BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
---------------------------
NGUYỄN ĐÌNH DOANH
CẢM THỨC ĐÔ THỊ
TRONG TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
(QUA TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN HUY THIỆP,
HỒ ANH THÁI, NGUYỄN THỊ THU HUỆ)
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
HÀ NỘI, 2016
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI
HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
NGUYỄN ĐÌNH DOANH
CẢM THỨC ĐÔ THỊ
TRONG TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI (QUA
TRUYỆN NGẮN CỦA NGUYỄN HUY THIỆP HỒ ANH
THÁI, NGUYỄN THỊ THU HUỆ)
Chuyên ngành: Lí luận văn học
Mã số: 60 22 01 20
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Đăng Điệp
Hà Nội - 2016
LỜI CẢM ƠN
Mở đầu luận văn tôi xin được gửi lời cảm ơn trân trọng, sâu sắc tới PGS.TS
Nguyễn Đăng Điệp đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tôi trong quá trình thực hiện
luận văn này.
Xin được cảm ơn Phòng Sau đại học, Khoa Ngữ Văn trường Đại học Sư phạm
Hà Nội 2, Viện Văn học cùng các thầy giáo, cô giáo đã nhiệt tình giảng dạy, tư vấn,
tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong việc học tập và nghiên cứu.
Xin được cảm ơn Hội đồng bảo vệ, các thầy cô phản biện đã đóng góp cho
tôi những ý kiến quý báu và tạo điều kiện cho tôi bảo vệ thành công luận văn thạc sĩ
của mình.
Xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, ngày 30 tháng 11 năm 2016
Học viên
Nguyễn Đình Doanh
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng số liệu và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là
trung thực và không trùng lặp với các đề tài khác. Tôi cũng xin cam đoan rằng mọi
sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cảm ơn và các thông tin trích
dẫn trong luận văn đã được chỉ rõ nguồn gốc.
Học viên
Nguyễn Đình Doanh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài .....................................................................................................1
2. Lịch sử vấn đề .........................................................................................................3
3. Mục đích nghiên cứu.............................................................................................13
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................................13
5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ............................................................................13
6. Đóng góp mới của luận văn ..................................................................................14
7. Phương pháp nghiên
cứu.......................................................................................14
8. Cấu trúc của luận văn ............................................................................................14
CHƯƠNG 1. CẢM THỨC ĐÔ THỊ TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
............................................................................................................................15
1.1. Giới thuyết về khái niệm đô thị và đô thị hóa
....................................................15
1.1.1. Đô thị ...........................................................................................................15
1.1.2. Đô thị hóa
..................................................................................................16
1.2. Cảm thức đô
thị..................................................................................................17
1.2.1. Cảm thức
.........................................................................................................17
1.2.2. Cảm thức đô thị...............................................................................................18
1.3. Cảm thức đô thị trong văn học nhìn từ lịch sử...................................................19
1.3.1. Vài nét về văn học đô thị trên thế giới
............................................................19
1.3.2. Đô thị trong văn học Việt Nam trước 1986.....................................................20
1.3.3. Đô thị trong văn học Việt Nam sau 1986 ........................................................23
CHƯƠNG 2. ĐỜI SỐNG VÀ CON NGƯỜI ĐÔ THỊ TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN
HUY THIỆP, HỒ ANH THÁI, NGUYỄN THỊ THU HUỆ...................27
2.1. Một đời sống xô bồ, hỗn tạp ..............................................................................27
2.1.1. Sự thay đổi mô hình xã hội dẫn đến những đảo lộn giá trị trong cuộc sống..27
2.1.2. Sự đảo lộn các giá trị ......................................................................................28
2.2. Xu hướng vọng ngoại, chạy theo lối sống phương Tây ....................................36
2.3. Con người tha
hóa...............................................................................................40
2.3.1. Con người thực dụng
.......................................................................................40
2.3.2 Con người biến
chất..........................................................................................51
2.4. Con người cô đơn
...............................................................................................58
CHƯƠNG 3. NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN CẢM THỨC ĐÔ THỊ TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA
NGUYỄN HUY THIỆP, HỒ ANH THÁI, NGUYỄN THỊ THU HUỆ 73
3.1. Điểm nhìn trần
thuật...........................................................................................73
3.1.1. Trần thuật từ điểm nhìn bên trong
..................................................................73
3.1.2. Trần thuật từ điểm nhìn bên
ngoài..................................................................79
3.1.3. Sự dịch chuyển điểm nhìn nghệ thuật
.............................................................86
3.2. Ngôn ngữ
............................................................................................................92
3.2.1. Vài nét về ngôn ngữ truyện ngắn ....................................................................92
3.2.2. Ngôn ngữ truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái, Nguyễn Thị Thu Huệ ..93
3.3. Giọng điệu trần
thuật........................................................................................108
3.3.1. Khái lược về giọng điệu trần thuật ...............................................................108
3.3.2. Giọng điệu trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái, Nguyễn
Thị Thu Huệ.............................................................................................................109
KẾT LUẬN .............................................................................................................125
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1. Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986), với chính sách mở cửa của
Đảng và Nhà nước theo phương thức đổi mới đạt được nhiều thành tựu trên các
phương diện kinh tế, văn hóa, xã hội làm thay đổi căn bản diện mạo đất nước. Kinh
tế phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện. Các hoạt
động văn hóa, xã hội trong xu thế hội nhập trở nên đa dạng, phong phú, đáp ứng
tốt hơn các nhu cầu khác nhau của đời sống con người. Tuy nhiên, chúng ta cũng
chịu những hậu quả không nhỏ từ mặt trái của nền kinh tế thị trường tác động
trực tiếp làm thay đổi nhiều giá trị truyền thống của dân tộc. Con người đô thị
đứng trước vòng xoáy, cám dỗ của đồng tiền, quyền lực, hư danh… Một bộ phận
không nhỏ cư dân đô thị đã không xác định được chỗ đứng và định hướng của
mình trong xã hội, bị cuốn vào vòng xoáy của cơ chế thị trường trong sự cạnh tranh
khốc liệt của nền kinh tế hàng hóa, nhiều khi buông thả mình theo lối sống thực
dụng mà bất chấp nền tảng đạo đức, luân lí truyền thống. Một số khác lại rơi vào
trạng thái hoang mang, lạc loài, đơn độc trước những biến thiên của thời cuộc
khi những giá trị truyền thống thay đổi, đảo lộn. Thực trạng phi lí và cay đắng đó
đã làm sụp đổ thế giới tinh thần mà bấy lâu nay con người Việt Nam hằng coi trọng
và giữ gìn.
