Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

Kỷ thuật nuôi ếch thái lan và một số bệnh thường gặp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (110.12 KB, 15 trang )

Kỷ thuật nuôi ếch công nghiệp Thái Lan
Đưa giống mới có giá trị kinh tế và phù hợp với môi trường là mục tiêu quan
trọng của phát triển nông nghiệp ven đô thị. Ếch cung cấp cho thị trường vẫn chủ
yếu dựa vào đánh bắt trong tự nhiên. Việc nuôi ếch chưa phát triển tại Việt Nam,
chủ yếu là nuôi quãng canh, lệ thuộc vào con giống và thức ăn tự nhiên. Nuôi ếch
thâm canh, sẽ mở rộng khả năng cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy chế biến
thủy sản, cũng như giảm áp lực khai thác trong tự nhiên.
Ếch đồng tại Việt Nam (RANA TIGERINA)

- Kích cỡ trung bình 150 - 200gr
- Con giống từ tự nhiên đem về nuôi
- Thức ăn là côn trùng, con mồi di động
- Khả năng thích nghi kém với điều kiện nuôi giữ và nuôi chưa có hiệu quả
kinh tế
ẾchThái Lan (RANA RUGULOSA)

- Có kích cỡ lớn (200 400gr)
- Được thuần hóa từ lâu và nhập vào Việt Nam từ 2 năm nay.
- Khả năng thích nghi điều kiện nuôi giữ và ăn mồi tỉnh như thức ăn viên.
Ếch Bò (RANA CATESBEIANA)
-

Nguồn gốc Nam và Trung Mỹ (Cu Ba, Mexico, Braxil)

-

Kích cỡ rất lớn (500 - 900gr)

-

Trước đây có nhập vào Việt nam, khả năng thích nghi kém nên không phát


triển.

-

Có thể là sinh vật gây hại do khả năng phát triển nhanh thống trị các giống
loài ếch khác.

-

Là đối tượng được nuôi tại Nam Mỹ và một số quốc gia.
ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC CỦA ẾCH THÁI LAN
Ếch Thái Lan là loài lưỡng cư, chu kỳ sống có 3 giai đoạn:

Nòng nọc (nở từ trứng đến khi mọc đủ bốn chân): Sống hoàn toàn trong môi
trường nước (21 - 28 ngày). Ăn các loài động vật phù du.
Ếch giống (2 - 50gr): Thích sống trên cạn gần nơi có nước. Thức ăn tự
nhiên: Côn trùng, con nhỏ, giun, ốc. Sử dụng được thức ăn viên. Giai đoạn này
ếch ăn lẫn nhau khi thiếu thức ăn.
Ếch trưởng thành (200 - 300gr): Sau 8 - 10 tháng ếch đã trưởng thành và có
thể thành thục sinh sản.
1


Nguồn nước nuôi ếch Thái Lan
- Độ mặn: Ếch phải nuôi nơi có nước ngọt hoàn toàn, độ mặn không quá 5
phần ngàn.
- pH nước trong khoảng 6,5 - 8,5. Nước quá phèn phải xử lý vôi trước khi
cho vào ao nuôi.
- Nguồn nước không bị ô nhiễm chất hữu cơ và nước thải công nghiệp. Có
thể sử dụng nước giếng, nước sông hay nước ao.

- Nhiệt độ nước thích hợp trong khoảng 25 - 32oC , tốt nhất là 28 - 30oC
Dinh dưỡng và thức ăn của ếch
Trong tự nhiên, ếch là loài ăn động vật sống. Con mồi phải di động như các
loài côn trùng, giun, ốc…Kích cỡ con mồi thường phải lớn và di động. Nhu cầu
dinh dưỡng của ếch khá cao, tương tự như những loài cá ăn tạp thiên động vật.
Thức ăn phải đầy đủ dưỡng chất.
Thức ăn ếch Thái Lan đã được thuần hoá nên sử dụng được thức ăn tĩnh như
thức ăn viên nổi hay thức ăn tự chế biến (cá tạp băm nhỏ, cám nấu…). Các loài ếch
đồng VN, do chưa thuần hóa nên chỉ ăn những thức ăn di động như côn trùng,
giun…và hoàn tòan không sử dụng thức ăn viên nổi.

CÁC MÔ HÌNH NUÔI ẾCH THÁI LAN
- Nuôi trong bể xi măng: Thích hợp vùng ven đô thị có diện tích đất giới hạn
(tận dụng chuồng trại cũ hay bể xi măng bỏ không)
- Nuôi trong ao đất: Thích hợp vùng ven đô thị hay nông thôn có diện tích
đất khá lớn
- Nuôi trong giai (vèo), đăng quầng: Thích hợp vùng có ao hồ lớn có thể vừa
nuôi ếch kết hợp với nuôi cá.
1- Nuôi ếch trong bể xi măng
Bể có diện tích trung bình 6 - 30m2 (2x3, 2x5, 3x5, 4x6, 5x6m), độ cao 1,2 1,5m để tránh ếch nhảy ra. Đáy ao nên có độ nghiêng khoảng 5o để dễ thay nước.
Nên che lưới nylon trên bễ để tránh nắng trực tiếp và làm tăng nhiệt độ (có thể sử
dụng lưới lan). Không nên che mát hoàn toàn bể nuôi. Mực nước trong ao khống
chế ngập 1/2 - 2/3 thân ếch. Nên thường xuyên phun nước tưới ếch nhất là vào lúc
trưa nắng.
Mật độ thả nuôi:
- Tháng thứ nhất: 150 - 200 con/m2
- Tháng thứ hai: 100 - 150 con/m2
- Tháng thứ ba: 80 - 100 con/m2

