Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

BÀI THUYẾT TRÌNH HAY MÔN LUẬT ĐẦU TƯ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (205.86 KB, 14 trang )

Lớp AUF k34

Bài thuyết trình môn
Luật Đầu tư
Đề tài: Luật Đầu tư công đang được xây dựng, nhưng có
quan điểm cho rằng Việt Nam không cần có Luật Đầu tư
công. Quan điểm của bạn?

1|Page




NHÓM 3:
1. Lục Quốc Cường (nhóm trưởng)
2. Trần Tôn Châu Giang
3. Nguyễn Hà Trang
4. Nguyễn Thảo Trâm
5. Hồ Hoàng Tuấn


Luật đầu tư công
Page 2


MỤC LỤC:

Mục:
I.
II.


Trang:
Dẫn
nhập ......................................................................................
Đầu tư công là gì?
……................................................................

4
5
5

III.

Quan điểm cá nhân về việc xây dựng Luật Đầu tư
công………..

1) Sự cần thiết của Luật Đầu tư công………………………………

5

2) Mặt tích cực……………………………………………………..

8

3) Mặt hạn chế……………………………………………………...

10

4) Liên hệ với nước ngoài ………………………………………....

12


5) Một số đề xuất và hướng giải quyết……………………………..

12

IV.

13

Kết luận………………………………………………………

Luật đầu tư công
Page 3


I.

Dẫn nhập:

Thực hiện Nghị quyết số 72/2006/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2006 của Quốc
hội về Chương trình xây dựng Luật, Pháp lệnh năm 2007 và Quyết định số 291/QĐ-TTg
ngày 7/3/2007 của Thủ tướng Chính phủ về việc phân công cơ quan chủ trì, phối hợp
soạn thảo các dự án luật, Bộ Kế hoạch và đầu tư phối hợp với các Bộ, ngành liên quan đã
ra dự thảo Luật Đầu tư công.
Đến nay Ban Soạn thảo đã hoàn chỉnh văn bản dự thảo Luật Đầu tư công và đã
trình Chính phủ xem xét cũng như báo cáo tại kì họp thứ 2 Quốc hội khóa XII

II.

Đầu tư công là gì?


Khoản 1 Điều 3 Bản sơ thảo Luật đầu tư công: “Đầu tư công là việc sử dụng vốn Nhà
nước để đầu tư vào các công trình, dự án phục vụ phát triển kinh tế - xã hội không có khả
năng hoàn vốn trực tiếp”.
Hiện nay, xoay quanh thuật ngữ này, ta cũng có thể tìm thấy có rất nhiều cách hiểu như
sau:
1. Đầu tư công là các dự án do Nhà nước bỏ vốn ra, đầu tư vào một công trình hay
dự án cần thiết cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
2. Đầu tư công là các dự án không nhằm mục đích kinh doanh, không có khả năng
hoàn vốn trực tiếp.
3. Đầu tư công là các dự án rất lớn mà các nhà đầu tư khác không thể làm được, vì
vậy Nhà nước làm chủ đầu tư, quyết định qui trình, hiệu quả kinh tế - xã hội của
dự án.
 Như vậy, theo quan điểm cá nhân, đầu tư công có những đặc điểm sau:
_ Về nhà đầu tư (nguồn vốn): Nhà nước.
_ Mục đích: phục vụ lợi ích chung, không nhằm mục đích kinh doanh.
_ Khả năng hoàn vốn: không có khả năng hoàn vốn trực tiếp.

Luật đầu tư công
Page 4


III.

Quan điểm cá nhân về việc xây dựng Luật Đầu tư công:

1) Sự cần thiết của Luật Đầu tư công:
Đầu tư bằng nguồn vốn Nhà nước vào các dự án, các chương trình mục tiêu quốc gia
thuộc các lĩnh vực phục vụ công ích, không nhằm mục đích kinh doanh (đầu tư công) có
vai trò quan trọng trong việc phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật, kinh tế và xã