2. Cùng với sự thay đổi của đời sống kinh tế - xã hội, văn học Việt Nam
đương đại cũng từng bước thích ứng và có những thay đổi rõ rệt. Vấn đề đời
sống đô thị đã trở thành vấn đề được nhiều nhà văn quan tâm, phản ánh. Các nhà
văn thời kì này đã thực tế, chủ động, nhạy cảm và nhanh chóng nắm bắt được
những vấn đề nóng bỏng của đời sống xã hội, đi sâu đề cập đến những vấn đề cá
nhân, xoáy sâu vào thực tế bụi bặm đời sống con người trong bước chuyển mình đi
vào cơ chế thị trường, đang xâm thực và làm băng hoại đời sống văn hóa, đạo đức,
tinh thần của con người cùng những vấn đề phát sinh mới trong đời sống xã hội
do quá trình đô thị hóa.
3. Truyện ngắn Việt Nam về đô thị rất phong phú, bao quát được nhiều bức
tranh đa dạng với những mảng nhòe mờ và những góc khuất của xã hội đô
thị
đương đại đang trong giai đoạn kiến tạo, phát triển. Dường như, mọi vấn đề trong
bức tranh ấy đều được khai phá, không còn những khoảng trống bị cấm kị, né
tránh. Đô thị như có một sức cuốn hút, một thôi thúc thể hiện và một đam mê thử
sức. Các nhà văn, bên cạnh nhiệm vụ tiếp tục đề cao cái mới, ngợi ca những
điều tốt đẹp, nhân văn trong cuộc sống đã có cơ hội viết nhiều hơn, thẳng thắn
hơn về những mặt trái của xã hội, những tiêu cực, những hạn chế đang xâm thực
và làm băng hoại đời sống văn hóa, đạo đức và tinh thần của con người đô thị.
Nguyễn Đình Tú đã khẳng định cách lí giải về giới trẻ đô thị như sau:"Hoang
hoải, lạc loài, hoài nghi và vỡ mộng chỉ những trạng huống tinh thần của con
người chứ không phải là một khúc cắt rời của hiện trạng xã hội. Ở một phương
diện nào đó, hoài nghi và vỡ mộng không phải không có ý nghĩa tích cực trong
cuộc sống đối với mỗi con người. Văn học nói về cái mất mát để giữ gìn, nói về
nước mắt để hạnh phúc, nói về khiếm khuyết để hoàn thiện"[52].
Trong số các nhà văn đương đại có tên tuổi viết về đô thị như: Chu Lai, Tạ
Duy Anh, Trung Trung Đỉnh, Đức Ban, Đỗ Vĩnh Bảo, Nguyễn Bình Phương, Ma Văn
Kháng, Đỗ Bích Thúy, Đỗ Phấn, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Trương Quý…Nguyễn Huy
Thiệp, Hồ Anh Thái, Nguyễn Thị Thu Huệ là một trong những cây bút có nhiều
truyện ngắn viết về đô thị. Tác phẩm của các nhà văn ngay từ khi mới chào đời đã
thu hút sự chú ý đặc biệt của bạn đọc cũng như giới chuyên môn, phê bình. Mặc
dù, truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái, Nguyễn Thị Thu Huệ đề cập
đến những vấn đề không hoàn toàn là mới về đô thị, nhưng lại luôn là những đề tài
nóng bỏng về con người trong bối cảnh xã hội đang có những thay đổi hết sức
mạnh mẽ, quyết liệt theo cả chiều hướng tích cực và tiêu cực... Cảm hứng chủ
đạo trong truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái, Nguyễn Thị Thu Huệ là
những suy tư, phân tích, phản ánh cuộc sống và con người đô thị trên nhiều
phương diện: từ nhận thức, phân tích, phê phán, chiêm nghiệm, bi kịch, trào
lộng...Với mong muốn đóng góp một tiếng nói vào việc nghiên cứu truyện ngắn
Việt Nam đương đại viết về đô thị tôi quyết định lựa chọn nghiên cứu đề tài: “Cảm
thức đô thị trong truyện ngắn Việt Nam đương đại (Qua truyện ngắn của Nguyễn
Huy Thiệp, Hồ Anh Thái, Nguyễn Thị Thu Huệ)”.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Những nghiên cứu chung về đô thị trong văn học Việt Nam đổi mới
Vấn đề cuộc sống đô thị là một đề tài không mới nhưng rất nhạy cảm, vì nó
xoay quanh cuộc sống con người với những vấn đề xã hội nhức nhối, những quan
hệ phức tạp, xô bồ, những được mất hư hao, những khủng hoảng hay bứt
phá, những xây mộng và vỡ mộng, những trải nghiệm và trả giá, những nợ đời và
nợ lòng… nên gây được chú ý đặc biệt đối với độc giả và giới nghiên cứu. Nhiều
nhà nghiên cứu đã có những đánh giá nhìn nhận về văn học đô thị hôm nay rất
khách quan và xác thực, chúng tôi xin điểm qua một số ý kiến như:
Trong cuộc thảo luận về văn học đô thị do báo điện tử Người đô thị tổ chức,
khi đề cập đến các vấn đề nội hàm của khái niệm văn học đô thị, diễn tiến của văn
học đô thị Việt Nam trong quá khứ, những thành tựu của văn học Việt Nam đương
đại, PGS.TS Đỗ Lai Thúy cho rằng:“tiểu thuyết đô thị Việt Nam còn ít về đề tài đô
thị, nếu có thì đôi khi đô thị thường được nhìn bằng sự hoài niệm nông thôn. Bởi
vậy, tính đô thị của nó chủ yếu biểu hiện ở phương diện thể loại. Theo ông Mai Anh
Tuấn, “văn học đô thị Việt Nam xuất hiện từ khi đô thị xuất hiện tầng lớp trung lưu
đô thị và tầng lớp tư sản nội địa. Tức là khi xuất hiện hai sự đối kháng cả về mặt
địa chính trị và địa văn hóa với tầng lớp nông dân”. Một cảm thức đô thị quan
trọng được tác giả nhắc tới: “Sự cô đơn của con người, khi viết về điều đó thì văn
học đô thị hiện đại đã chạm sâu vào con người đô thị”.
Ông Phó Đức Tùng nhận định:“Đô thị Việt Nam không có lõi, và khi không
có lõi, tính hiện đại trong văn học đô thị của Việt Nam chỉ là tính hiện đại bắt
chước, chưa phải là tính đô thị”.
Các ý kiến đánh giá dù là trực tiếp hay gián tiếp đều góp phần quan trọng
trong việc nhìn nhận đúng về thực trạng và tương lai của văn học đô thị Việt Nam.
