Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

LUẬN VĂN HỢP ĐỒNG ỦY QUYỀN CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (290.63 KB, 39 trang )

Luận văn tốt nghiệp

Hợp đồng ủy quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất

LỜI MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài.
Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mỗi cá nhân hay
tổ chức đều tham gia vào nhiều quan hệ xã hội phong phú và rất đa dạng vì thế
hợp đồng ủy quyền đang dần trở thành là một trong những hợp đồng thông dụng
trong giao dịch dân sự. Bởi lẽ do nhu cầu công việc, thời gian, kỹ năng chuyên
môn mà các chủ thể không tự mình thực hiện các giao dịch dân sự nên phải nhờ
người khác đại diện, nhân danh mình thực hiện. Thực tế cho thấy trong đời sống
dân sự hiện nay đã xuất hiện nhiều hình thức dịch vụ đại diện theo ủy quyền.
Những người thực hiện dịch vụ này không còn gói gọn trong nhóm các luật sư
được đào tạo nhiệp vụ một cách quy cũ mà đó có thể chỉ là một người có am
hiểu về một lĩnh vực nhất định,...điều này nói lên sự phát triển tất yếu trong
tương lai gần, tính phổ biến và thông dụng của một giao dịch dân sự gọi là ủy
quyền để thực hiện giao dịch này các chủ thể giao kết hợp đồng ủy quyền.
Trong giao dịch ủy quyền phổ biến nhất hiện nay cần phải đề cập đến việc
“Hợp đồng ủy quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất”. Thực tế, công việc
được ủy quyền trong chuyển nhượng quyền sử dụng đất là một công việc đòi hỏi
người được ủy quyền phải thực hiện đúng giao kết hợp đồng ủy quyền với công
việc, nội dung ủy quyền và quyết định các vấn đề có liên quan đến chuyển
nhượng quyền sử dụng đất. Từ đó, hợp đồng này càng trở nên phổ biến, nhưng
cũng đa dạng, phức tạp và bộc lộ ra những rủi ro pháp lý.
Pháp luật hiện hành quy định về hợp đồng ủy quyền nói chung và hợp
đồng ủy quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất nói riêng vẫn còn hạn chế. Do
chưa kịp thời bắt nhịp với sự phát triển của loại hợp đồng này, Pháp luật Việt
Nam hiện hành cho thấy nhiều kẽ hở trong việc điều chỉnh các quan hệ phát sinh
ở hợp đồng ủy quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất.


Từ thực tế tại địa phương, qua quá trình tìm hiểu của bản thân, bản thân
đúc kết được những rủi ro pháp lý nói chung của hợp đồng ủy quyền chuyển
nhượng quyền sử dụng đất, cũng như vướng mắc trong việc điều chỉnh loại hợp
đồng này của pháp luật Việt Nam hiện hành. Từ đó, người viết chọn đề tài “Hợp
đồng ủy quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất” để hoàn thành luận văn tốt
nghiệp Cử nhân Luật.
2. Mục tiêu nghiên cứu.
Trên nền tảng quy định của Pháp luật về hợp đồng ủy quyền nói chung và
hợp đồng ủy quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất nói riêng, bản thân
nghiên cứu đề tài chỉ ra những vướng mắc thực tế khi áp dụng pháp luật để ủy
GVHD:

Trang 1

SVTH: ……………..


Luận văn tốt nghiệp

Hợp đồng ủy quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất

quyền cho người khác chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Từ đó, người viết đưa
ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật.
3. Phạm vi nghiên cứu:
Hợp đồng ủy quyền là một trong những hợp đồng dân sự thông dụng được
hình thành rất sớm và có vai trò ý nghĩa quan trọng trong nhiều lĩnh vực của đời
sống xã hội như dân sự, hành chính, tố tụng, kinh tế...Trong khuôn khổ luận văn,
người viết không đi sâu nghiên cứu một cách đầy đủ, trọn vẹn những quy định
của pháp luật Việt Nam về hợp đồng ủy quyền mà đề tài chỉ tập trung nghiên
cứu những quy định pháp luật về hợp đồng ủy quyền chuyển nhượng quyền sử

