặc điểm tiêu biểu về thiên nhiên, con
người của các vùng chính trên đất nước Việt Nam. Bao gồm 3 vùng chính, với
các nội dung liên quan như sau:
+ Nói về thiên nhiên và hoạt động sản xuất của con người ở miền núi và
trung du, gồm có các nội dung chính về một số vùng đặc trưng như: Dãy núi
Hoàng Liên Sơn, một số dân tộc và hoạt động sản xuất của người dân ở Hoàng
Liên Sơn. Trung du Bắc Bộ. Tây Nguyên, một số dân tộc ở Tây Nguyên, hoạt
động sản xuất của người dân ở Tây Nguyên. Cuối cùng là thành phố Đà Lạt
+ Với nội dung thiên nhiên và hoạt động sản xuất của con người ở miền
đồng bằng, bao gồm các vấn đề chính sau: Đồng bằng Bắc Bộ, người dân, hoạt
động sản xuất của con người ở đồng bằng Bắc Bộ. Thủ đô Hà Nội, thành phố Hải
Phòng. Đồng bằng Nam Bộ, người dân ở đồng bằng Nam Bộ, hoạt động sản xuất
của người dân ở đồng bằng Nam Bộ. Thành phố Hồ Chí Minh, thành phố Cần
Thơ. Dải đồng bằng duyên hải miền Trung, người dân ở đồng bằng duyên hải
miền Trung. Thành phố Huế, thành phố Đà Nẵng.
+Với nội dung về vùng biển Việt Nam, chương trình Địa lý chỉ yêu cầu tìm
hiểu sơ lược về hai nội dung, đó là: Biển, đảo và quần đảo. Và khai thác khoáng
sản, hải sản ở vùng biển Việt Nam
Ngoài ra, trong quá trình giảng dạy, giáo viên và cán bộ chỉ đạo tùy theo
điều kiện của nhà trường, địa phương, có thể linh động cho các em tìm hiểu địa
phương nơi mình đang sinh sống.
1.2.2 Thực trạng của việc sử dụng Âm nhạc trong dạy học Địa lý lớp 4
1.2.2.1. Mục đích điều tra
24
Điều tra nhằm tìm hiểu thực trạng của việc sử dụng Âm nhạc trong dạy học
phân môn Địa lý lớp 4. Hiện nay, các thầy (cô) giáo đã quan tâm, chú ý đến việc
sử dụng Âm nhạc trong dạy học phân môn Địa lý chưa? Các bài hát được giáo
viên lồng ghép, sử dụng trong nội dung và hình thức như thế nào? Giáo viên gặp
khó khăn gì trong dạy học cũng như việc sử dụng Âm nhạc trong dạy học phân môn
Địa lý? Học sinh có hứng thú như thế nào trong việc tích hợp và không tích hợp sử
dụng Âm nhạc trong phân môn Địa lý lớp 4? Để tìm hiểu thực trạng này, chúng tôi
đã tiến hành điều tra một số lớp của khối 4 trường Tiểu học Trần Quốc Toản, tại
thành phố Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam. Từ đó xác định căn cứ thực tiễn cho việc đề
xuất các giải pháp sử dụng Âm nhạc trong dạy học phân môn Địa lý lớp 4.
1.2.2.2. Đối tượng và địa bàn điều tra
Trong phạm vi của đề tài, đối tượng của chúng tôi tiến hành điều tra là giáo
viên và học sinh lớp 4 tại trường Tiểu học Trần Quốc Toản. Tất cả giáo viên mà
chúng tôi điều tra đều đạt chuẩn, đều tốt nghiệp Đại học Sư phạm, chỉ 1 giáo viên
tốt nghiệp Trung học Sư phạm. Hầu hết giáo viên có điều kiện để tìm hiểu về xu
hướng đổi mới trong dạy học nói chung, đổi mới phương pháp, hướng đi, sự tiếp
cận nói riêng. Thâm niên giảng dạy ít nhất của các giáo viên là 16 năm, nhiều nhất
là 34 năm. Như vậy, thành phần giáo viên tham gia khảo sát đảm bảo yêu cầu.
1.2.2.3. Nội dung điều tra
Tìm hiểu mức độ hiểu biết, tầm quan trọng của dạy học phân môn Địa lý
nói chung, sử dụng Âm nhạc trong dạy học phân môn Địa lý lớp 4 nói riêng.
Thực trạng, vị trí của việc sử dụng Âm nhạc trong dạy học Địa lý lớp 4.
* Về phía giáo viên
Để tham khảo ý kiến của giáo viên, chúng tôi tiến hành điều tra với 9 câu
hỏi, nội dung như sau:
+ Mẫu phiếu điều tra (phụ lục)
- Câu 1, 2: Tìm hiểu sự đánh giá của giáo viên về việc dạy học phân môn
Địa lý cho học sinh lớp 4.
- Câu 3: Tìm hiểu những thuận lợi và khó khăn trong dạy học phân môn Địa lý.
25