TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI
ĐOÀN KẾT DÂN TỘC
Hồ Chí Minh – anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất của dân
tộc ta và của thế giới, người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam. Tư tưởng của
Người là nền tảng tư tưởng, là kim chỉ nam cho hành động của Đảng ta và giữ vai
trò vô cùng quan trọng trong đời sống tinh thần của nhân dân ta, là tấm gương sáng
cho Đảng và nhân dân ta cùng các thế hệ người Việt Nam phấn đấu suốt đời học
tập và noi theo. Trong đó, tư tưởng về đại đoàn kết là tư tưởng nổi bật, có giá trị
trường tồn đối với quá trình phát triển của dân tộc và của toàn nhân loại, là tư
tưởng xuyên suốt, nhất quán trong tư duy lý luận và trong hoạt động thực tiễn của
Hồ Chí Minh và đã trở thành chiến lược cách mạng của Đảng ta, gắn liền với
những thắng lợi vẻ vang của dân tộc.
Trong Di chúc mà Người để lại cho toàn Đảng, toàn dân ta, trong 6 vấn đề
lớn mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đề cập tới, Người đặc biệt chú trọng đến vấn đề
đoàn kết, là vấn đề mà Người lo ngại và trăn trở nhất. Người đã từng nhấn
mạnh: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công,
đại thành công”[1]. “Nói về Đảng” có 5 lần Người nhắc lại “đoàn
kết”, và Người nhắn nhủ: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý
báu của Đảng và của dân ta”[2].
Với ý nghĩa đó, đồng thời, để làm rõ thêm tư tưởng của Người về đại đoàn kết
dân tộc, em đã chọn đề tài: “Phân tích những quan điểm cơ bản
của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc” để làm bài tập cá nhân
cuối kỳ.
I. Những cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc được hình thành trên cơ sở tư
tưởng – lý luận và thực tiễn rất phong phú. Đại đoàn kết dân tộc có nguồn gốc từ
nhiều yếu tố và được hình thành trên cơ sở kế thừa và phát triển chủ nghĩa yêu
nước và truyền thống đoàn kết của dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, đặc biệt là
đã vận dụng và phát triển sáng tạo, chủ nghĩa Mác – Lênin phù hợp với tình hình
và điều kiện cụ thể của Việt Nam trong từng giai đoạn cách mạng.
1. Những giá trị truyền thống của dân tộc
Đó là tinh thần yêu nước, nhân nghĩa, ý chí bất khuất, tự lực, tự cường, tinh
thần tương thân, tương ái, lạc quan, yêu đời gắn liền với ý thức cộng đồng, ý thức
cố kết dân tộc, đoàn kết dân tộc đã được hình thành và củng cố trong hàng nghìn
năm lịch sử tạo nên sức mạnh to lớn để nhân dân ta đấu tranh dựng nước và giữ
nước, chống lại thiên tai, địch họa, tạo thành một truyền thống bền vững, thấm sâu
vào tư tưởng, tình cảm, tâm hồn mỗi con người Việt Nam.
Với mỗi người Việt Nam, yêu nước, nhân nghĩa, đoàn kết đã trở thành một
tình cảm tự nhiên, một triết lý nhân sinh, thành phép ứng xử và tư duy chính trị.
Tất cả đã ghi đậm dấu ấn trong cấu trúc xã hội truyền thống. Và truyền thống ấy
được phản ánh trong kho tàng văn học dân gian, như: “Nhiễu điều phủ lấy
giá gươm, Người trong một nước, phải thương nhau cùng”, “Tình
làng, nghĩa nước, Nước mất thì nhà tan”, hay “Giặc đến nhà, đàn
bà cũng đánh”,… Truyền thống ấy, được tiếp nối trong tư tưởng tập hợp lực
lượng dân tộc của các nhà yêu nước trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp
xâm lược và bọn phản động tay sai.