hội, tạo động lực thúc đẩy phát triển đất nước.
Tuy nhiên, tổng hợp, đánh giá thực tế quản lí đầu tư công bằng các nghị định của Chính
phủ và các luật liên quan trong thời gian qua cũng cho thấy những vấn đề vướng mắc
chưa giải quyết được và chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu về quản lí đầu tư công hiện nay.
a) Chưa có một văn bản luật thống nhất về đầu tư công làm cơ sở pháp lí triển khai
thực hiện và quản lí đầu tư sử dụng vốn Nhà nước không nhằm mục đích kinh
doanh. Các qui định hiện hành có ở nhiều văn bản qui phạm pháp luật khác nhau
nên gây khó khăn trong việc tra cứu và thi hành.
 Luật Ngân sách nhà nước năm 2002 quy định về thu chi ngân sách hàng năm.
Điều 31 của Luật này quy định chi đầu tư phát triển, trong đó có đầu tư xây
dựng các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội không có khả năng thu hồi
vốn. Tuy nhiên, Luật Ngân sách nhà nước chỉ quy định kế hoạch ngân sách
hàng năm, không có kế hoạch bố trí đầu tư dài hạn (3 - 5 năm) theo các dự án
đầu tư; chưa quy định đầy đủ việc sử dụng các nguồn vốn nhà nước khác cho
đầu tư công như trái phiếu Chính phủ, công trái, ODA... Ngoài ra, Luật Ngân
sách nhà nước quy định ngân sách phân bổ cho các công trình mục tiêu được
cấp thẩm quyền phê duyệt, nhưng chưa quy định trình tự thủ tục phê duyệt, quá
trình giám sát việc thực hiện, đánh giá các dự án đầu tư công.
Do vậy, việc thực hiện đầu tư công theo quy định tại Luật Ngân sách là chưa
đầy đủ.
 Luật Đầu tư năm 2005 quy định về việc quản lý hoạt động đầu tư nhằm mục
đích kinh doanh, trong đó chỉ điều chỉnh phần vốn nhà nước đầu tư cho mục
đích kinh doanh. Luật Đầu tư chưa điều chỉnh việc sử dụng Ngân sách nhà
nước và các nguồn vốn khác của Nhà nước đầu tư vào các dự án không nhằm
mục đích kinh doanh, không có khả năng hoàn vốn (đầu tư công). Do vậy, các
dự án đầu tư công cũng không chịu sự chế tài của Luật này.
Luật đầu tư công
Page 5



 Luật Xây dựng năm 2003 được ban hành để quản lý hoạt động xây dựng đối
với các dự án đầu tư có các công trình xây dựng. Luật Xây dựng không bao
gồm các nội dung quan trọng về quản lý đầu tư như: Kế hoạch đầu tư, phân bổ,
quản lý vốn và các nguồn lực đầu tư qua các chương trình và dự án đầu tư, tổ
chức quản lý quá trình đầu tư từ khâu quy hoạch, kế hoạch đến khâu quản lý
khai thác, sử dụng các dự án , kiểm tra, giám sát, đánh giá các dự án đầu tư để
đảm bảo hiệu quả đầu tư.
 Tuy Luật Xây dựng có quy định về trình tự, thủ tục lập, thẩm định và phê duyệt
các dự án đầu tư xây dựng công trình, nhưng các quy định mới mang tính
nguyên tắc. Đồng thời, tại nhiều Hội thảo chuyên đề về đầu tư, xây dựng , ý
kiến nhiều đại biểu cho rằng quy định về việc lập, thẩm định dự án đầu tư
trong Luật Xây dựng là chưa phù hợp. Các nội dung này cần được quy định tại
Luật Đầu tư.
 Luật Đấu thầu năm 2005 quy định về các hoạt động đấu thầu để lựa chọn nhà
thầu cung cấp dịch vụ tư vấn, mua sắm hàng hoá, xây lắp đối với các gói thầu
của các dự án (từ 30% vốn nhà nước trở lên cho đầu tư phát triển; dự án sử
dụng vốn nhà nước để mua sắm tài sản); khụng có quy định về thủ tục lập và
trình duyệt dự án đầu tư dựng vốn nhà nước.
 Luật Quản lý sử dụng tài sản nhà nước (năm 2008) quy định về chế độ quản lý,
sử dụng tài sản nhà nước tại cơ quan, tổ chức, bao gồm trụ sở làm việc và tài
sản khác gắn liền với đất; quyền sử dụng đất đối với đất dùng để xây dựng trụ
sở làm việc, cơ sở hoạt động sự nghiệp của cơ quan, tổ chức, đơn vị; máy móc,
phương tiện vận tải, trang thiết bị làm việc và các tài sản khác do pháp luật quy
định. Luật này cũng chưa có quy định cụ thể về quản lý, khai thác các công
trình kết cấu hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội. Do vậy, các quy định về quản
lý khai thác các dự án đầu tư công trong Dự thảo Luật Đầu tư công không
chồng chéo và mâu thuẫn với Luật này.
 Như vậy, nhiều khâu trong quá trình quản lý đầu tư công trong các Luật nêu
trên còn chưa có quy định, thiếu một văn bản luật pháp nhất quán điều chỉnh
toàn bộ quá trình đầu tư công.