2



Sau khi thả nuôi 7 - 10 ngày phải kiểm tra lựa nuôi riêng những con ếch lớn
vượt đàn để tránh sự ăn lẫn nhau. Khi ếch đạt trọng lượng 50 - 60gr sự ăn nhau
giảm. Thường xuyên thay nước. Nước thay có thể là nước sông, nước giếng, nước
ao nhưng phải đảm bảo sạch. Cho ăn nhiều lần trong ngày:
- ếch giống (5 - 100gr): 3 - 4 lần trong ngày. Lượng thức ăn 7 - 10% trọng
lượng thân.
- ếch lớn (100 - 250gr): 2 -3 lần/ngày. Lượng thức ăn 3-5% trọng lượng thân
Ếch ăn mạnh vào chiều tối và ban đêm hơn ban ngày (lượng thức ăn vào
chiều tối và ban đêm gấp 2 - 3 lượng thức ăn ban ngày). Định kỳ bổ sung Vitamin
C và men tiêu hóa để giúp ếch tăng cường sức khoẻ và tiêu hoá tốt thức ăn. Có thể
tận dụng các bể xi măng cũ để nuôi ếch Thái Lan. Khi khống chế độ sâu nước 10 20cm (không để mực nước quá cao, ếch sẽ ngộp nếu không lên cạn được) phải sử
dụng giá thể để ếch lên cạn cư trú. Giá thể cho ếch lên bờ (gỗ, tấm nhựa nổi, bè
tre…). Phải bố trí đủ giá thể để tất cả ếch có chổ lên bờ (1/3 - 1/2 diện tích bể).
Trường hợp giữ mực nước cao 10 - 20cm có thể không cần phải che bể.
2- Nuôi ếch trong ao đất
Ao diện tích trong khoảng 30 - 300m2 (4x8m, 5x10m, 10x20m). Ao không
quá lớn khó quản lý. Có thể trải bạc nylon nơi ao không giữ nước. Rào chung
quanh ao để tránh ếch nhảy ra. Có thể dùng lưới, tôn fibro xi măng, phên tre rào 11,2m. Mực nước ao khống chế 20 - 30cm, có ống thoát nước tránh chảy tràn.
Mật độ thả ếch giống nên thưa hơn nuôi trong bể ximăng 60 – 80con/m2 là
tối ưu trong tháng đầu. Tạo giá thể cho ếch lên cạn ở (bè tre, gỗ, tấm nylon…). có
thể dùng lục bình làm nơi cư trú cho ếch. diện tích giá thể 50% diện tích ao nuôi
(khi ao không có bờ để ếch lên ở). Thường xuyên thay nước để tránh nước dơ ếch
bị nhiễm bệnh (2 - 3 ngày/lần). Chỉ thay nước 1/3 - ¼ tránh thay hết nước. Thức ăn
viên nổi cho ăn 3 - 4 lần cho ếch giống và còn 2 - 3 lần cho ếch lớn (100gr). Thức
ăn thả trực tiếp trên giá thể hay trên cạn.
Nuôi ếch trong ao đất ít tốn chăm sóc hơn nuôi trong bể ximăng và chi phí
đầu tư thấp hơn nhưng có nhược điểm: Tỉ lệ sống thấp hơn nuôi trong ao do khó
kiểm soát dịch bệnh, dịch hại và lựa ếch vượt đàn. Ao có nhược điểm dễ bị rò rỉ,

ếch đào hang để trú ẩn.
3- Nuôi ếch trong giai hay đăng quầng
Giai có kích thước 6 - 50m2, có đáy, treo trong ao (2x3, 4x5, 5x10m). Chiều
cao 1 - 1,2m. Vật liệu là lưới nylon. Giai có nắp để tránh ếch nhảy ra và chim ăn.
Tạo giá thể cho ếch lên cạn cư trú (tấm nylon đục lỗ, bè tre). Tổng diện tích giá thể
chiếm 2/3 - 3/4 diện tích giai.
Mật độ nuôi trong giai tương đương nuôi trong bể ximăng (150 - 200 ếch
con trong tháng đầu). Đăng quầng có kích thước lớn hơn giai (100 - 500m 2). Dùng
lưới nylon hay đăng tre bao quanh một diện tích trong ao. Mật độ nuôi trong đăng
quầng (20 - 40 con/m2). Thả lục bình, bè tre, nylon nổi để làm nơi ếch lên cạn cư
trú. Diện tích giá thể 3/4 diện tích đăng quầng
3


THỨC ĂN VÀ CÁCH CHO ẾCH ĂN
Ếch Thái Lan sử dụng được thức ăn viên nổi ngay từ ếch con (1 tháng tuổi).
Có thể sử dụng được thức tĩnh khác như cá tạp băm nhỏ, cám nấu (nhưng phải tập
khi chuyển từ thức ăn viên). Tại Việt Nam chưa có thức ăn chuyên cho ếch. Có thể
sử dụng thức viên nổi cho cá da trơn hay cá rô phi của các công ty CARGILL,
BLUE STAR, UNIPRESIDENT. Thức ăn viên nổi có kích cỡ và hàm lượng
protein thay đổi theo kích cỡ hay tuổi của ếch nuôi.