dụng đất cũng như liên quan về hình thức, nội dung và thời gian trong Bộ luật
dân sự năm 2015, Luật Đất đai năm 2013, Luật Công chứng năm 2014, Nghị
định 23/2015/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn có liên quan. Do đó, người viết
xin giới hạn đề tài nghiên cứu của mình chỉ đề cập và phân tích về hợp đồng ủy
quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Người viết vận dụng các phương pháp nghiên cứu: trên sách vở, tài liệu,
phương pháp phân tích luật viết, phương pháp so sánh, phương pháp tiếp cận
thực tế, tổng hợp thông tin qua các bài viết, các công trình nghiên cứu có giá trị
và tạp chí chuyên ngành để làm sáng tỏ về hình thức, nội dung, thời gian của
hợp đồng ủy quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
5. Bố cục đề tài:
Người viết đã trình bày bố cục của luận văn gồm: Lời mở đầu, nội dung,
phần kết luận. Trong đó phần nội dung được trình bày gồm ba chương:
Chương 1. Khái quát chung về hợp đồng ủy quyền chuyển nhượng quyền
sử dụng đất.
Chương 2. Cơ sở pháp lý về hợp đồng ủy quyền chuyển nhượng quyền sử
dụng đất.
Chương 3. Thực trạng về hợp đồng uỷ quyền chuyển nhượng quyền sử
dụng đất và đề xuất hướng hoàn thiện pháp luật.

GVHD:

Trang 2

SVTH: ……………..


Luận văn tốt nghiệp


Hợp đồng ủy quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ HỢP ĐỒNG ỦY QUYỀN
CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT
1.1. Các Khái niệm có liên quan
1.1.1. Khái niệm Hợp đồng ủy quyền
Hiện nay với tình hình đất nước hiện đại thì vấn đề hợp đồng đã trở nên
khá phổ biến đối với mỗi cá nhân hay pháp nhân. Tuy nhiên khá phổ biến nhưng
không phải bao giờ cá nhân hay pháp nhân cũng có thể trực tiếp tham gia vào
quan hệ hợp đồng. Việc không thể tham gia trực tiếp có thể có nhiều lý do khác
nhau hoặc khi tham gia vào một giao dịch dân sự nhưng không đủ điều kiện để
thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình. Vì vậy, pháp luật cho phép họ ủy quyền
cho người thứ ba thay mặt mình thực hiện giao dịch dân sự, sự cho phép đó
được thể hiện ở hợp đồng ủy quyền. Hợp đồng ủy quyền có ý nghĩa quan trọng
và mang tính chất thực tiễn cao nên đã được quy định từ rất lâu, cụ thể là hợp
đồng ủy quyền đã được định nghĩa trong luật la mã là “Hợp đồng ủy quyền là sự
thỏa thuận theo đó một người (gọi là người ủy quyền) giao cho một người khác
(gọi là người được ủy quyền) trách nhiệm thực hiện công việc vì lợi ích của
người ủy quyền công việc có thể mang tính chất tổng quát hay cụ thể” 1 Nước ta
cũng đã có những quy định rất cụ thể về hợp đồng ủy quyền trong các Bộ Luật
dân sự từ trước đến nay cụ thể là hợp đồng ủy quyền được quy định trong Bộ
Luật dân sự năm 1995, Bộ Luật dân sự năm 2005 và được quy định tại Mục 13,
Chương XVI, từ Điều 562 đến Điều 569 Bộ Luật dân sự năm 2015 quy định chi
tiết về hợp đồng ủy quyền.
Từ những định nghĩa của Luật La mã cũng như Bộ Luật dân sự năm 1995,
Bộ Luật dân sự 2005 và Bộ Luật dân sự năm 2015 ta có khái niệm về hợp đồng
ủy quyền theo Bộ Luật dân sự năm 2015 có hiệu lực ngày 01 tháng 01 năm 2017
như sau: “Hợp đồng ủy quyền là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên được
ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh bên ủy quyền, bên ủy
quyền chỉ phải trả thù lao nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định” 2 . Từ