Điều đó, cũng lí giải vì sao, mỗi khi tác phẩm viết về đô thị của các nhà văn ra đời
luôn nhận được nhiều sự quan tâm và nhiều ý kiến bàn luận từ các độc giả, các
nhà chuyên môn.
Qua hệ thống tài liệu tham khảo, chúng tôi nhận thấy vấn đề đô thị trong
văn học Việt Nam từ khi đổi mới (1986) đến nay, đã trở thành vấn đề hấp dẫn
được giới nghiên cứu, phê bình chú ý. Có thể kể tên một số ý kiến cơ bản như sau:
Nhìn nhận về đô thị trong văn học Việt Nam đương đại, tác giả Đặng Thái
Hà trong bài “Vấn đề sinh thái - đô thị trong văn xuôi Việt Nam thời đổi mới”
đăng trên Tạp chí văn nghệ quân đội ngày 03/8/2005 đã đề cập đến vấn đề đô
thị và đô thị hóa trong truyện ngắn của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp,
Nguyễn Ngọc Tư, Tạ Duy Anh, Đỗ Phấn, Nguyễn Quang Thiều...Tác giả đã khái quát
vấn đề đô thị đã ảnh hưởng đến môi trường sinh thái “đô thị hóa hay là sự
tuyệt giao với tự nhiên” và những vấn đề mà con người phải đối mặt khi quá
trình đô thị hóa diễn ra gay gắt. Đó có thể là sự chốn chạy khỏi đời sống đô thị ngột
ngạt, chật chội, xô bồ với nhiều cám dỗ, thói hư tật xấu và những giá trị truyền
thống đang dần bị xói mòn, thay đổi. Tác giả nhận định: “Bởi động lực quan
trọng thúc đẩy sự phát triển đô thị, thực chất, chính là sự suy thoái và hủy diệt
những không gian khác. Văn học, trong một bối cảnh mà đô thị hóa đã trở
thành vấn đề trọng yếu đã thể hiện những dự cảm và nỗi hoang mang đó theo
cách của riêng mình trước thực trạng xã hội và sự hủy diệt môi trường sống”[26].
Tác giả Lê Hương Thủy trong bài viết: “Truyện ngắn đương đại về đề tài đô
thị” đăng trên “Tạp chí văn nghệ quân đội” ngày 10/12/2012 đã nêu lên quan
điểm của mình về truyện ngắn về đề tài đô thị trong bối cảnh hiện nay được hiểu là
những tác phẩm phản ánh đời sống từ mọi khía cạnh và phương diện. Hiện nay,
chúng ta đang sống trong giai đoạn mà quá trình đô thị hóa diễn ra một cách
nhanh chóng. Điều này, đã làm thay đổi không chỉ bộ mặt các thành phố, trung
tâm văn hóa- chính trị mà ngay cả ở nông thôn miền núi. Vì vậy, vấn đề đô thị đã
trở thành đề tài được nhà văn quan tâm, khai thác. Một đội ngũ những cây bút
trong nền văn học đương đại viết về đô thị dần được hình thành. Tác giả cho biết:
“Tiến trình đô thị hóa đã tác động đến đời sống văn học, không chỉ ở số lượng tác
phẩm viết về đô thị
mà còn ở những vấn đề của đời sống, con người, xã hội đô thị được chuyển
tải trong sáng tác”[113]. Trong bài viết, Lê Hương Thủy đã chỉ ra những vấn đề về
đời sống đô thị và sự thay đổi hình tượng văn học, hiện thực đời sống thị dân và
dấu ấn đô thị trong nhiều sáng tác của các nhà văn: Nguyễn Huy Thiệp, Đỗ Phấn,
Hồ Anh Thái, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Khải, Vũ Đình Giang, Vũ Tiến Thụy, Phong
Điệp, Nguyễn Thị Thu Huệ...Tác giả nhận định rằng: “Hình ảnh đô thị trong truyện
ngắn đương đại không chỉ là hình ảnh hào nhoáng, sang trọng, lịch lãm mà còn là
những góc khuất, những sự xáo trộn trong đời sống và tâm hồn con người. Không
ít truyện ngắn mang đến thông điệp về sự biến đổi của đô thị và những mặt
trái của nó”[113].
Bên cạnh việc đề cập đến hiện thực đời sống đô thị, tác giả còn khái quát
hình ảnh con người chốn thị thành đó là “con người cô đơn, con người cá nhân
– một dạng thức và tâm thái của con người đô thị”. Việc thể hiện con người cô
đơn, con người cá nhân trong các truyện ngắn đương đại cho thấy sự thay đổi
quan niệm nghệ thuật về con người của nhà văn hôm nay.
PGS. TS Đỗ Lai Thúy trong bài Văn học đô thị Việt Nam nhìn từ thể loại
tiểu thuyết đăng trên tạp chí điện tử Người đô thị ngày 04/4/2015, cũng đã nêu
lên những vấn đề về cuộc sống đô thị trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp biểu
hiện ở những truyện ngắn: Tướng về Hưu, Không có vua, Huyền thoại phố
phường..., Nguyễn Việt Hà:Cơ hội của Chúa, Khải huyền muộn, Ba ngôi của
người.., của Đặng Thân:3.3.3.9, Những mảnh hồn trần..., của Thuận:Phố Tàu, T
mất tích…, của Đỗ Phấn...
Theo TS. Đỗ Hải Ninh, văn học Việt Nam đương đại đã có những tác giả
thành công khi viết về đô thị như: Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Việt Hà, Đỗ Phấn,
Nguyễn Danh Lam, Trần Nhã Thụy... Sáng tác của họ đã chạm đến nơi sâu khuất
của con người và đời sống đô thị đó là: nỗi cô đơn, sự trống rỗng, cuộc sống đơn
điệu, thiếu vắng. Cuộc sống đô thị vừa là biểu tượng của cái hiện đại, của văn minh
công nghiệp, đầy cám dỗ vừa ẩn chứa những đe dọa, với sự tha hóa nhân tính và
nỗi mặc cảm…Nhiều tác giả văn xuôi, đặc biệt là các cây bút trẻ hiện nay có xu
hướng
tìm đến những không gian đô thị khác lạ, mới mẻ, không gian hải ngoại, đó cũng là
ý thức kiến tạo không gian đô thị của người viết. Văn học viết về đô thị đương đại
đã rất thành công khi kiến tạo nên kiểu nhân vật trí thức, nhưng tôi vẫn mong các
nhà văn viết về đô thị hãy nhìn xuống “dưới đáy” để có nhiều tác phẩm thể hiện
được đời sống đô thị đa diện, đa chiều hơn nữa.