Hàm Lượng Protein

Kích Thước Viên
Thức Ăn

Thời Gian Nuôi Từ Giai
Đoạn ếch Con


35%

2,2 – 2,5 mm

15 ngày đầu (3 – 30gr)

30%

3,0 – 4,0 mm

30 ngày kế tiếp (30 – 100gr)

25%

5,0 – 6,0 mm

30 ngày kế tiếp (100 – 150gr)

22%

8,0 – 10 mm

Sau 75 ngày (> 150gr)

LƯỢNG THỨC ĂN SỬ DỤNG
Lượng cho ăn điều chỉnh hàng ngày tùy theo sức ăn của ếch. Có thể cho ăn
theo bảng sau:
+ 7 - 10% trọng lượng thân (ếch 3 - 30gr)
+ 5 - 7% trọng lượng thân (ếch 30 - 150gr)
+ 3 - 5% trọng lượng thân (ếch trên 150gr)

Số lần cho ăn
- Ếch (3 - 100gr): Cho ăn 3 - 4 lần/ngày. Chiều tối và ban đêm cho ăn nhiều hơn
- Ếch trên 100gr: Cho ăn còn 2 - 3 lần/ngày.
Tăng trọng và hiệu quả sử dụng thức ăn : Sử dụng thức ăn viên nổi, trọng
lượng ếch Thái Lan sau thời gian nuôi:
30 ngày nuôi: 30 - 50gr
60 ngày nuôi: 100 - 120gr
90 ngày nuôi: 150 – 180gr
120 ngày nuôi: 200 - 250gr
Hệ số thức ăn (Lượng thức ăn cho 1kg ếch tăng trọng) đối với thức ăn viên nổi.
1,2 - 1,3: Nuôi trong đăng quầng
1,3 - 1,5: Nuôi trong bể ximăng, giai.

4


Nuôi ếch Đồng
Ếch không chịu được rét, suốt mùa đông ếch ẩn nấp trong hang tránh rét,
sang mùa xuân ấm áp mới đi lại kiếm ăn. Nên bắt đầu nuôi ếch từ mùa xuân, tháng
2-3 dương lịch. Dưới đây là cách chuẩn bị ao và lồng nuôi, cũng như tiêu chuẩn
chọn ếch giống sao cho hiệu quả nhất.
Chuẩn bị ao và lồng nuôi
Ao nuôi ếch không cần sâu, có thể tận dụng các ao rộng, căng lồng dọc bờ
ao để nuôi. Nước ao sạch, có thể thay nước khi cần. Ao nên tẩy vôi khử trùng hay
khử trùng bằng thuốc tím 100g/m2 mặt ao trước khi nuôi.
Thiết kế lồng nuôi ếch là việc làm quan trọng của nghề nuôi ếch lồng. Lồng
được căng trên ao nhờ các cọc tre tạo thành khung cắm sâu xuống đáy ao. Dùng
lưới nylon (cỡ 60 mắt/m2) quây thành lồng nuôi. Kích thước lồng dài 2m, rộng
1,5m và cao 1m, chân lưới cắm sâu trong đất 5-10cm. Với kích thước lồng như thế
này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho ếch sinh trưởng tốt và tiện lợi cho chăm sóc

quản lý của người nuôi.
Nước trong ao nên duy trì 40-50cm, bên trong lồng bố trí các tấm xốp phủ
nylon lên trên gọi là "sàn lồng" nổi lên trên mặt nước để ếch có thể nhảy xuống
uống nước hay leo lên ngồi trên sàn lồng, đồng thời là nơi cho ếch ăn hàng ngày.
Diện tích phần sàn lồng nổi chiếm 2/3 diện tích mặt nước. Mỗi lồng nuôi với kích
thước như trên có thể thả 200-250 con ếch giống (khoảng 5-6g/con).
Tiêu chuẩn ếch giống
Ở Việt Nam có nhiều giống ếch như ếch đồng, ếch xanh, ếch gai... song nuôi
ếch đồng là có giá trị hơn cả: ếch đồng dễ nuôi, ít bị bệnh, chóng lớn, con giống rẻ.
Ếch giống 35-40 ngày tuổi đạt trọng lượng 5-6g/con, chọn những con khỏe mạnh,
không bị dị hình, kích cỡ đồng đều. Thả mỗi lồng nuôi 1-1,5kg ếch giống. Tùy thời
điểm nuôi trong năm mà giá ếch giống (giống ếch đồng) dao động 30.000-50.000
đồng/kg.
Chăm sóc
Ếch thích ăn côn trùng, cá, tôm, cua... song nuôi ếch công nghiệp nên dùng
thức ăn hỗn hợp như thế sẽ kinh tế và có nguồn thức ăn ổn định. Thức ăn hỗn hợp
trong nuôi ếch thịt thương phẩm nên dùng loại kích thước 2-4mm, hàm lượng đạm
30%. Cho ếch ăn với lượng thức ăn chiếm 4-5% khối lượng ếch nuôi, ngày cho ăn
một lần. Khi cho ếch ăn, vãi thức ăn lên sàn lồng, theo dõi ếch ăn để điều chỉnh
lượng thức ăn sao cho ếch ăn được nhiều nhưng không để dư thừa thức ăn, vừa gây
tốn phí, vừa làm bẩn nước nuôi. Cần chú ý kiểm tra lồng nuôi, phát hiện kịp thời
các khe hở, lỗ hở, các sinh vật ăn thịt ếch (chuột, rắn...) làm hao hụt số lượng ếch
nuôi. Hằng tháng cần phân loại ếch để tách nuôi riêng những con không cùng kích
cỡ, tránh để những con lớn ăn thịt con nhỏ.