Luật đầu tư công
Page 6


 Trong thời gian qua, các quy định về đầu tư công chủ yếu được quy định tại
các văn bản dưới luật, như Nghị định 52/1999/NĐ-CP ngày 08/7/1999 của
Chính phủ về việc ban hành Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng, trong đó có
quy định về nội dung kế hoạch đầu tư, quản lý đầu tư các dự án; Nghị định
12/2009/NĐ-CP ngày 12/02/2009 về quản lý dự án đầu tư xây dựng công trình;
Quyết định số 135/2009/QĐ-TTg ngày 04/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ
về ban hành Quy chế quản lý, điều hành thực hiện các Chương trình mục tiêu
quốc gia; Quyết định 210/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về nguyên
tắc, tiêu chí và định mức phân bổ vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước; Nghị định
số 113/2009/NĐ-CP ngày 15/12/2009 về giám sát, đánh giá đầu tư.
b) Các văn bản quy phạm pháp luật hiện hành chưa xác định rõ yêu cầu quản lí nhà
nước về hoạt động đầu tư công, đối tượng và nội dung quản lí trong các khâu qui
hoạch, kế hoạch, chuẩn bị đầu tư, triển khai thực hiện dự án, quản lí sử dụng vốn,
quản lí khai thác dự án và một số vấn đề khác.
Vinasin là một điển hình của việc huy động, quản lí và sử dụng vốn bừa bãi. Cuối
năm 2009, Vinasin đã không còn bảo toàn được vốn Nhà nước giao, để thâm hụt
gần 5000 tỷ đồng vốn điều lệ. Theo Thanh tra Chính phủ, những thiệt hại đó xuất
phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó, đáng chú ý là quá trình xây dựng thể chế - hệ
thống thành viên Tập đoàn cũng như việc huy động – quản lí sử dụng vốn.
Cơ quan thanh tra cho rằng Hội đồng quản trị Công ty mẹ Vinashin đã hoạt động
thiếu trách nhiệm: Doanh nghiệp hoạt động theo mô hình mới nhưng vẫn giữ điều
lệ, quy chế tài chính cũ, để Chủ tịch kiêm nhiệm vị trí Tổng giám đốc trong nhiều
năm… Trong thời gian ngăn, Vinashin cũng thành lập, sáp nhập thêm hơn 200
doanh nghiệp con, trong đó có hàng loạt doanh nghiệp ngoài ngành, dẫn đến sự
phức tạp, lỏng lẻo trong quản lý, dàn trải về đầu tư.
Có được số vốn như vậy nhưng việc quản lý và sử dụng của Vinashin lại tỏ ra tuy

tiện: Mua tàu biển cũ không theo quy định và chỉ đạo của Thủ tướng, gây lãng phí,
mất vốn. Đầu tư dàn trải, ra ngoài ngành, dẫn đến không đủ năng lực tài chính cho
ngành kinh doanh chính, vi phạm liên tiếp nhiều hợp đồng với khách hàng và phải
chịu thiệt hại trên 1.000 tỷ đồng.