Đã có những bài viết nghiên cứu, các tiểu luận, luận văn đề cập đến đến vấn
đề đô thị trong sáng tác của từng các nhà văn thời kỳ này. Tuy nhiên, tất cả chỉ mới
dừng lại ở những nghiên cứu đơn lẻ ở từng nhà văn, tập trung chủ yếu ở thể loại
tiểu thuyết. Đến nay, chưa thấy có một công trình nghiên cứu nào mang tính toàn
diện, khái quát, hệ thống về vấn đề đô thị trong truyện ngắn Việt Nam đương đại.
2.2. Những nghiên cứu về vấn đề đô thị trong sáng tác của ba nhà văn Nguyễn
Huy Thiệp, Hồ Anh Thái, Nguyễn Thị Thu Huệ
2.2.1. Những nghiên cứu về vấn đề đô thị trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp
Nguyễn Huy Thiệp là một tác giả xuất sắc trong phong trào đổi mới văn học
Việt Nam sau năm 1986. Ông viết ở nhiều lĩnh vực: kịch, tiểu thuyết, phê bình văn
học...nhưng nhắc đến Nguyễn Huy Thiệp, phải với tư cách là một cây bút viết
truyện ngắn rất thành công. Ngay từ khi xuất hiện trên văn đàn, Nguyễn Huy Thiệp
đã trở thành một hiện tượng đặc biệt, làm khuấy động bầu không khí sinh hoạt
văn hóa, văn nghệ nước nhà sau những năm đời sống văn học khá yên ắng. Vì vậy,
số lượng các bài nghiên cứu, bài viết, luận văn về Nguyễn Huy Thiệp rất nhiều.
Chúng tôi xin điểm qua một số ý kiến có ít nhiều liên quan đến đề tài nghiên cứu
như sau:
Với giới nghiên cứu, đến nay có nhiều bài nghiên cứu, phê bình của các tác
giả như: Hoàng Ngọc Hiến, Lại Nguyên Ân, Đặng Anh Đào, Phạm Xuân Nguyên,
Nguyễn Đăng Điệp, Lã Nguyên, Trần Đình Sử...Mỗi bài viết là một cách nhìn, một
quan điểm về sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp.
Trước sức hút của “hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp”, nhà nghiên cứu Phạm
Xuân Nguyên trong cuốn Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp do Nhà xuất bản Văn hóa Thông
tin Hà Nội phát hành năm 2001(gồm 54 bài viết) đã dày công nghiên cứu, biên
soạn, tập hợp những bài viết về các khía cạnh khác nhau xoay quanh Nguyễn
Huy Thiệp và những tác phẩm của ông. Trong đó là tập hợp nhiều ý kiến bàn luận,
tranh luận, đối thoại với độc giả... Có thể thấy một số ý kiến chính sau:
Một số ý kiến thiên về phản ứng, thậm chí phê phán quyết liệt: “Ngòi bút
của anh Thiệp đúng là của hiếm. Của hiếm của một tài năng đồng thời cũng là của
hiếm của một bệnh lý, sự vội vã định hình, sự bộc lộ sâu sắc cái tâm lý chủ đạo là
chối bỏ và phản kháng”[72].
Còn lại nhiều ý kiến được hiểu như dòng chủ lưu, thì nồng nhiệt chào đón,
đánh giá cao, cho rằng Nguyễn Huy Thiệp xứng đáng nhận tặng thưởng “cây bút
vàng”, “quả bóng vàng”(Vương Trí Nhàn);“Lâu lắm rồi văn học Việt Nam mới
xuất hiện một hiện tượng như hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp... Hy vọng chúng ta sẽ
còn được đọc nhiều tác phẩm hay hơn nữa của anh. Có điều là mong cho anh
có đầy đủ bản lĩnh để đứng vững trước những lời chê bai. Và cả những
lời khen” (Diệp Minh Tuyền); “Nguyễn Huy Thiệp xuất hiện như một tài năng,
ngày càng có nhiều sự bàn cãi” (Nguyễn Văn Bổng); “Tôi thấy Nguyễn Huy Thiệp
xuất hiện với một giọng điệu mới, một bút pháp sắc gọn, trẻ trung, rất thích”
(Hồ Phương); Trong hành trình “Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp”, “tôi thấy một giọt vàng
rơi vào lòng mình, giọt vàng ròng ngời sáng. Đó là truyện ngắn của anh” (Đỗ
Đức Hiểu)...[72].
Ngoài hai luồng ý kiến chính nêu trên, tập sách “Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp”
còn có nhiều tiểu luận nghiên cứu về Nguyễn Huy Thiệp. Nhiều tác giả đặt vấn đề
phân tích từng hình tượng nhân vật, từng truyện ngắn, từng cụm đề tài, từng
thủ pháp nghệ thuật, … trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp.
Về mảng đề tài thành thị trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, có thể tìm
thấy những nghiên cứu xoay quanh vấn đề này như:
Nhà nghiên cứu văn học Hoàng Ngọc Hiến trong bài “Tôi không chúc bạn
thuận buồm xuôi gió” có đề cập đến thế giới nhân vật với những mưu toan,
tính toán trong “Huyền thoại phố phường”, “Không có vua”, “Tướng về hưu”.
Nhà nghiên cứu chỉ ra những hiện thực tàn nhẫn, sự tha hóa, biến chất của con
người ở
thành thị. Những nhận định này góp phần giúp cho chúng ta nhìn nhận lại về con
người thành thị, về thế giới “loạn cờ”, “không có vua”.
Với các tác phẩm viết về các vấn đề đương đại, đề cập đến đời sống thành
thị như: Tướng về hưu, Huyền thoại phố phường, Không có vua, Sang sông,
Những bài học nông thôn, Cún…đã có nhiều bài nghiên cứu, luận văn, khóa luận,
ý kiến nghiên cứu về các vấn đề khác nhau trong các tác phẩm của ông. Nhìn
chung các nhà nghiên cứu đều nhận thấy có một điểm chung nhất thể hiện trong
truyện ngắn về đề tài thành thị của nhà văn đó là: Hiện thực về một cuộc sống
hỗn tạp, xô bồ, trật tự xã hội bị đảo lộn, con người có xu hướng bị tha hóa, mất
niềm tin, trở nên lạc loài...Tuy nhiên, các vấn đề đã nghiên cứu về Nguyễn Huy
Thiệp chủ yếu tập trung nhiều về hiện tượng Nguyễn Huy Thiệp và những sáng tác
của ông. Những nghiên cứu này, chủ yếu nhìn nhận các tác phẩm trong toàn bộ
sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp, hoặc chủ yếu khai thác vào các mảng đề tài lịch sử,
nông thôn, vấn đề con người, vấn đề nghệ thuật chung… mà chưa thấy có một luận
văn cụ thể nào lấy vấn đề đô thị trong truyện ngắn của ông làm đối tượng nghiên
cứu.