5


Trong quá trình nuôi, ếch có thể bị mắc một số bệnh như bệnh chướng hơi,
bệnh đường ruột, bệnh trùng bánh xe... nguyên nhân chủ yếu do nước nuôi bẩn,

môi trường nuôi bị ô nhiễm. Để phòng bệnh, cần giữ sạch nước nuôi, nếu nước
bẩn, nước tù đọng, nước bị chua... cần thay nước mới. Tuyệt đối không để nước ao
bị nhiễm các hóa chất bảo vệ thực vật, các loại thuốc diệt cỏ. Khu vực nuôi cần
được giữ yên tĩnh ếch mới ăn nhiều và chóng lớn. Thức ăn phải sạch, không bị thối
hỏng. Khi phát hiện ếch bị bệnh cần điều trị kịp thời và dứt điểm, nếu con ếch nào
chết cần loại bỏ ngay.
Thu hoạch, vận chuyển
Sau khi nuôi 3-4 tháng, trọng lượng ếch đạt 80-100g/con, mỗi lồng nuôi có
thể cho thu từ 12-20kg ếch thịt. Trước khi thu hoạch, ngừng cho ăn để ếch bài tiết
hết phân, và gom ếch lại nuôi với mật độ dày để ếch quen dần trước khi tập hợp
ếch để vận chuyển. Lúc đánh bắt cần nhẹ nhàng, tránh sây sát. Để vận chuyển ếch,
dùng bao tải, túi lưới... cho ếch vào trong, nhúng nước rồi vận chuyển. Nhìn chung
cần giữ cho da ếch luôn ướt khi vận chuyển thì ếch sẽ không bị chết.

Ếch Thái Lan: Nuôi 1, lời...3!
Tại trại nuôi thực nghiệm ở ĐH Nông Lâm TPHCM, hàng trăm con ếch
giống Thái Lan phổng phao, da màu xám nhạt, viền xanh to cỡ cái tô sành đang
chồm lên, chồm xuống trong những bể nuôi xi măng vuông vức có thành cao
ngang tầm ngực. Một thành viên trong nhóm nghiên cứu do TS Lê Thanh Hùng
làm chủ nhiệm đề tài cho biết, giá mỗi con ếch giống là 1.500 đồng/con nhưng nay
đã hết giống để bán. Hiện nhóm nghiên cứu đang tiếp tục ươn nuôi để cung cấp
cho dân.
Nuôi 3 tháng: 300-400 gam/con
Từ năm 2002, TS Lê Thanh Hùng đã chú ý đến việc nuôi ếch công nghiệp.
Trong những lần đi công tác từ Bắc chí Nam, như Đông Anh (Hà Nội), Yên Phong
(Hà Bắc), Từ Lộc (Hải Hưng) và một số tỉnh miền Nam, anh nhận thấy người dân
thường nuôi ếch đồng với nguồn giống bắt ngòai tự nhiên. Đây là lòai ếch đồng
Việt Nam, tên khoa học là Rana tigrina. Khi mang về nuôi, người dân thường nuôi
ếch bằng những lọai côn trùng tìm kiếm được như sâu bọ, giun, bướm đêm. Nuôi
trong khỏang từ 4-6 tháng, ếch đồng chỉ đạt trọng lượng khỏang trên dưới 1 lạng

(100g) mỗi con.
Có dịp ra nước ngòai, TS Lê Thanh Hùng kinh ngạc khi nhìn thấy một số
nước quanh ta đã có hẳn cả một ngành công nghiệp nuôi ếch. Ở Thái Lan, người ta
nuôi một lòai ếch đồng Thái lan, tên khoa học là Rana rugulosa. Lòai ếch này
được nuôi trong những bể xi măng và được cho ăn thức ăn viên công nghiệp. Thời
gian nuôi từ 4-5 tháng, trọng lượng mỗi chú ếch có thể đạt đến 300-400g/con, gấp
3 lần so với ếch đồng VN. Chỉ trong năm 1995, Thái Lan đã có trên 300 trại nuôi
6


ếch với qui mô công nghiệp. Không chỉ có vậy, người Thái còn nhập cả giống ếch
bò từ Nam Mỹ (Rana catesbeiana) để nuôi. Lòai ếch này phải nuôi từ 6-8 tháng để
cho ra ếch thương phẩm, trọng lượng trên dưới nửa kg/con. Riêng Đài Loan cũng
đang bắt đầu xuất hiện những trại nuôi công nghiệp ếch. Đây là lòai ếch đồng của
Đài Loan, có tên khoa học Rana tigrina pantheria. Ếch đồng Đài Loan cũng được
nuôi bằng thức ăn viên công nghiệp cho đến khi thành ếch thương phẩm với thời
gian nuôi và trọng lượng ếch tương đương như ở Thái lan. Ngòai ra, Đài Loan
cũng nhập ếch bò Nam Mỹ để nuôi, nhưng do là xứ lạnh, mùa đông có nhiệt độ
thấp hơn 20 độ C nên không thể nuôi quanh năm được.
Nhận thấy ếch dễ nuôi và có giá trị kinh tế cao, TS Lê Thanh Hùng tự hỏi,
liệu có thể phát triển ngành… công nghiệp nuôi ếch tại VN? Ếch đồng Việt Nam
nếu đưa nuôi công nghiệp có đạt giá trị kinh tế không? Nếu chọn nuôi ếch Thái
Lan và ếch đồng Việt Nam, nuôi lòai nào có giá trị kinh tế cao hơn? Bức xúc trước
những câu hỏi trên, TS Lê Thanh Hùng bèn bắt tay vào thực hiện đề tài nghiên cứu
“Xây dựng mô hình sản xuất giống và nuôi thâm canh ếch”.
Năm 2002, TS Lê Thanh Hùng cùng một nhóm nghiên cứu do mình phụ
trách đã nhập về VN 200 con giống ếch Thái Lan để nuôi thử nghiệm. Tham gia
nuôi thử nghiệm, còn có sự hợp tác của một số hộ dân ở ngọai thành cùng với công
ty Côn Au ở Q.9-TP.HCM. Ếch được nuôi trong những bể xi măng có kích thước
(3x2,5x1,2)m với mật độ nuôi 100 con/ m2. Để so sánh, nhóm nghiên cứu cũng đã