Luật đầu tư công
Page 7


Một sai phạm nghiêm trọng khác cũng được Thanh tra Chính phủ chỉ ra tại
Vinashin là trong vòng 5 năm, hoạt động chủ yếu của Công ty mẹ là huy động vốn
cho các đơn vị vay lại và hưởng lãi. Thực chất, đây là hoạt động cấp tín dụng trái
pháp luật, cùng với những vi phạm về quan hệ hợp đồng, quản lý nợ… dẫn tới
không quản lý được dòng tiền, mất khả năng thanh toán nợ đến hạn.
c) Trong một số qui định hiện hành chưa đảm bảo sự rõ ràng, chặt chẽ và hiệu quả
đối với từng nhiệm vụ cụ thể trong quản lí đầu tư công.
Vì chưa có hành lang pháp lí rõ ràng, chưa có chế tài mạnh, nên khi vi phạm xảy ra
rất khó để qui đổi trách nhiệm cụ thể.
Ví dụ trường hợp của Vinasin, khi vi phạm xảy ra, cả ba bộ đều nhận lỗi về mình:
_ Bộ giao thông vận tải chưa kiên quyết yêu cầu Vinasin xây dựng, trình Thủ tướng
ban hành điều lệ tổ chức hoạt động; trong nhiều năm phát hiện chưa kịp thời những
yếu kém và cố ý làm trái tại Vinasin.
_ Bộ tài chính chưa kiên quyết yêu cầu Vinasin xây dựng qui chế tài chính, chưa có
giải pháp kiên quyết hiểu quả trong kiểm soát, sử dụng vốn trái phiếu quốc tế mà
Vinasin vay lại của Chính phủ.
_ Bộ nội vụ chưa kiên quyết yêu cầu Vinasin thực hiện đúng qui trinhfboor nhiệm,
thuê tổng giám điều hành để tình trạng Chủ tịch Hội đồng quản trị kiêm Tổng Giám
đốc nhiều năm.

2) Mặt tích cực:

 Việc ban hành Luật Đầu tư công sẽ tạo khuôn khổ pháp lí thống nhất
và hiệu lực cao:
Đầu tư bằng nguồn vốn Nhà nước vào các dự án, các chương trình mục tiêu quốc gia
thuộc các lĩnh vực phục vụ công ích, không nhằm mục đích kinh doanh (đầu tư công) có
vai trò quan trọng trong việc phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật, kinh tế và xã
hội, tạo động lực thúc đẩy phát triển đất nước.
Hiện nay, nguồn vốn đầu tư của Nhà nước trong lĩnh vực công ích, không nhằm mục đích
kinh doanh được giao cho các Bộ, ngành, địa phương… chiếm 22% tổng mức đầu tư toàn
Luật đầu tư công
Page 8


xã hội. Tuy nhiên, việc quản lí nguồn vốn đầu tư lớn này lại chưa có một dự luật thống
nhất mà chỉ được qui định rải rác trong các Luật như: Luật ngân sách Nhà nước, Luật
Đầu tư, Luật Xây dựng, Luật Đấu thầu...
Các hoạt động đầu tư từ nguồn vốn Nhà nước không nhằm mục đích kinh doanh được
điều chỉnh bằng các Nghị quyết của Quốc hội, các văn bản hướng dẫn thi hành hoặc các
Nghị định của Chính phủ:
_ Nghị định số 52/1999/NĐ-CP ngày 8/7/1999 của Chính phủ về Quy chế quản
lý đầu tư và xây dựng, các nghị định sửa đổi, bổ sung Quy chế nói trên gồm: Nghị định
số 12/2000/NĐ-CP ngày 5/5/2000; Nghị định số 07/2003/NĐ-CP ngày 30/1/2003;
_ Nghị định số 16/2005/NĐ-CP ngày 7/3/2005 về Quy chế quản lý đầu tư xây
dựng công trình; Nghị định số 112/2006/NĐ-CP ngày 29/9/2006 của Chính phủ sửa đổi,
bổ sung một số điều của Nghị định số 16/2005/NĐ-CP..
_ Nghị định số 131/2006/NĐ-CP ngày 09/11/2006 của Chính phủ về Quy chế
quản lý sử dụng nguồn vốn ODA.
Như vậy, để duy trì và đảm bảo hiệu quả kinh tế, tạo điều kiện thuân lợi cho việc tra cứu
và thi hành, các qui định pháp lí cho hoạt động này cần được qui định chặt chẽ, thống
nhất trong một đạo luật nhằm phát huy hiệu quả tối ưu.
 Luật Đầu tư công được ban hành là công cụ pháp lí quan trọng, sẽ tạo