2.2.2. Những nghiên cứu về vấn đề đô thị trong sáng tác của Hồ Anh Thái
Cho đến thời điểm hiện tại, Hồ Anh Thái luôn khẳng định mình là nhà văn
chuyên nghiệp, có bút lực sung sức và thái độ lao động nghệ thuật nghiêm túc.
Ông có nhiều đóng góp trong tiến trình cách tân bộ mặt văn chương đương đại.
Chính vì vậy, đã có rất nhiều ý kiến, bài viết, luận văn về các sáng tác của Hồ Anh
Thái. Chúng tôi xin nêu, trích dẫn một cách khái quát một số ý kiến, nhận định và
điểm qua một số đề tài luận văn đã nghiên cứu có những liên quan ít nhiều đến đề
tài mà chúng tôi nghiên cứu:
Trong Người luôn làm mới mình, Tôn Phương Lan nhận xét: “Dường như
với anh, viết là một sự khai phá mới trên mảnh đất đã có chi chít dấu chân. Tạo
ra một “thương hiệu” cho mình, chí ít đã làm anh đa dạng gương mặt văn
chương đất nước những năm đầu thế kỉ mới”[53; tr.267].
Trong Hồ Anh Thái và dấu ấn hậu hiện đại, tác giả Bùi Thanh Truyền và
Lê Biên Thùy khi khảo sát các tập truyện Sắp đặt và diễn, Tự sự 265 ngày đã nhận
xét: “Hồ Anh Thái là một gương mặt tiêu biểu đã góp công cho sự tìm tòi, thể
nghiệm, tạo dựng một thứ văn học mới có khả năng lật trở, soi chiếu nhiều
phương diện của thực tại hôm nay[120]. Đề tài trong các tác phẩm của anh
thường ghi đậm dấu ấn về sự khủng hoảng niềm tin của con người. Tác phẩm của
Hồ Anh Thái thường xoáy sâu vào một thế giới vô nghĩa, phi lí và tương ứng với nó
là một hệ thống các nhân vật nghịch dị, quái đản. Phản ánh hiện thực nhiễu
nhương, xô bồ thời hiện đại nhà văn đã xây dựng được những hình tượng nhân
vật độc đáo, với giọng điệu hài hước, giễu nhại đặc trưng.
Bên cạnh đó, còn có hàng loạt bài viết, phê bình, nghiên cứu về Hồ Anh Thái
như: Tác giả Ngọc Anh với: Nhà văn Hồ Anh Thái, sáng tạo, bứt phá trên từng
con chữ; Nguyễn Đăng Điệp với bài: Hồ Anh Thái, người mê chơi cấu trúc; Diệu
Hường với bài: Một góc nhỏ văn chương Hồ Anh Thái; Thúy Liễu với Người
thích đi chệch đường ray…?; Tác giả Thiên Ý với Nhà văn Hồ Anh Thái:một
mình qua đường; Mai Phương với Nhà văn Hồ anh Thái: hành trình sáng tạo
không mệt mỏi; Trần Thị Hải Vân trong Một chiêm nghiệm cõi người; Vũ Bão với
Vẫn là nỗi đau truyền kiếp…Hầu hết các bài viết, ý kiến đều có một nhận định
chung đó là: Khẳng định tài năng, sự sáng tạo và đóng góp của Hồ Anh Thái trên
các phương diện cho văn học đương đại Việt Nam.
Đánh giá về Tự sự 265 ngày, Bốn lối vào nhà cười, Mảnh vỡ đàn ông cũng
đã có nhiều ý kiến nhận xét, tiêu biểu như: Ngô Thị Kim Cúc trong bài Có ai chẳng
muốn đùa đã viết: “Tất cả một loạt truyện ngắn đều phác họa những chân dung
tri thức, những kẻ sĩ thời đại. Nhưng chúng được nhìn gần đến mức khi được đặc
tả thì không tránh khỏi những nét thô lậu khó coi mà thông thường người
khác vẫn thường qua bởi họ cần những chân dung trơn nhẵn, đèm đẹp, mặc kệ
chúng có nhạt thếch đến mức nào”[98;tr. 230].
Nguyễn Chí Hoan trong Nhà văn không cười, nhận xét: “Mỗi truyện bày ra
một bối cảnh phông màn khác nhau nhưng tấn bi kịch cuộc đời gần như chỉ là
một: Đây là một phần mặt trái của một lớp thị dân hiện đại xuất thân đa dạng,
nhưng
10
cũng chia sẻ những cố tật-hãnh tiến và gian manh, đố kị và hợi hợt, khôn ngoan
mà dung tục hẹp hòi…[98;tr.249].
Nguyễn Chí Hoan trong bài Truyện: không là truyện, nhân vật: không là
nhân vật, ấy là truyện nhận xét: “Dồn dập, xô bồ, trùng điệp đầy ứ những
miệng lưỡi của cái dung tục thị dân, quay cuồng và quay quắt, chua chát và lọc
lõi yếm thế, nhại và lái, đổng và lộng…và đấy là ngôn từ”[95 ;tr.259].
Nguyễn Đăng Điệp trong bài Hồ Anh Thái, người mê chơi cấu trúc nhận
định: “Hồ Anh Thái có ý thức tạo dựng một thế giới vừa giống thực bằng những chi
tiết nhặt được từ đời sống phồn tạp vừa tạo nên một thế giới ngập đầy biểu
tượng. Thông điệp của nhà văn không hiện ra lộ liễu mà toát lên từ tình thế qua
các biểu tượng thoát đầy chất ảo” và “trên thực tế, bằng những nỗ lực không
mệt mỏi, anh đã tạo nên những cái nhìn độc đáo về cuộc sống”. Chính cái nhìn
mới mẻ trên đã giúp nhà văn khám phá thực trạng cuộc sống để bạn đọc nhận
thấy: “sự xen cai của cái ác và cái thiện, cái cao cả và thấp hèn, cái sang trọng đi
liền với nhếch nhác, cái trong suốt xen lẫn cái phàm tục”[19 ].