tiến hành nuôi ếch đồng VN trong điều kiện tương tự như nuôi ếch Thái Lan. Tuy
nhiên, do ếch đồng VN “nhỏ con” hơn nên được nuôi trong những bể xi măng có
kích thước phù hợp hơn là (3x2x0,8)m. Mật độ nuôi là 85 con/ m2.
Cả hai lọai ếch đồng VN và ếch đồng Thái lan đều được nuôi thúc bằng lọai
cám viên nổi của nhà sản thực phẩm chăn nuôi Cargill, có hàm lượng đạm
(protein) 22-35%.
Điều kỳ lạ là, ếch đồng VN sau nửa tháng nuôi, tỷ lệ sống chỉ có 36,2%.
Chúng hầu như không ăn thức ăn viên, lại hay ăn thịt lẩn nhau. Đã vậy, ếch đồng
VN còn có “tâm lý” sợ bóng người. Mỗi khi nhác có bóng người qua lại, chúng
nhảy tưng lên thành hồ và bị trầy xước miệng nên bỏ ăn và… chết! Các nhà nghiên
cứu lắc đầu khi thấy, sau 3 tháng nuôi với thức ăn công nghiệp, giàu đạm hẳn hoi
mà ếch đồng VN cũng chỉ đạt trọng lượng trung bình có… hơn 20 gam/con.
Trong khi đó, ếch đồng Thái Lan tuy cũng có tập quán ăn thịt lẩn nhau
nhưng chỉ trong 15 ngày đầu của chu kỳ nuôi. Qua thời gian đó, nuôi trong 60
ngày, mỗi con đã đạt tới trọng lượng hơn 1,5 lạng (167,5g)/con. Tỷ lệ nuôi sống
đạt tới trên 70%.
Nuôi 1, lời...3!
Thành công trong bể nuôi thực nghiệm, nhóm nghiên cứu đã chuyển giao
mô hình nuôi ếch Thái Lan trong bể xi măng cho 6 hộ tại huyên Hóc Môn và Củ
Chi. Trong số 6 hộ nuôi, có 4 hộ đạt kết quả khả quan. Sau 2 tháng nuôi, tỷ lệ sống
đạt từ 65-70%, mỗi chú ếch đạt trọng lượng lượng trung bình 110-120g.

7


Sau kết quả trên, nhiều nông hộ tại các huyện ngọai thành TP.HCM đang săn
lùng ếch giống Thái Lan để nuôi. Thế nhưng, số ếch giống mà nhóm nghiên cứu
ươn nuôi được tại Trại thực nghiệm của vườn hiện không còn đủ để bán. Nhóm
nghiên cứu đang tiếp tục “nhân giống” từ số ếch giống Thái Lan nhập về trước đây
để trong vài tháng tới, có thể kịp cung cấp cho người nuôi

Trong khi đó, một nhà chuyên xuất khẩu ếch đông lạnh là Công ty V.T (đề
nghị không nêu tên), tiết lộ nhu cầu xuất khẩu ếch hiện rất lớn. Do không đủ ếch
xuất khẩu nên khách hàng các nước chỉ ký hợp đồng với các công ty của ta theo
từng công-ten-nơ: lọai công-ten-nơ 9 tấn và lọai 18 tấn.. Gía xuất khẩu tùy theo qui
cách và kích cỡ. Thấp nhất, khỏang 2USD/kg đùi ếch. Với ếch có kích cỡ lớn, giá
xuất khẩu có thể lên đến trên 4USD/kg đùi ếch. Hiện tại, giá thu mua ếch để xuất
khẩu là từ 35.000-50.000 đồng/kg đùi ếch.
Còn theo TS Lê Thanh Hùng, các nông hộ hòan tòan có thể tận dụng những
bể xây xi măng bỏ trống hay chuồng heo cũ để nuôi ếch. Chỉ cần tốn 1,2 kg thức
ăn viên công nghiệp (giá khỏang 10.000 đồng) sẽ cho 1kg ếch thịt sau 3 tháng
nuôi. Tính gộp, giá thành 1kg ếch chỉ khỏang hơn chục ngàn đồng nhưng sẽ bán
được giá 20.000 – 30.000 đồng cho mỗi kg ếch thịt tươi. Cầm chắc 1 lời 2, lời 3
nếu đầu tư nuôi ếch!

Sinh Sản và Ương, Nuôi ếch Thịt
1 Ðịa điểm nuôi ếch :
- Vườn hoặc ao có diện tích từ 50m2 trở lên;
- Có nước sạch chủ động;
- Có tường gạch bao quanh;
- Có hang trú ẩn cho ếch;
- Bờ ao, mương trồng cây xanh tạo bóng mát;
- Mặt nước thả bèo tây hoặc rau muống ính 2/3 diện tích ao;
- Trong vườn tạo thêm ánh sáng màu và trồng nhiều hoa.
2 Thả giống :
- ếch giống cỡ 5 - 10g/con, đảm bảo chất lượng và quen ăn thức ăn chế biến;
- Mật độ thả : 40 - 60 con/m2.
3 Cho ăn :
- Thức ăn : Ngoài các loại giun đất, giòi, tôm tép, cua và các loại côn trùng
khác cho ếch ăn thêm bột ngũ cốc nấu chín để nguội (80%) trộn với cá tạp ruột ốc
xay nhỏ (20%);