Hồ Chí Minh đã sớm tiếp thu được những giá trị của truyền thống yêu nước –
nhân nghĩa – đoàn kết của dân tộc. Hơn nữa, Người còn kết hợp những truyền
thống đó với những giá trị của thời đại để hình thành hệ thống quan điểm cách
mạng của mình.
2. Quá trình tổng kết thực tiễn các phong trào yêu nước, cách mạng Việt Nam
và cách mạng thế giới
Trong hơn 80 năm bị thực dân Pháp đô hộ, đã có rất nhiều xu hướng khác
nhau để cứu nước nhưng cuối cùng tất cả các xu hướng đó đều thất bại. Hồ Chí
Minh đã cảm nhận được những hạn chế trong chủ trương tập hợp lực lượng của các
nhà yêu nước tiền bối và trong việc nắm bắt những đòi hỏi khách quan của lịch sử
trong giai đoạn này. Từ thực tiễn đó, Người đã chỉ ra rằng: chỉ có tinh thần yêu
nước thì không thể đánh bại các đế quốc thực dân xâm lược. Vận mệnh của đất
nước đòi hỏi phải có một lực lượng lãnh đạo cách mạng mới, đề ra được một
đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với quy luật phát triển của lịch sử và
những yêu cầu của thời đại mới, đủ sức quy tụ, tập hợp được cả dân tộc vào cuộc
đấu tranh chống đế quốc và thực dân, xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc bền
vững thì giành được thắng lợi.
Trong 30 năm bôn ba khắp thế giới để tìm đường cứu nước. Thực tiễn của
cách mạng thế giới đã giúp Người nhận thức một sự thực: “Các dân tộc thuộc
địa tiềm ẩn một sức mạnh vĩ đại, song cuộc đấu tranh của họ
chưa đi đến thắng lợi bởi vì các dân tộc bị áp bức chưa biết tập
hợp lại, chưa có sự liên kết chặt chẽ với giai cấp công nhân ở các
nước tư bản, đế quốc, chưa có tổ chức và chưa biết tổ chức…”. Từ
thực tiễn cách mạng thế giới Người đã rút ra kết luận: Cách mạng Mỹ, Pháp là
những cuộc cách mạng chưa đến nơi vì sau khi cách mạng thành công, nhân dân
vẫn bị áp bức, bóc lột, nghèo nàn. Cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa tiềm
ẩn một sức mạnh to lớn, nhưng chưa có sự lãnh đạo đúng đắn, chưa biết đoàn kết
và chưa có tổ chức. Chỉ có Cách mạng tháng Mười Nga là cuộc cách mạng triệt để
vì “cách mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để
trong tay một bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế
dân chúng mới được hạnh phúc”[3].
Phong trào cách mạng ở các nước như Trung Quốc và Ấn Độ đã để lại những
bài học quý giá về việc huy động lực lượng của các giai cấp, tầng lớp nhân dân vào
sự nghiệp cách mạng.
Những kết luận trên đã giúp Người chuẩn bị những nhân tố cần thiết,
những kinh nghiệm để huy động, tập hợp lực lượng quần chúng cho việc lãnh đạo
nhân dân Việt Nam thực hiện sự nghiệp cách mạng của mình.
3. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin
Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng: cách mạng là sự nghiệp của quần chúng;
nhân dân là người sáng tạo lịch sử, giai cấp vô sản lãnh đạo cách mạng phải trở
thành giai cấp dân tộc; liên minh công nông là cơ sở để xây dựng lực lượng cách
mạng; đoàn kết dân tộc phải gắn liền với đoàn kết quốc tế, …
Chủ nghĩa Mác – Lênin cũng chỉ ra cho các dân tộc bị áp bức con đường tự
giải phóng. Lênin cho rằng: sự liên kết giai cấp, trước hết là liên minh giai cấp
công nhân là hết sức cần thiết, bảo đảm cho thắng lợi của cách mạng vô sản. Rằng
nếu không có sự đồng tình và ủng hộ của đa số nhân dân lao động với đội ngũ tiên
phong của nó, tức giai cấp vô sản, thì cách mạng vô sản không thể thực hiện được.
Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác – Lênin vì nó đã chỉ ra cho các dân tộc bị áp
bức con đường tự giải phóng, chỉ ra sự cần thiết và con đường tập hợp, đoàn kết
các lực lượng cách mạng trong phạm vi từng nước và trên toàn thế giới để giành
thắng lợi hoàn toàn trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa đề quốc, thực dân.
Hồ Chí Minh đã sớm nắm được nội dung căn bản của chủ nghĩa Mác – Lênin,
qua đó, Người đã có cơ sở khoa học để đánh giá chính xác các yếu tố tích cực cũng
như những hạn chế trong các di sản truyền thống, trong tư tưởng tập hợp lực lượng
của các nhà yêu nước Việt Nam tiền bối và các nhà cách mạng lớn trên thế giới,
những bài học rút ra từ các cuộc cách mạng các nước, từ đó hình thành và hoàn
chỉnh tư tưởng của Người về đại đoàn kết dân tộc.
II. Những quan điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
1. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, quyết định thành công
của cách mạng
Chiến lược đại đoàn kết là chiến lược vận động, tập hợp mọi lực lượng nhân
dân, nhằm hình thành sức mạnh to lớn của cả dân tộc trong cuộc đấu tranh chống
kẻ thù của dân tộc và giai cấp. Vấn đề này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh đúc kết
thành chân lí: “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta”[4], “Đoàn kết là
sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi”[5], “Đoàn kết là then chốt của
thành công”[6],…
Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, có thể và cần thiết phải điều
chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp với những đối
tượng khác nhau. Người cho rằng: Đại đoàn kết là vấn đề sống còn của cách mạng,
và đoàn kết phải luôn được nhận thức là vấn đề sống còn của cách mạng:
Đoàn kết không phải là thủ đoạn chính trị nhất thời mà là tư tưởng cơ bản,
nhất quán, xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt Nam.
Đoàn kết quyết định thành công cách mạng. Vì đoàn kết tạo nên sức mạnh, là
then chốt của thành công. Cách mạng muốn thắng lợi phải có lực lượng đủ mạnh,
muốn có lực lượng phải quy tụ cả dân tộc thành một khối thống nhất. Giữa đoàn
kết và thắng lợi có mối quan hệ chặt chẽ, quy mô của đoàn kết quyết định quy
mô,mức độ của thành công.
2. Đại đoàn kết là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của cách mạng
Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất lãnh đạo cách mạng mà sức
mạnh của Đảng là sức mạnh của khối đoàn kết giữa các thành viên. Vì vậy, đoàn
kết trong Đảng là hạt nhân để củng cố khối đại đoàn kết trong các tổ chức chính trị
xã hội nói chung. Hồ Chí Minh cho rằng: Vấn đề đoàn kết phải được quán triệt từ
chủ trương, đường lối, chính sách cho đến những hoạt động thực tiễn của Đảng,
luôn là mục tiêu, nhiệm vụ hàng đầu của Đảng.
Về mục tiêu của Đảng, tại Đại hội lần thứ hai năm 1951, Người chỉ ra: “Mục
đích của Đảng Lao động Việt Nam có thể gồm tám chữ là: Đoàn
kết toàn dân, phụng sự Tổ quốc”[7]. Từ đó, Đảng có sứ mệnh thức tỉnh,
tập hợp, hướng dẫn, chuyển những đòi hỏi khách quan, tự phát của quần chúng
thành những đòi hỏi tự giác, thành hiện thực có tổ chức, thành sức mạnh vô địch
trong cuộc đấu tranh vì độc lập cho dân tộc, tự do cho nhân dân, hạnh phúc cho
con người.
3. Đại đoàn kết dân tộc là để thực hiện khối đoàn kết toàn dân
“Dân” vừa được hiểu là một tập hợp đông đảo quần chúng, vừa được hiểu là
mỗi con người Việt Nam cụ thể và dùng để chỉ mọi con dân nước Việt, con Rồng,
cháu Tiên, không phân biệt già, trẻ, gái, trai, giàu, nghèo, quý, tiện, tín ngưỡng,…
Như vậy, “dân” được hiểu là chủ thể, là đối tượng, là lực lượng của đại đoàn kết
dân tộc.