Bên cạnh đó còn có một số khóa luận, luận văn đã khảo sát các sáng tác của
nhà văn ở phương diện như nghệ thuật trần thuật, quan niệm nghệ thuật về
con người của nhà văn. Nhìn chung các ý kiến, bài viết, luận văn đều thể hiện
những nhận định chung đó là: Đời sống thị dân là vấn đề cơ bản trở đi trở lại trong
nhiều sáng tác của Hồ Anh Thái. Các ý kiến đều điểm qua những thành công trên
phương diện nội dung, hình thức, cách xây dựng nhân vật…của nhà văn. Tuy nhiên
các luận văn chỉ tập trung nghiên cứu nhiều ở thể loại tiểu thuyết của nhà văn. Còn
ở địa hạt truyện ngắn viết về đô thị, chúng tôi chưa thấy có một luận văn nào chọn
làm đối tượng nghiên cứu của mình.
2.2.3. Những nghiên cứu về vấn đề đô thị trong sáng tác của Nguyễn Thị Thu Huệ
Nguyễn Thị Thu Huệ là một trong số ít những nhà văn nữ tài năng của nền
văn học đương đại Việt Nam. Với khoảng ngoài 20 năm cầm bút, tuy số lượng tác
phẩm của chị không nhiều nhưng so với những cây bút cùng thế hệ, tác phẩm
của chị lại có những nét riêng, độc đáo, hấp dẫn đón được sự tin yêu của bạn
đọc. Tác
11
phẩm của chị đã là đối tượng của nhiều ý kiến, bài viết, tiểu luận, luận văn, bài
nghiên cứu… Có thể kể tên một số bài viết, công trình nghiên cứu tiêu biểu liên
quan đến đề tài nghiên cứu như:
Truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ đã và đang cuốn hút người đọc bởi một
lối viết riêng, một phong cách riêng. Tác giả Bùi Việt Thắng trong cuốn: Truyện
ngắn những vấn đề lí thuyết và thực tiễn thể loại đã khẳng định: “Đối tượng
mà nhà văn quan tâm và hướng tới là “những thiên đường và hậu thiên đường
của đời sống con người, đặc biệt là người phụ nữ”. “Truyện ngắn Thu Huệ luôn có
hai mặt như thế-vừa bụi bặm trong tả chân, vừa trữ tình đằm thắm, vừa táo tợn,
vừa thanh khiết”.“Chất lãng mạn trong truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ
tương đối đặc biệt, nó toát ra từ tâm hồn người đang đứng ra giữa ranh giới
thiếu nữ - phụ nữ”[104].
Cũng theo Bùi Việt Thắng trong bài Tứ tử trình làng giới thiệu tập truyện
ngắn Bốn cây bút nữ, tác giả đã phát hiện trong truyện ngắn của chị một đặc tính
“chao chát và dịu dàng, ngây thơ và từng trải, đau đớn và tin tưởng cứ trộn
lẫn trong văn của Nguyễn Thị Thu Huệ tạo nên tính đa cực của ngòi bút nữ có
duyên trong lĩnh vực truyện ngắn. Đọc truyện của Nguyễn Thị Thu Huệ ta bị
cuốn vào trong niềm vui, và nỗi buồn bất tận. Đời sống hiện lên trên từng trang
sách của chị, bề bộn, ngổn ngang…[105].
Tác giả Hồ Sĩ Vịnh trong bài Thi pháp truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ, Báo
văn nghệ (Số 35) nhận xét: “Nguyễn Thị Thu Huệ là nhà văn nữ “độc đáo, tài hoa”.
Với cách viết như “lên đồng” chị đã cho ra đời những tác phẩm có giá trị hay và
được bạn đọc yêu mến.
Kim Dung trong Đọc hồi ức bến trần gian nhận định: “Truyện ngắn Nguyễn
Thị Thu Huệ luôn có hai mặt, vừa “bụi bặm” trong tả chân, vừa trữ tình đằm
thắm, văn của chị vừa táo bạo, vừa thanh khiết. Một cái gì đó thuần nhất, không
đơn giản, thậm chí có khi còn đối chọi nhau trong văn của Nguyễn Thị Thu Huệ”[13]
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều trong bài viết: “Báo cáo giải thưởng Hội nhà
văn Việt Nam (2012) đã ghi nhận rằng: “Thành phố đi vắng” đã thực sự làm đầy
12
thêm hồ sơ sáng tạo truyện ngắn của nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ và đặt chị vào
vị trí nhà văn Việt Nam đương đại viết truyện ngắn tiêu biểu.
Nhà văn Nhật Tuấn trong bài: Một thành tựu văn xuôi hiện đại, nhân đọc
Thành phố đi vắng đã nhận thấy: “Thành phố đi vắng thật sự rất đáng ghi
nhận như một tín hiệu đáng mừng, một thành tựu mới trong văn xuôi hiện
đại[118].
Bên cạnh đó còn có một số luận văn, khóa luận đã đề cập đến các phương
diện khác nhau trong truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ. Các công trình này đã
có chung ý kiến: Nguyễn Thị Thu Huệ là cây bút có khả năng nắm bắt và phản ánh
hiện thực nhạy bén, sâu sắc, có chất giọng riêng. Truyện ngắn của chị đã đề cập
đến nhiều vấn đề của cuộc sống và con người thời hiện đại. Tuy nhiên, chúng tôi
nhận thấy hiện chưa thấy có luận văn, tài liệu nào nghiên cứu cụ thể, toàn diện về
cảm thức đô thị trong truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ, mặc dù đây là vấn đề
được nhà văn thể hiện trong nhiều truyện ngắn của mình.
Có thể nói Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái, Nguyễn Thị Thu Huệ là những
cây bút tiêu biểu của văn học Việt Nam đương đại. Vì vậy, số lượng bài viết, luận
văn, luận án còn có nhiều. Tuy nhiên, do giới hạn vấn đề nghiên cứu của luận văn,
chúng tôi chỉ nêu một số ít những ý kiến, bài viết, công trình nghiên cứu của các tác
giả như đã trình bày ở trên nhằm làm cơ sở cho việc nghiên cứu đề tài luận văn. Từ
việc liệt kê những đánh giá trên đây, chúng tôi nhận thấy có một điểm chung được
các tác giả nghiên cứu đều nhận định: Nhiều truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp,
Hồ Anh Thái, Nguyễn Thị Thu Huệ đã đề cập đến vấn đề cuộc sống và con người
đô thị. Tuy nhiên, vấn đề đô thị trong truyện ngắn của ba nhà văn trên, hiện chưa
thấy có một luận văn nào chọn làm đối tượng nghiên cứu nghiên cứu. Mà chủ yếu
là những bài viết, ý kiến đơn lẻ, những luận văn đề cập đến phương diện khác,
không cùng đối tượng nghiên ở đề tài này. Chính vì thế, một công trình có tính chất
tổng kết, đánh giá, trên cơ sở đi sâu tìm hiểu truyện ngắn của các tác giả, để
đi đến những kết luận về cảm thức đô thị trong truyện ngắn Việt Nam đương đại
qua ba nhà văn Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái, Nguyễn Thị Thu Huệ là một việc
làm cần thiết đối với nghiên cứu văn chương Việt Nam đương đại. Từ những đánh
13
giá, nhận xét mang tính gợi mở, thành tựu của những tác giả đi trước trên đây,
chúng tôi
14
chọn đề tài nghiên cứu: “Cảm thức đô thị trong truyện ngắn Việt Nam đương đại
(Qua truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái, Nguyễn Thị Thu Huệ)”.
3. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện đề tài: “Cảm thức đô thị trong truyện ngắn Việt Nam đương đại
(Qua truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái, Nguyễn Thị Thu Huệ)”,
chúng tôi muốn khám phá những nét mới, độc đáo trong cảm xúc, nhận thức cũng
như trong bút pháp nghệ thuật thể hiện về đô thị trong truyện ngắn Việt Nam
đương đại (Qua truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái, Nguyễn Thị Thu
Huệ).
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Triển khai đề tài: “Cảm thức đô thị trong truyện ngắn Việt Nam đương đại
(Qua truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái, Nguyễn Thị Thu Huệ)”
chúng tôi xác định nhiệm vụ chính của luận văn là:
- Tìm hiểu những vấn đề lí luận chung, làm cơ sở cho đề tài nghiên cứu
- Tìm hiểu cảm thức đô thị được thể hiện trong văn học Việt Nam đương đại
(Qua truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái, Nguyễn Thị Thu Huệ).
- Nghệ thuật thể hiện cảm thức đô thị trong truyện ngắn của các nhà văn
trên.
- Từ việc khảo sát thực tế những truyện ngắn thể hiện cảm thức đô thị của
ba nhà văn: Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái, Nguyễn Thị Thu Huệ… khái quát
khuynh hướng viết về đô thị của truyện ngắn Việt Nam đương đại và khẳng định vị
trí của các nhà văn trong nền văn học đương đại Việt Nam.
5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Cảm thức đô thị trong truyện ngắn Việt Nam đương đại(Qua truyện ngắn của
Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái, Nguyễn Thị Thu Huệ).
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Là những truyện ngắn viết về vấn đề đô thị của Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh
Thái, Nguyễn Thị Thu Huệ, cụ thể là:
- Nguyễn Huy Thiệp: Gồm các truyện viết về cuộc sống đô thị in trong
cuốn Truyện ngắn chọn lọc do NXB Hội nhà văn ấn hành năm 1995.
15
- Hồ Anh Thái: Gồm các tập truyện: Tự sự 265 ngày, Bốn lối vào nhà
cười, Mảnh vỡ đàn ông(Mảnh vỡ đàn ông, Lũ con hoang, Món Tái Dê)
- Nguyễn Thị Thu Huệ: Gồm các truyện viết về đô thị in trong cuốn 37
truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ, NXB Hội nhà văn; Tập truyện Thành phố đi
vắng, NXB trẻ ấn hành 2012.
Ngoài ra, chúng tôi có khảo sát, so sánh với một số tác phẩm viết về đô thị
của của các nhà văn trước 1986 và các nhà văn cùng thời kỳ để làm rõ hơn vấn đề
nghiên cứu.
6. Đóng góp mới của luận văn
Từ việc khảo sát thực tiễn truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái,
Nguyễn Thị Thu Huệ về cảm thức đô thị, chúng tôi muốn khẳng định những đóng
góp của những nhà văn này trong lĩnh vực đang nghiên cứu. Đồng thời, khẳng định
sự hình thành một khuynh hướng sáng tạo mới trong văn học Việt Nam đương đại
- khuynh hướng văn học viết về đô thị.
7. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện đề tài: Cảm thức đô thị trong truyện ngắn Việt Nam đương
đại (Qua truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái, Nguyễn Thị Thu Huệ),
chúng tôi sử dụng một số phương pháp nghiên cứu chính như sau:
- Phương pháp hệ thống.
- Tiếp cận văn hóa học.
- Phương pháp so sánh, đối chiếu.
- Tiếp cận thi pháp học, tự sự học.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, nội dung của luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Đô thị và cảm thức đô thị trong văn học Việt Nam đương đại.
Chương 2: Đời sống và con người đô thị trong truyện ngắn Nguyễn Huy
Thiệp, Hồ Anh Thái, Nguyễn Thị Thu Huệ.
Chương 3: Nghệ thuật thể hiện cảm thức đô thị trong truyện ngắn của
Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái, Nguyễn Thị Thu Huệ.
16
CHƯƠNG 1
CẢM THỨC ĐÔ THỊ TRONG VĂN HỌC VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI
1.1. Giới thuyết về khái niệm đô thị và đô thị hóa
1.1.1. Đô thị
Theo Từ điển Bách Khoa Việt Nam: “Đô thị là một không gian cư trú của
cộng đồng người sống tập trung và hoạt động trong khu vực kinh tế phi nông
nghiệp” [93, tr.12].
Theo Giáo trình quy hoạch đô thị, của Đại học kiến trúc Hà Nội: “Đô thị
là nơi tập trung dân cư, chủ yếu lao động phi nông nghiệp, sống và làm việc
theo kiểu thành thị”.
Như vậy, đô thị là điểm dân cư tập trung với mật độ cao, chủ yếu là lao
động phi nông nghiệp, có hạ tầng cơ sở tích hợp, là trung tâm chính trị tổng hợp
hay chuyên ngành, có vai trò đầu tàu thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của cả
nước, của một tỉnh hay một vùng miền. Đô thị được hình thành khi nhu cầu sống
của con người ngày càng cao, những lao động nông nghiệp trước đây chuyển sang
làm tiểu thủ công nghiệp, thương mai, dịch vụ… Đô thị bao gồm thành phố,
thị xã, thị
trấn…
Đô thị được hình thành trên thế giới cách đây hàng ngàn năm, bắt đầu từ
những thành phố cổ Jerusalem (Isarel) hay Athens (Hy Lạp)…Ở Việt Nam, đô thị
được hình thành cùng với quá trình hình thành và phát triển của các quốc gia cổ
đại như: Văn Lang, Âu Lạc. Đến thời phong kiến, cùng với Thăng Long, những Phố
Hiến, Hội An lần lượt ra đời, không ngừng mở rộng từ Bắc vào Nam. Tuy nhiên,
các đô thị thời phong kiến chủ yếu là các trung tâm chính trị, văn hóa hơn là trung
tâm kinh tế. Khi thực dân Pháp xâm lược và biến Việt Nam thành thuộc địa, mạng
lưới đô thị trong nước tăng lên nhanh chóng. Cùng với đó là văn hóa Pháp, lối sống
thị dân phương Tây du nhập vào Việt Nam, tác động mạnh mẽ đến đời sống vật
chất, tinh thần của con người. Bộ mặt đô thị thời kỳ ở nước ta có nhiều khác biệt
so với thời phong kiến.