ra một cơ chế quản lí mới, phân công, phân cấp trách nhiệm của các
chủ thể tham gia hoạt động đầu tư công:
Vì chưa có những qui định rõ ràng, chưa có những chế tài nghiêm khắc nên tình trạng
phê duyệt dự án diễn ra quá dễ dàng, không đánh giá đúng năng lực của chủ đầu tư. Các
qui định hiện hành về thủ tục đều mang tính hình thức, thực hiện đúng trình tự, thủ tục,
nhưng thực chất là “vừa đá bóng, vừa thổi còi” – cơ quan quyết đinh cấp vốn chính là cơ
quan cấp trên của chủ đầu tư, vừa là cơ quan kiểm tra, đánh giá việc thực hiện.
Do đó để đảm bảo tính minh bạch, phân công rõ ràng trong đầu tư công, việc ban hành
một đạo luật với các qui định và chế tài chặt chẽ là rất cần thiết.

Luật đầu tư công
Page 9


 Luật Đầu tư công được ban hành cũng góp phần tích cực vào việc chống
tham nhũng, thất thoát, lãng phí trong đầu tư công:
Nguồn vốn Nhà nước rất lớn nhưng việc sử dụng nguồn vốn này lại chưa được hiệu quả,
dẫn đến gây thất thoát, nhất là trong lĩnh vực đầu tư các công trình công cộng; vẫn còn
những tập đoàn, tổng công ty Nhà nước sử dụng vốn đầu tư kinh doanh ra ngoài ngành
trong khi các dự án đầu tư nội ngành thì thiếu vốn.
Việc Luật Đầu tư công được xây dựng sẽ nhằm mục đích quản lí việc sử dụng nguồn vốn
lớn và quan trọng này; hạn chế tình trạng đầu tư dàn trải, phân tán, dẫn đến hiệu quả thấp,
lãng phí; đồng thời hướng dẫn xác định những chủ thể có liên quan nếu có xảy ra sai
phạm.
 Góp phần lành mạnh hóa môi trường đầu tư, hài hòa các thủ tục trong
quan hệ hợp tác đầu tư, các dự án Đầu tư công có sử dụng nguồn vốn
ODA, đẩy mạnh thu hút đầu tư từ các nguồn vốn khác.
Luật Đầu tư năm 2005 qui định về việc quản lí hoạt động đầu tư nhằm mục đích kinh
doanh, quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư; việc đảm bảo quyền, lợi ích hợp pháp của nhà
đầu tư và việc khuyến khích ưu đãi đầu tư đối với hoạt động đầu tư nhằm mục đích kinh

doanh tại Việt Nam bao gồm cả hoạt động đầu tư sử dụng vốn Nhà nước cho mục đích
kinh doanh . Tuy nhiên Luật Đầu tư chưa điều chỉnh việc sử dụng ngân sách Nhà nước và
các nguồn vốn khác của Nhà nước đầu tư vào các dự án không nhằm mục đích kinh
doanh (đầu tư công). Như vậy, hiện nay chưa có Luật điều chỉnh các hoạt động đầu tư
công, thiếu cơ sở pháp luật đủ hiệu lực để quản lí việc sử dụng nguồn vốn quan trọng này.
Vì vậy, việc ban hành Luật Đầu tư công sẽ bổ sung những nội dung còn thiếu sót, vướng
mắc sao cho phù hợp với hệ thống pháp luật hiện hành, góp phần hoàn chỉnh hệ thống
pháp luật về đầu tư trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
3) Mặt hạn chế:
Dự án Luật Đầu tư công đã hai lần được đưa vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh
của Quốc hội vào năm 2007 và 2009, nhưng đều bị trì hoãn. Bộ Kế hoạch và Đầu tư là cơ
quan được phân công soạn thảo dự án luật này chưa đưa ra đủ lập luận khoa học và cơ sở
thực tiễn để chứng minh sự cần thiết của dự án luật.