Đại đoàn kết dân tộc là cơ sở thực hiện khối đại đoàn kết toàn dân, với ý
nghĩa là không chỉ huy động lực lượng của các giai cấp, tầng lớp nhân dân trong
toàn lãnh thổ Việt Nam mà còn huy động tập hợp lực lượng những người Việt Nam
đang sinh sống và định cư ở nước ngoài vào khối đại đoàn kết dân tộc.
Muốn thực hiện đại đoàn kết toàn dân thì phải kế thừa truyền thống yêu nước
– nhân nghĩa – đoàn kết của dân tộc, phải có tấm lòng khoan dung, độ lượng với
con người. Xác định khối đại đoàn kết là liên minh công nông, trí thức. Tin vào
dân, dựa vào dân, phấn đấu vì quyền lợi của dân. Người cho rằng: liên minh công –
nông – lao động trí óc làm nền tảng cho khối đại đoàn kết toàn dân, nền tảng được
củng cố vững chắc thì khối đại đoàn kết dân tộc càng được mở rộng, không thế lực
nào có thể làm suy yếu khối đại đoàn kết dân tộc.
4. Đại đoàn kết dân tộc trở thành sức mạnh vật chất, có tổ chức dưới sự lãnh
đạo của Đảng
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh thì quần chúng nhân dân phải được tổ chức
mới tạo thành sức mạnh vật chất. Quy tụ quần chúng nhân dân vào một tổ chức
yêu nước phù hợp với từng bước phát triển của phong trào cách mạng là sự quan
tâm ngay từ đầu của Hồ Chí Minh và là nhiệm vụ hàng đầu của Đảng ta.
Tổ chức thể hiện sức mạnh của khối đại đoàn kết là Mặt trận Dân tộc thống
nhất. Đó là một tổ chức chính trị rộng rãi tập hợp đông đảo các giai cấp, tầng lớp,
dân tộc, tôn giáo, đảng phái, các tổ chức và cá nhân yêu nước ở trong và ngoài
ngước, phấn đấu vì mục tiêu độc lập, thống nhất của tổ quốc và tự do, hạnh phúc
của nhân dân.
Mặt trận Dân tộc thống nhất được xây dựng và hoạt động theo nguyên tắc:
Thứ nhất, Mặt trận Dân tộc thống nhất phải được xây dựng trên nền tảng liên
minh công – nông dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Từ đó, Mặt trận được mở
rộng và thực sự quy tụ cả dân tộc, tập hợp toàn dân, kết thành một khối vững chắc.
Thứ hai, Mặt trận Dân tộc thống nhất hoạt động theo nguyên tắc hiệp thương dân
chủ, lấy việc thống nhất lợi ích tối cao của dân tộc với lợi ích của các tầng lớp
nhân dân làm cơ sở để củng cố và không ngừng mở rộng. Lợi ích tối cao của dân
tộc là Tổ quốc độc lập và thống nhất, xã hội giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh. Vì vậy, phải làm cho mọi người đặt lợi ích tối cao của dân tộc lên trên hết và
trước hết.
Thứ ba, đoàn kết chặt chẽ, lâu dài, đoàn kết thật sự, chân thành, thân ái, giúp
đỡ nhau cùng tiến bộ. Đó là sự đoàn kết chặt chẽ với các tầng lớp nhân dân, các
đảng phái, đoàn thể, … trong Mặt trận, thực hiên hợp tác lâu dài, giúp đỡ nhau
cùng tiến bộ. Phương châm đoàn kết các giai cấp, các tầng lớp khác nhau của Hồ
Chí Minh là: “Cầu đồng tồn dị” – lấy cái chung, đề cao cái chung để hạn chế
cái riêng, cái khác biệt.
Về vị trí của Đảng Cộng sản trong Mặt trận dân tộc thống nhất: vừa là thành
viên c