PHÂN TÍCH VÀ ĐÁNH GIÁ CÁC ĐIỀU
KIỆN NUÔI CON NUÔI GIỮA CHA
DƯỢNG HOẶC MẸ KẾ VỚI CON
RIÊNG CỦA MỘT BÊN VỢ CHỒNG
Nuôi con nuôi là việc xác lập quan hệ cha mẹ và con giữa người nhận nuôi con nuôi
và người được nhận làm con nuôi, bảo đảm cho người được nhận làm con nuôi được
trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội.
Nuôi con nuôi ở nước ta đang ngày càng gia tăng với mục đích vì lợi ích tốt nhất
của trẻ em. Cha dượng, mẹ kế nhận con riêng của vợ, chồng làm con nuôi sẽ giúp trẻ
sống với gia đình gốc của mình, dễ dàng hòa nhập vào cuộc sống mới nhanh chóng
hơn. Đây là việc làm mang tính nhân văn sâu sắc có ý nghĩa không chỉ đối với các cá
nhân tiến hành nhận nuôi con nuôi, trẻ em được nhận nuôi mà còn có ý nghĩa đối với
xã hội về sự đùm bọc, yêu thương nhau.
Một trong những nguyên tắc của pháp luật về nuôi con nuôi được ghi nhận trong
Luật Nuôi con nuôi năm 2010, cùng những văn bản hướng dẫn thi hành những quy
định về việc nuôi con nuôi và các điều kiện của việc nuôi con nuôi là “cần tôn
trọng quyền của trẻ em được sống trong môi trường gia đình gốc”. Vì
vậy, việc cha dượng, mẹ kế nhận con riêng của một bên vợ, chồng làm con nuôi luôn
được ưu tiên hàng đầu. Trong phạm vi bài tập học kỳ, em xin chọn đề tài “Phân
tích và đánh giá các điều kiện nuôi con nuôi giữa cha dượng
hoặc mẹ kế với con riêng của một bên vợ, chồng” để làm rõ hơn
về vấn đề này.
I. Một số khái niệm cơ bản
1. Con nuôi, cha mẹ nuôi
Điều 3 Luật Nuôi con nuôi 2010 đã đưa ra khái niệm con nuôi và cha mẹ nuôi.
Theo đó: “Con nuôi là người được nhận làm con nuôi sau khi việc
nuôi con nuôi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký”; và
“Cha mẹ nuôi là người nhận con nuôi sau khi việc nuôi con
nuôi được cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký”.
2. Cha dượng, mẹ kế, con riêng
Theo Từ điển Tiếng Việt thì:
“Cha dượng là chồng sau của mẹ, trong quan hệ với con của người chồng trước
(không dùng để xưng gọi)”.
“Mẹ kế là người phụ nữ là vợ kế, trong quan hệ với con người vợ trước của
chồng (không dùng để xưng gọi)”.
“Con riêng là con của chồng hay của vợ (với người phụ nữ hay người đàn ông
khác”.
3. Nuôi con nuôi
Về góc độ pháp luật:
Khoản 1 điều 3 Luật Nuôi con nuôi quy định : “Nuôi con nuôi là việc xác lập
quan hệ cha, mẹ và con giữa người nhận con nuôi và người được nhận làm con nuôi”.
Nuôi con nuôi là việc một người nhận nuôi dưỡng một người khác không do họ trực
tiếp sinh ra nhằm xác lập quan hệ cha mẹ và con trên cơ sở ý chí tự nguyện của các
bên. Việc nhận nuôi được coi là một sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ nuôi
dưỡng giữa người nhận nuôi và con nuôi, bao gồm các sự kiện:
- Sự thể hiện ý chí của người nhận nuôi con nuôi: phải thể hiện ý chí của mình
về việc mong muốn nhận nuôi trẻ.
- Sự thể hiện ý chí của cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của trẻ em được cho làm
con nuôi: ý chí này phải hoàn toàn độc lập.
- Sự thể hiện ý chí của bản thân người con nuôi: con từ 9 tuổi trở lên có quyền
được thể hiện ý chí đối với việc nhận nuôi.
- Sự thể hiện ý chí của Nhà nước: qua việc công nhận (hay không công nhận)
việc nuôi con nuôi thông qua thủ tục đăng ký việc nuôi con nuôi.
Nuôi con nuôi với tư cách là 1 quan hệ pháp luật có đầy đủ các yếu tố:
- Chủ thể: gồm có cha mẹ đẻ, cha mẹ nuôi và con nuôi.
- Khách thể: những lợi ích mà các bên chủ thể hướng tới (quyền nhân thân, tình
cảm gắn bó lâu dài, các quyền tài sản,…)
- Nội dung: những quyền và nghĩa vụ pháp lý của các chủ thể khi tham gia vào
quan hệ nuôi con nuôi do pháp luật quy định.