8


- Khẩu phần ăn trong ngày bằng 8 - 10% trọng lượng ếch trong ao, cho ăn 2
lần (sáng và chiều) trong ngày;
- Trước khi cho ếch ăn, phải vệ sinh sạch sẽ sàn ăn.
4 Chăm sóc quản lý :
- Tạo thêm thức ăn cho ếch : Trong khu nuôi ếch thả cua, cá vào nuôi trong
ao, mương hoặc đào hố cạnh ao để bỏ phân bắc, cá chết, gà chết ít ngày sẽ sinh
giòi bọ, vớt giòi, bọ rửa sạch cho ếch ăn;
- Hằng ngày theo dõi mọi hoạt động của ếch : Mức ăn, tốc độ lớn, tình hình
bệnh, chất nước xử lý kịp thời khi có tình huống xảy ra;
- Sau khi thả giống, nuôi 4 - 5 tháng, ếch có thể đạt 80 - 100 g/con.

Sản xuất ếch con
A. Nuôi ếch bố mẹ để cho đẻ
* Nơi nuôi vỗ :
- Ðiều kiện ao, vườn như ao nuôi ếch thịt;
- Nơi có điều kiện thì nuôi riêng đực - cái 1 tháng, trước khi cho đẻ.
* Phân biệt đực - cái :
- ếch đực : Có 2 màng kêu (2 chấm đen) ở hàm dưới, hai bên hầu, gọi là túi
âm thanh. Bàn chân trước nháp hơn, ngón chân trước có mấu thịt hoá sừng (chai
sinh dục), da ếch đực màu xám, không trơn bóng như ếch cái, cùng tuổi, ếch đực
nhỏ hơn ếch cái, ếch đực càng già, màng kêu càng to, tiếng kêu càng dõng dạc
vang xa;
- ếch cái : Không có đặc điểm như ếch đực, đến mùa sinh sản thì ếch cái
bụng to, mềm hơn ếch đực.
* Mật độ nuôi vỗ :
- ếch đực : 3 - 5 con/m2, ếch cái 3 - 4 con/m2;

- Khi cho đẻ : Mật độ : 1 - 5 cặp/m2 mặt nước.
* Chế độ nuôi vỗ :
- Tăng tỷ lệ đạm động vật trong khẩu phần thức ăn, ngoài giun, giòi, cua, ốc,
trong thức ăn chế biến có 30% thịt cá và 70% bột ngũ cốc;
- Quản lý như nuôi ếch thịt.
B. Cho ếch đẻ
- Ðầu tháng 3 âm lịch, khi thấy bụng ếch cái to mềm và có tiếng kêu thưa
thớt của ếch đực, là báo hiệu 3 - 4 ngày sau ếch sẵn sàng đi đẻ;

9


- Nếu nuôi riêng đực - cái thì tối hôm đó, phải mở cửa để ếch đực sang với
ếch cái.
C. ương trứng ếch
* ương tại ao : ếch đẻ đêm thì sáng hôm sau chuyển hết ếch bố mẹ, để
nguyên các ổ trứng trong ao, ương cho nở tự nhiên; tuỳ theo nhiệt độ, khoảng 24
giờ sau trứng nở thành nòng nọc; gây phù du động vật cho nòng nọc, như gây màu
cho ao ương cá bột; sau khi nở 3 - 4 ngày, cho nòng nọc ăn thêm bột mỳ, bột gạo
từ : 200 - 300 g/1 vạn con/ngày; mật độ ương khoảng 2000 trứng/m2 mặt nước; tỷ
lệ nở bình quân 50%; sau 15 ngày có thể san thưa nòng nọc, đem nuôi ở ao, bể
khác.
* ương trong giai, bể : Có lợi là tập trung trứng về một chỗ, tiện quản lý
chăm sóc nhưng phải đảm bảo nước sạch, đủ ôxy và an toàn.
* ương trong ô xếp gạch, lót nilon : Thay nước ngày 1 - 2 lần hoặc có máy
sục khí. Mật độ 1 - 2 vạn trứng/m2.
Cách vớt trứng : ếch đẻ đêm, thì sáng hôm sau đem xô, chậu đi vớt ngay.
Dùng đĩa, chậu nhỏ vớt nguyên cả màng trứng rồi đổ nhẹ vào chậu to, xô (có chứa
vài lít nước sạch). Khi trứng đã kín mặt chậu, xô phải chuyển về bể, giai, ô rồi đi
vớt mẻ khác.

Trứng ếch ương ở nhiệt độ 22 - 26oC chỉ sau 22 giờ sẽ nở ra nòng nọc.
Trong 2 - 3 ngày đầu nòng nọc có khả năng tự dưỡng nhờ bọc noãn hoàng dự trữ ở
dưới bụng. Khi noãn hoàng tiêu hết, nòng nọc mới tự đi kiếm ăn. Mật độ nòng
nọc: 15.000 – 20.000 con/m2.
Cho nòng nọc ăn : Sau khi nở 3 - 4 ngày, vớt phù du động vật từ ao về cho
ăn hoặc cho ăn bằng lòng đỏ trứng (4 quả/1 vạn nòng nọc/2 bữa sáng, chiều) bóp
nhuyễn, rắc đều quanh bể. Trung bình từ nòng nọc lên ếch giống đạt tỷ lệ sống
50%.
San thưa : Sau 8 ngày nuôi ở bể, san thưa với mật độ 500 - 1000 con/m2.
Thức ăn bổ sung gồm : 20 - 30 % đạm động vật trộn với 70 - 80% bột ngũ cốc.
Khẩu phần ăn/ngày : 0,5 - 1 kg/1 vạn con. Tuỳ theo nhiệt độ, khoảng 21 - 25 ngày,
nòng nọc biến thái thành ếch con.
D. Nuôi ếch giống
* Mật độ : Thả 50 - 100 con/m2 (cỡ 2/5 g/con).
* Thức ăn : 30% tôm, tép, cá xay nhỏ trộn với 70% mì sợi, bún khô ngâm
nước, cắt đoạn hoặc cơm nguội; ngày cho ếch ăn 2 lần sáng và chiều; khẩu phần ăn
trong ngày bằng 8 - 10% trọng lượng ếch có trong ao, vườn (khoảng 1 kg thức
ăn/1000 con/ngày); khoảng 50 ngày tuổi, ếch con đạt cỡ ếch giống (5 - 10g/con);
chuyển đi nuôi thành ếch thịt.