Luật đầu tư công
Page 10


 Phạm vi, mục tiêu, đối tượng của Luật Đầu tư công chưa được làm rõ:
Phạm vi điều chỉnh của Luật là những dự án do Nhà nước đầu tư và hỗ trợ đầu tư nhưng
không có mục đích kinh doanh.
Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính – Ngân sách Phùng Quốc Hiển cho rằng cần phải bàn kỹ
thêm, vì nếu chỉ nói đến đầu tư công theo khái niệm như trên thì rất hẹp. “Cần phải tính
đến đầu tư vốn của Nhà nước ở các doanh nghiệp như thế nào, thậm chí là cả đầu tư vào
các lĩnh vực khác của các doanh nghiệp mà Nhà nước đang giữ cổ phần chi phối”, ông
Hiển nói.
Trên thực tế, các dự án phần lớn đều có nguồn vốn hỗn hợp, trong mục tiêu đầu tư công
còn có cả kinh phí sự nghiệp nên phạm vi điều chỉnh mà dự thảo đưa ra vẫn chưa thể hiện
tính toàn diện.
 Qui định đầu tư công không nhằm vào mục đích kinh doanh là không

thực tế:
Khái niệm trên đã vô tình đặt những hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước ngoài tầm
ảnh hưởng của Luật. Điều này sẽ làm tăng những sai phạm và thất thoát vốn Nhà nước từ
các doanh nghiệp. Dự thảo phải tính đến việc đầu tư vốn của Nhà nước ở các doanh
nghiệp này. Thực tế, thời gian qua đã có nhiều doanh nghiệp đầu tư vốn Nhà nước trái
ngành nghề, không hiệu quả.
 Qui định kiểm tra và giám sát các tập đoàn kinh tế nhà nước trong d ự
thảo Luật đầu tư công vẫn chưa được rõ:
Các qui định liên quan đến đầu tư công, quản lí nợ, tài sản công, sử dụng nguồn lực Nhà
nước vào các doanh nghiệp chưa được qui định chặt chẽ và nhất quán.
Dự thảo Luật Đầu tư công vẫn chưa qui định cụ thể chế tài đối với loại hành vi thuộc
năng lực quản trị, điều hành, việc sử dụng vốn, huy động nguồn vốn. Trong khi đó Nhà
nước, với vai trò chủ sở hữu nguồn vốn trong doanh nghiệp Nhà nước lại chưa thể quản lí
được các doanh nghiệp Nhà nước. Mặt khác, việc kiểm tra giám sát nặng về hành chính
thông qua cơ chế quản lí trao quyền cho người giám sát, quản lí nguồn vốn không sâu sát
với hoạt động doanh nghiệp chính là điều bất cập.
 Luật đầu tư công ra đời sẽ kéo theo nhiều vướng mắc:
Luật Đầu tư công được ban hành sẽ hình thành thêm một hệ thống luật bao gồm Luật và
các văn bản hướng dẫn đi kèm, bên cạnh đó sẽ phải có thêm công tác công bố, quảng bá,
Luật đầu tư công
Page 11


cập nhật, hướng dẫn của các cơ quan quản lí Nhà nước đến các doanh nghiệp và người
dân.
Ngoài ra, sẽ hao tốn ngân sách Nhà nước cho việc chi trả các chi phí trong quá trình soạn
thảo văn bản, ban hành và hướng dẫn thi hành các văn bản Luật.
Mặt khác, vì các qui định về đầu tư công cũng được qui định trong các văn bản Luật khác
như: Luật Đầu tư, Luật Đấu thầu, Luật xây dựng… do đó, chúng có sự phân tán, mâu
thuẫn lẫn nhau. Nếu ban soạn thảo rút tất cả các qui định liên quan trong các Luật này để

lập thành một đạo luật riêng biệt như vậy, nó sẽ phá vỡ tính thống nhất của các luật. Hơn
nữa, ban soạn thảo sẽ qui định những gì mới, khác biệt ở trong Luật mới này?
4) Liên hệ với nước ngoài:
Qua nghiên cứu, khảo sát tại Trung Quốc, Pháp, Anh và Mĩ cho thấy:
_ Các nước đều có những qui định khác nhau về quản lí sử dụng vốn Nhà nước cho các
mục đích đầu tư công. Tùy theo hoản cảnh, điều kiện và từng giai đoạn phát triển mà mỗi
nước có các qui định khác nhau về đầu tư công cả về tên gọi, phạm vi và nội dung của
các văn bản pháp luật: public investment law hoặc peacock investment law tại Anh, Mĩ;
la loi d’ invertissement public tại Pháp.
_ Trong quá trình phát triển, các nước đều không ngừng thực hiện nghiên cứu hoàn thiện
cơ sở luật pháp, chính sách về sử dụng vốn nhà nước đáp ứng yêu cầu quản lí sử dụng
vốn có hiệu quả phù hợp với hoàn cảnh trong từng giai đoạn phát triển. Tuy nhiên, sự
xuất hiện của văn bản luật qui định về Luật Đầu tư công chưa có. Các qui định về Đầu tư
công chỉ dừng lại ở mức các văn bản dưới luật hoặc được qui định xen kẽ, kèm theo trong
những Luật có liên quan.
5) Một số đề xuất và hướng giải quyết:
_ Qui định chặt chẽ về đối tượng và điều kiện của các đối tượng này khi được sử dụng và
được hưởng nguồn vốn cấp từ Nhà nước.
_ Trên thực tế, nếu buộc các doanh nghiệp đầu tư công mà không nhằm vào mục đích
kinh doanh là khó khăn, do đó, có nhiều doanh nghiệp tuy đầu tư công nhưng vẫn lấn sân
sang nhiều lĩnh vực kinh doanh khác, do đó, luật ban hành cần qui định các chế tài đủ
mạnh để hạn chế hiện tượng này, vì nếu hiện tượng này vẫn duy trì thì việc thất thoát
nguồn vốn của Nhà nước là khó tránh khỏi.