4. Nuôi con nuôi có yếu tố nước ngoài
Tại Khoản 5 Điều 3 Luật Nuôi con nuôi 2010 quy định: “Nuôi con nuôi có
yếu tố nước ngoài là việc nuôi con nuôi giữa công dân Việt Nam với
người nước ngoài, giữa người nước ngoài với nhau thường trú ở Việt
Nam, giữa công dân Việt Nam với nhau mà một bên định cư ở nước
ngoài”.
II. Điều kiện nuôi con nuôi giữa cha dượng hoặc mẹ kế với con riêng của một bên
vợ, chồng
1. Điều kiện đối với người được nhận nuôi là con riêng của một bên vợ, chồng
Theo Điều 8 Luật Nuôi con nuôi quy định chung về người được nhận làm con
nuôi trong các trường hợp như sau:
“1. Trẻ em dưới 16 tuổi
2. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi nếu thuộc một trong các
trường hợp sau đây:
a) Được cha dượng, mẹ kế nhận làm con nuôi;
b) Được cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi.
3. Một người chỉ được làm con nuôi của một người độc thân hoặc
của cả hai người là vợ chồng.
4. Nhà nước khuyến khích việc nhận trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ
rơi, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khác làm con nuôi”.
Như vậy, người con riêng cần phải đáp ứng được các điều kiện
đó là:
- Độ tuổi: Trong trường hợp này, Luật cho phép người dưới 18 tuổi thì được
nhận làm con nuôi.
- Chỉ được làm con của một người độc thân hoặc của cả hai người là vợ chồng.
a. Về độ tuổi của người được nhận làm con nuôi
Người được nhận làm con nuôi trong Luật Nuôi con nuôi 2010 là trẻ em dưới 16
tuổi. Trẻ em dưới 16 tuổi là người chưa có năng lực hành vi đầy đủ, họ chưa nhận
thức được đầy đủ hành vi của mình, việc thiết lập quan hệ nuôi con nuôi sẽ được đảm
bảo cho người con nuôi có được sự giám hộ của cha mẹ nuôi. Mục đích việc nuôi con
nuôi là để gắn kết giữa những người nhận nuôi và người con nuôi, trẻ em được chăm
sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trong môi trường gia đình, Luật quy định người nhận làm
con nuôi là dưới 16 tuổi nhằm phù hợp với độ tuổi của trẻ em được quy định trong
Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em 2004. Quy định góp phần thưc hiện cam kết
quốc tế trong trường hợp nước ta gia nhập Công ước Lahaye năm 1993.
Tuy nhiên, việc cha dượng hoặc mẹ kế nhận con nuôi là con riêng của một bên
vợ, chồng lại là một trường hợp ngoại lệ về độ tuổi được quy định tại khoản 2 Điều 8
Luật Nuôi con nuôi. Quy định này nhằm đảm bảo cho họ được chăm sóc, giáo dục
trong một môi trường gia đình, đảm bảo tính nhân đạo của việc nuôi con nuôi. Nó tạo
điều kiện cho trẻ được sống trong gia đình có mối quan hệ huyết thống, đây là môi
trường sống mà trẻ đã quen thuộc nên việc hòa nhập với gia đình mới sẽ dễ dàng hơn.
Mặt khác, trong mối quan hệ giữa bố dượng, mẹ kế với con riêng thì quyền và
nghĩa vụ giữa họ là rất hạn chế. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định bố
dượng, mẹ kế và con riêng chỉ có một số quyền nhất định (Điều 79 Luật Hôn nhân và
gia đình 2014), bao gồm:
Khoản 1 điều 79: “Bố dượng, mẹ kế có quyền và nghĩa vụ và quyền trông nom,
nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con riêng cùng sống chung với mình (theo quy định
tại các điều 69, 71, 72 Luật Hôn nhân và gia đình 2014)”;
Khoản 2 điều 79: “con riêng có quyền và nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi
dưỡng bố dượng, mẹ kế cùng sống chung với mình (theo quy định tại các điều 70, 71,
Luật Hôn nhân và gia đình 2014)”; bố dượng, mẹ kế và con riêng của vợ hoặc của
chồng không được ngược đãi, hành hạ, xúc phạm nhau.
Do đó, nếu có những ưu tiên trong việc để cho bố dượng hoặc mẹ kế nhận con
riêng của vợ hoặc chồng mình làm con nuôi thì giữa họ sẽ thiết lập quan hệ giữa cha
mẹ nuôi và con nuôi, giữa họ sẽ phát sinh và tồn tại tất cả các quyền và nghĩa vụ như
cha mẹ đẻ và con đẻ. Điều này đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của cả hai
bên chủ thể mà đặc biệt là quyền của người được nhận nuôi.
b. Chỉ được làm con của một người độc thân hoặc của cả hai người là vợ chồng