10


7. Thu hoạch và vận chuyển
Thu hoạch :
- Thu nòng nọc bằng lưới cá hương;
- Thu ếch con bằng lưới nilon mắt nhỏ;
- Thu ếch thịt bằng lưới then 2 hoặc 3;
- Dụng cụ thu ếch phải trơn, nhẵn;
- Thời gian thu vào sáng sớm hay chiều mát.

Vận chuyển :
- Chọn ngày trời mát, nhiệt độ không khi dưới 30oC;
- Nòng nọc vận chuyển bằng thùng, xô, chậu có nước sạch; mật độ 80 - 100
con/lít; bằng túi PE có bơm ôxy : 600 - 800 con/lít;
- ếch con vận chuyển bắng sọt, rổ tre, lồng (có lót nilon) hoặc thùng, chậu,
túi vải trong có 1 ít rong, bèo;
- ếch thịt vận chuyển dụng cụ lớn hơn, thiết kế nhiều tầng, không chồng đè
lên nhau, thoáng và giữ được độ ẩm bão hoà.
8. Phòng và trị bệnh
A. Phòng bệnh :
- Vệ sinh, tẩy trùng ao, vườn trước khi nuôi;
- Ðảm bảo nguồn nước sạch và giữ được vệ sinh khu nuôi ếch;
- Kiểm tra ếch giống khi mua về, có thể tắm nước muối ăn 3%;
- Ðảm bảo số và chất lượng thức ăn trong từng giai đoạn phát triển của nòng
nọc và ếch;
- Không để xảy ra dịch bệnh.
B. Chữa bệnh :
- Bệnh ghẻ lở ở ếch : Dùng dipterex phun với nồng động 100g hoà trong 50
lít nước phun trong 100m2 vườn và thay ngay nước cũ ở ao, mương;
- Bệnh trướng hơi : Phổ biến ở nòng nọc; dùng chậu chứa 5 lít nước sạch,
hoà 1 lọ penicilin 1 triệu đơn vị; tắm nòng nọc trong 10 phút rồi lại thả lại ao, bể
đã làm vệ sinh và thay nước mới; cũng có thể tắm bằng CuSO4 nồng độ 5 phần
triệu hoặc nước muối ăn 3% trong 10 phút;
- Bệnh trùng bánh xe : Cả nòng nọc và ếch đều bị; dùng CuSO4 nồng độ 2 3 phần triệu phun xuống ao (2- 3 g/m3 nước);
- Bệnh kiết lỵ : Cũng ở nòng nọc và ếch, giảm lượng thức ăn xuống còn
50% trong ngày và trộn ganidan giã nhỏ vào thức ăn với liều lượng 1 viên/1 kg
thức ăn; cho ăn 2 - 3 ngày liên tục. (Thông tin Khoa học - Công nghệ Thuỷ sản)

11



Nuôi ếch Trong Ruộng Lúa
Ruộng lúa là môi trường rất tốt cho ếch sinh sống và phát triển. Những côn
trùng hại lúa là nguồn thức ăn ếch ưa thích...

Chọn ruộng nuôi
Chọn ruộng có nguồn nước đầy đủ, cấp thoát nước thuận lợi, diện tích từ vài
trăm đến vài nghìn m2, trong đó 2/3 diện tích để trồng lúa, còn lại trồng xen khoai
nước hoặc sen. Nếu ruộng lúa và ao sen sát cạnh nhau có thể bao bờ chung, đào
một hố bảo vệ rộng 1 - 2m2, sâu 50 - 60m, ở gần cửa cống thoát nước và xẻ
mương bảo vệ rộng 30cm, sâu 50cm xung quanh ruộng lúa, nối liền hố với mương
để ếch và nòng nọc có chỗ sinh sống khi tháo cạn phơi lúa. Bờ ruộng nên đắp rộng
và cao, giữ độ sâu nước từ 6 - 15cm, nên trồng loại lúa ngắn ngày, khi gặt để lại
gốc cho lúa nảy chồi.
Trước khi thả ếch phải rào lưới. Dùng 2 tấm lưới nilon khâu lại, độ cao 1,5m
trở lên, chân lưới vùi sâu xuống đất trên 10cm. Lưới được buộc vào các cọc nẹp
tre, gỗ làm giá đỡ, có thể dùng giấy tẩm dầu, tấm lợp xi măng hay xây tường gạch
(tuy nhiên cần chú ý vì những loại vật liệu này thông gió kém, dễ đổ, trôi... khi có
mưa bão). Tại các chỗ cửa rào, cửa cống cấp thoát nước cần bịt bằng lưới nilon,
mắt lưới to nhỏ tuỳ kích cỡ loại ếch nuôi.