Luật đầu tư công
Page 12


_ Vì dự thảo Luật Đầu tư công chưa qui định chế tài đối với hành vi thuộc năng lực quản
trị, điều hành, sử dụng vốn, huy động nguồn vốn, Trong khi đó, Nhà nước, với vai trò chủ

sở hữu nguồn vốn trong doanh nghiệp nhà nước chưa thể giám sát được các doanh nghiệp
nhà nước. Do đó, bãi bỏ bao cấp, đặc quyền về vốn, đất đai dành cho các doanh nghiệp
nhà nước cũng là cách tốt để nâng cao hiệu quả việc đầu tư công. Nhà nước nên để cho
doanh nghiệp nhà nước hoạt động theo luật và trả lại quyền tự chủ cho doanh nghiệp.
_ Song song với việc hoàn thiện dự thảo Luật Đầu tư công, nhà nước cần rà soát, đánh
giá lại tất cả các dự án đang thực hiện, phân loại dự án theo thứ tự ưu tiên thực hiện, rút
kinh nghiệm từ những khiếm khuyết trong dự án cũng là cách hiệu quả để điều chỉnh dự
luát Đầu tư công gần với thực tế hơn.

IV.

Kết luận:

Việc xây dựng và ban hành Luật Đầu tư công là cần thiết và cần thực hiện sớm để đáp
ứng kịp thời nhu cầu của xã hội trong việc quản lí đầu tư công. Đảm bảo ổn định trật tự
trong việc quản lí và sử dụng nguồn vốn Nhà nước. Ngăn chặn kịp thời các sai phạm
trong việc sử dụng nguồn vốn này.
Ngoài ra, với việc các quốc gia tiến bộ trên thế giới đều không xây dựng và ban hành
Luật Đầu tư công, vậy liệu việc Việt Nam ban hành Luật Đầu tư công lúc này có hợp lí
hay không. Thiết nghĩ, việc các nước không ban hành Luật Đầu tư công là do đặc thù của
hệ thống pháp luật của họ, vấn đề về kinh tế - tài chính quốc gia cũng như đầu tư của hộ
đã rất phát triển; Nhà nước không đi sâu sát vào quản lí đầu tư như Nhà nước Việt Nam.
Mặt khác, chúng ta có Bộ Kế hoạch và đầu tư và Bộ này cùng với một số Bộ, ngành liên
quan khác đảm nhiệm việc soạn thảo, xây dựng Luật Đầu tư, do đó, Luật Đầu tư cần
được ban hành để có được sự tập trung thống nhất trong công tác quản lí đầu tư công
cũng như thuận tiên cho việc tra cứu luật; hạn chế sự mâu thuẫn, chồng chéo nếu qui định
cùng một chế định luật trong quá nhiều văn bản luật.
Tuy nhiên, việc ban hành một đạo luật mới là một việc khá khó khăn và có rất nhiều
vướng mắc. Các nhà làm luật cần thận trọng khắc phục những hạn chế trên để đạo luật
mới này được hoàn chỉnh hơn và hạn chế hơn những sai sót.


Luật đầu tư công
Page 13


Luật đầu tư công
Page 14


Luật đầu tư công
Page 15



×