khái niệm cho thấy hợp đồng ủy quyền là loại hợp đồng dân sự thỏa thuận giữa
người có quyền (người ủy quyền) và người thực hiện công việc cho người có
quyền (người được ủy quyền). Khái niệm trên cho thấy được cụm từ “ủy quyền”
được hiểu như là một người có quyền nhưng họ lại không thực hiện cái quyền
đó bởi vì một số lý do nào đó, bất khả kháng nên họ trao quyền lại cho một
người khác để giúp họ thực hiện công việc mà đáng lẽ họ phải thực hiện, như ủy
quyền cho một người khác thực hiện giao kết hợp đồng với bên thứ ba.
Hợp đồng ủy quyền được xem như là một hợp đồng thông dụng, quá trình
áp dụng pháp luật trong xã hội, được ví như một phương tiện pháp lý đặc biệt
giúp cho những người có trở ngại không thể tự mình thực hiện công việc của
mình được khi đang ở xa hoặc vướng bận chuyện gia đình không thể tới kịp
hoặc biết công việc đó trước mà cũng không thể sắp xếp được thời gian thì họ có
thể ủy quyền cho người khác thưc hiện công việc đó thay mình thông qua hợp
đồng ủy quyền.

GVHD:

Trang 3

SVTH: ……………..


Luận văn tốt nghiệp

Hợp đồng ủy quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất

Ví dụ: Bà Lê Kim Lệ có thửa đất ở ấp Mỹ An, xã Mỹ Phong, Thành phố
Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang và bà có nhu cầu bán. Tuy nhiên Bà Lệ không rành về
thủ tục chuyển nhượng nên bà Lệ đã ủy quyền cho cháu là ông Võ Thành Phú
thực hiện thủ tục chuyển nhượng quyền sử dụng đất thay cho bà.

Hợp đồng ủy quyền có sự tham gia quan hệ thỏa thuận của hai bên là người
ủy quyền và người được ủy quyền là điều đầu tiên trong hợp đồng ủy quyền thì
người được ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc của người ủy quyền và
người ủy quyền phải trả hoặc không trả thù lao là do thỏa thuận hai bên trong hợp
đồng, nguyên tắc thỏa thuận được quy định tại Bộ Luật dân sự năm 2015 và một
khi có thỏa thuận của hai bên trong hợp đồng thì sự thỏa thuận đó sẽ được pháp
luật tôn trọng, do quy định như thế sẽ giúp hai bên đảm bảo thực hiện và hoàn
thành tốt những thỏa thuận mà các bên đã giao kết trong hợp đồng ủy quyền.
1.1.2. Khái niệm Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Việc chuyển quyền sử dụng đất được Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định thu
gọn trong một mục gọi là Hợp đồng về chuyển quyền sử dụng đất (trước đây Bộ
luật Dân sự năm 2005 quy định riêng một phần). Sau khi Hiến pháp năm 2013
được ban hành, Luật Đất đai năm 2013 và Bộ luật Dân sự năm 2015 đã được sửa
đổi cho phù hợp với yêu cầu của đạo luật cơ bản. Chuyển nhượng quyền sử dụng
đất liên quan tới nhiều lĩnh vực như giao dịch dân sự, kinh doanh thương mại,
quản lý đất đai và được điều chỉnh bởi nhiều văn bản pháp luật khác nhau (Luật
Đất đai năm 2013, Luật Nhà ở năm …., Luật Thương mại năm…. , Luật Kinh
doanh bất động sản năm 2014.). Vì vậy, vẫn có những quan điểm khác nhau về
bản chất của chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Để khắc phục tình trạng trước
đây có nhiều cách hiểu khác nhau đối với quy định chuyển nhượng quyền sử
dụng đất, Bộ Luật Dân sự năm 2015 đã sửa đổi như sau: Hợp đồng về quyền sử
dụng đất phải được lập thành văn bản theo hình thức phù hợp với quy định của
Bộ luật này, pháp luật về đất đai và quy định khác của pháp luật có liên quan.
Khoản 3 Điều 167 Luật Đất đai năm 2013 cũng có quy định: “Hợp đồng chuyển
nhượng, tặng cho, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, quyền sử dụng đất
và tài sản gắn liền với đất phải được công chứng hoặc chứng thực” và Hợp đồng
chuyển nhượng quyền sử dụng đất được hiểu là sự thỏa thuận giữa các bên, theo
đó bên chuyển nhượng quyền sử dụng đất giao đất và quyền sử dụng cho bên
nhận chuyển nhượng, còn bên nhận chuyển nhượng trả tiền cho bên chuyển
nhượng theo quy định.