17
Sau 1986, với chính sách mở cửa, hội nhập, phát triển nền kinh tế thị
trường. Quá trình đô thị hóa ở Việt Nam diễn ra mạnh mẽ, hình thành nhiều đô thị
mới. Tuy nhiên, với xuất phát điểm đi lên từ nền kinh tế nông nghiệp lâu đời, nên
đô thị của chúng ta mang nhiều đặc tính của vùng nông thôn, với tính chất của
“phố làng”, “phố huyện”.
1.1.2. Đô thị hóa
Thứ nhất, đô thị hóa là sự mở rộng của đô thị, tính theo tỉ lệ phần trăm
giữa số dân đô thị hay diện tích đô thị trên tổng số dân hay diện tích của một vùng
hay khu vực. Thứ hai, đô thị hóa cũng có thể tính theo tỉ lệ gia tăng của hai yếu tố
trên theo thời gian. Nếu tính theo cách thứ nhất, thì được gọi là mức độ đô thị
hóa; còn theo cách thứ hai, là tốc độ đô thị hóa. Đô thị hóa là quá trình phát triển
rộng rãi lối sống thị thành thể hiện qua các mặt dân số, mật độ dân số, chất lượng
cuộc sống,…(Bách khoa toàn thư mở)
Như vậy, đô thị hóa có thể hiểu là một quá trình phát triển nhanh về dân
số đô thị, số lượng và quy mô đô thị cũng như về các điều kiện sống ở đô thị hoặc
theo kiểu đô thị. Đô thị hóa là xu thế tất yếu của mọi quốc gia trên con đường phát
triển.
Ở Việt Nam, sự phát triển đô thị và quá trình đô thị hóa theo từng giai đoạn
của lịch sử. Đầu thế kỉ XX đến Cách mạng tháng Tám 1945, với công cuộc khai
thác thuộc địa của thực dân Pháp, Việt Nam xuất hiện một loạt các tầng lớp mới
như tư sản, tiểu tư sản, công nhân… với nhứ ý thức hệ và nhu cầu thị hiếu mới ở
các thành thị. Làn gió Âu hóa với một loạt các thủ đoạn mị dân của chính quyền
thực dân nửa phong kiến đã làm thay đổi nhanh chóng bộ mặt đô thị và thu
hút một lượng lớn người dân ở các vùng nông thôn tìm đến đô thị mưu sinh.
Sau 1954, Miền Bắc đi lên chủ nghĩa xã hội, Miền nam dưới sự cai trị của
chính quyền Việt Nam cộng hòa, quá trình đô thị hóa ở miền Nam diễn ra rõ rệt
nhất. Do sự ảnh hưởng sâu đậm của văn hóa Âu Mĩ, đời sống đô thị ở miền Nam
diễn ra với nhiều sắc màu, phong phú và phức tạp, lai căng và khủng hoảng, nhố
nhăng và thực dụng.
18
Từ những năm cuối thế kỉ XX đầu thế kỉ XXI, với chủ trương mở cửa, hội
nhập với thế giới. Quá trình đô thị hóa trong nước diễn ra mạnh mẽ. Nhiều phố
phường được thành lập. Quá trình chuyển đổi mô hình phát triển kinh tế, cơ
cấu kinh tế đã làm cho tốc độ đô thị hóa ngày càng nhanh. Điều đó, đã tác động
trực tiếp theo chiều hướng vừa tích cực vừa tiêu cực đến mọi mặt của đời sống.
Sức hút của cuộc sống đô thị đã mang đến cho nhiều người thay đổi vận mệnh
theo hướng tốt lên, nhưng nó cũng xuất hiện nhiều tệ nạn, cám dỗ, làm cho bao
con người quay cuồng điên đảo, mất phương hướng, bị cuốn vào vòng xoáy của cơ
chế mới. Cơ hội để thay đổi vận mệnh con người không ít, nhưng nguy cơ đánh
mất mình cũng nhiều. Các nhà văn với vai trò là người thư kí trung thành của
thời đại, đã ghi lại những bước thăng trầm, được mất của cuộc sống đô thị phản
ánh trong nhiều tác phẩm của mình trong từng giai đoạn của lịch sử.
1.2. Cảm thức đô thị
1.2.1. Cảm thức
Cảm thức là một thuật ngữ có nguồn gốc từ rất xa xưa, xuất hiện trong cả
văn hóa phương Tây và phương Đông. Trong văn học cổ Ấn Độ, cảm thức là thuật
ngữ để chỉ những rung cảm thẩm mĩ sâu sắc trước cái đẹp mang màu sắc tôn giáo,
là sự thức ngộ những chân lí tạo ra cảm xúc mãnh liệt và đức tin tuyệt đối. Còn
trong văn học Nhật Bản có cảm thức thẩm mĩ mono no aware và cảm thức thẩm mĩ
Okashi.
Cảm thức mono no aware là tinh thần thuần túy Nhật Bản khi cảm nhận
về thế giới trước khi bị chi phối bởi những lời giáo huấn mang tính đạo đức của
Nho giáo và Phật giáo. Mono no aware là sự cảm động một cách thành thực trước
những gì đáng rung động, nó gần với đạo của Lão Tử, tính thiện của Mạnh Tử, Phật
tính của Thiền tông. Ngoài ra, mono no aware còn là niềm bi cảm, là cảm thức
xao xuyến buồn khi nhìn thấy sự vô thường của vạn vật. Cảm thức Okashi là cảm
thức thích thú, khoái chí khi tiếp xúc với cái đẹp. Nếu mono no aware đi tìm cái
đẹp trong nỗi buồn vì sự tàn phai, vô thường của vạn vật thì okashi lại đi tìm cái
đẹp của sự tươi vui. Cặp cảm thức thẩm mỹ này gợi liên tưởng đến hình ảnh của
một cô gái đa sầu đa cảm và một nàng tươi vui, yêu đời tràn đầy sức sống (Source
of Japaneses