Thả ếch
Khi nhiệt độ nước trên 18oC hoặc sau khi cấy lúa xong 10 ngày thì thả ếch
(cỡ 20g/con) vào ruộng, mật độ thả 1.000 con/sào. Nên thả cùng cỡ trên một diện
tích để tránh con lớn ăn con bé. Không thả nòng nọc ở ruộng vì sẽ bị lươn, côn
trùng, ếch đồng, thuỷ sinh... ăn.
Nếu ruộng lúa ít côn trùng có thể mắc đèn bẫy sâu bọ, sau khi gặt lúa. Trời
lạnh ít sâu bọ cho ếch ăn thêm tôm, cá nhỏ, giun... Ruộng nuôi giữ nước sâu 6 15cm. Khi cần phơi nắng, tháo nước cạn dần để nòng nọc rút vào mương bảo vệ
hoặc ruộng khoai, ao sen.


Chống nóng
Vào mùa hè, cây lúa còn nhỏ, ruộng không có gì che mát, nhiệt độ có khi lên
tới 38 - 40oC, vượt quá mức thích nghi của ếch. Vì vậy cần cấy lúa chính vụ hay
lúa sớm, khi gặt lúa cần để gốc rạ đều cho mọc lúa chét. Cạnh ruộng lúa nên trồng
khoai, sen để ếch trú ẩn, hoặc lấy rơm rạ lợp vào một chỗ che mát trên mương để
bảo vệ ếch.

Chăm sóc
Ruộng lúa nuôi ếch cần điều chỉnh mật độ cấy thích hợp, cải tiến kỹ thuật
bón phân để giảm nhẹ nguồn bệnh, không cần sử dụng đến thuốc trừ sâu, ếch vẫn
có thể sinh trưởng và phát dục thuận lợi, không cần phơi ruộng hạn chế lúc đẻ

12


nhánh, ruộng nuôi ếch cần bón lượng phân lót nhiều hơn, giảm hay bỏ hẳn bón
thúc để nâng cao hiệu quả bón phân, giảm tác hại cho ếch.

Lợi ích
Nuôi ếch một thời gian thì phần lớn côn trùng trong ruộng có ếch ít hơn, sẽ
bớt bệnh hại lúa, nên cũng ít phải phun thuốc trừ sâu. Nếu có dùng nên chọn loại ít
độc hoặc dồn ếch về khu ruộng khoai, sen để tránh độc vài ngày. Tốt nhất là không
nên dùng.

13


MỘT SỐ BỆNH THƯỜNG GẶP VÀ CÁCH
PHÒNG TRỊ BỆNH
Ếch nuôi công nghiệp, mật độ cao có thể mắc một số bệnh làm tỉ lệ sống

giảm. Có bệnh vi khuẩn, virus, dinh dưỡng, môi trường. Phổ biến những bệnh sau:
Lỡ loét và đỏ chân, sình bụng, thân có những đốm trắng, ăn lẫn nhau.
Bệnh lở loét đỏ chân:
Nguyên nhân: Do vi khuẩn Aeromonas hydrophila phát triển khi môi trường
nuôi dơ và khi ếch bị shock.
Triệu chứng bệnh: Ếch giảm ăn, di chuyển chậm, có những nốt đỏ trên thân,
chân bị sưng và dấu hiệu rõ nhất là gốc đùi có tụ huyết. Giải phẩu nội tạng, thấy
xuất huyết trong ổ bụng.
Chữa trị khi bệnh mới phát sẽ có tác dụng tốt. Dùng kháng sinh 5 - 7 ngày.
Norfloxaxine (5gr/kg thức ăn), hoặc Oxytetracycline (3 - 5gr/kg thức ăn). Ngâm
ếch trong dung dịch Iodine (PVP Iodine 350: 5 - 10 ml/1m3 nước)
Phòng bệnh: Giữ nước sạch và thường xuyên thay nước.
Bệnh sình bụng:
Nguyên nhân, do ếch ăn thức ăn ôi thiu hay do cho ăn quá nhiều ếch không
tiêu hóa được., nguồn nước nuôi dơ do ít thay nguồn nước
Triệu chứng bệnh: Bụng ếch trương phồng lên, ếch nằm yên một chổ. Một
số con có hậu môn lòi ra, ruột bị sưng lên. Trong ruột có dịch lỏng có lẫn một ít
thức ăn
Cách chữa trị: Ngưng cho ăn 1 - 2 ngày. Làm vệ sinh thật kỹ môi trường
nuôi. Trộn vào thức ăn Sulphadiazine và trimethroprim (4 - 5gr/kg thức ăn). Sử
dụng liên tục 5 ngày
Phòng bệnh: Định kỳ trộn các men (enzymes) tiêu hóa vào thức ăn của ếch.
(2 – 3gr men Lactobacillus trong 1 kg thức ăn). Thay nước thường xuyên và giữ
nước nuôi sạch
Bệnh mù mắt, cổ quẹo:
Triệu chứng : Mắt bị viêm sưng. Mắt đục và mù cả hai mắt. Biến dạng cột
sống và cổ quẹo. ếch thường xuyên quay cuồng và chết. Nguyên nhân chưa rõ,
nhưng có tài liệu cho là do vi khuẩn Pseudomonas sp
Chữa trị: Loại bỏ những con có triệu chứng bệnh. Khử trùng bể bằng Iodine
(PVP Iodine) liều lượng 5 - 10ml m3 nước bể.

Hiện tượng ăn nhau: Nguyên nhân, nuôi mật độ cao. Thức ăn không đủ.
Kích cỡ nuôi không đồng đều. Phòng chống: Mật độ không quá cao. Thức ăn phải
14


đủ chất (protein phải đúng) và phân bố đều và nhiều lần trong ngày. Thường xuyên
lọc và phân cỡ bể nuôi khi ếch nhỏ dưới 50gr.

15



×