Ví dụ: Vào ngày 09/6/2015, Ông Hải có thỏa thuận với ông Trương Tấn
Quới chuyển nhượng phần đất thửa số 3157, tờ bản đồ số 20, diện tích 700 m 2 ,
đất tọa lạc tại ấp 3, xã Thạnh Tân, huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang do ông
Quới đứng tên, với giá 200 triệu đồng và hai bên đã làm hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng đất tại phòng công chứng.
1.1.3. Khái niệm và đặc điểm Hợp đồng ủy quyền để chuyển nhượng quyền
sử dụng đất.
1.1.3.1. Khái niệm Hợp đồng ủy quyền để chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

GVHD:

Trang 4

SVTH: ……………..


Luận văn tốt nghiệp

Hợp đồng ủy quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất

Hợp đồng ủy quyền để chuyển nhượng quyền sử dụng đất là sự thỏa thuận
giữa các bên mà trong đó bên nhận ủy quyền thay mặt, nhân danh bên ủy quyền
thực hiện công việc và quyết định các nội dung trong hợp đồng chuyển nhượng
đối với quyền sử dụng đất của bên ủy quyền.
Ví dụ: Bà Trang ủy quyền cho bà Thủy thay mặt và nhân danh bà Trang
thực hiện công việc chuyển nhượng đối với quyền sử dụng đất của bà Trang và
quyết định các nội dung trong hợp đồng chuyển nhượng.
1.1.3.2. Đặc điểm hợp đồng ủy quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Hợp đồng ủy quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất là một hợp đồng
dân sự, do đó ngoài những đặc điểm chung của hợp đồng dân sự như: đó là sự

thể hiện ý chí của các bên, sự tự do, tự nguyện, bình đẳng của các bên khi giao
kết hợp đồng...trong khi đó hợp đồng ủy quyền có những đặc điểm riêng biệt.
Những đặc điểm riêng biệt của hợp đồng ủy quyền là căn cứ để phân biệt hợp
đồng ủy quyền với những hợp đồng khác được thể hiện ở những nội dung sau:
* Hợp đồng ủy quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất là hợp đồng trọng thức
Hợp đồng dân sự là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi và
chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự. Hợp đồng ủy quyền chuyển nhượng quyền
sử dụng đất là một trong những hợp đồng dân sự thông dụng. Do đó, sự tự
nguyện, bình đẳng là điều kiện bắt buộc trong giao kết hợp đồng, sự tự nguyện
của các bên là điều kiện có hiệu lực của hợp đồng ủy quyền. Xét về thời điểm
phát sinh hiệu lực của hợp đồng thì hợp đồng ủy quyền chuyển nhượng quyền
sử dụng đất là hợp đồng trọng thức vì quyền và nghĩa vụ của các bên chỉ phát
sinh ngay sau khi công chứng hoặc chứng thực. Bên ủy quyền có trách nhiệm
đáp ứng mọi điều kiện để bên được ủy quyền thực hiện công việc và bên được
ủy quyền chỉ được thực hiện trong phạm vi ủy quyền. Vì vậy bên ủy quyền có
trách nhiệm cung cấp các thông tin, tài liệu cần thiết cho bên được ủy quyền
thực hiện công việc được giao còn bên được ủy quyền có trách nhiệm tiến hành
thực hiện công việc như đã cam kết.
Ví dụ: Ông Hạnh ủy quyền cho bà Ba bán đất có diện tích 200m 2 đất thổ cư
tại khu 1, thị trấn Mỹ Phước, huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang. Cả hai làm hợp
đồng ủy quyền (trong đó: nội dung ủy quyền ghi rõ phạm vi ủy quyền, thời hạn,
thù lao, cụ thể: Ông Hạnh ủy quyền cho bà Ba được ký hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng, thời hạn 01 năm, với thù lao 20 triệu đồng), lập thành
văn bản và phải được công chứng hoặc chứng thực thì khi đó hợp đồng mới phát
sinh hiệu lực.
1.1.4.2. Hợp đồng ủy quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất là hợp đồng
song vụ.
Hợp đồng song vụ là hợp đồng mà các bên trong hợp đồng đều có nghĩa
vụ. Nói cách khác, mỗi bên chủ thể của hợp đồng song vụ vừa là người có quyền
vừa là người có nghĩa vụ. Trong mối quan hệ giữa các bên trong hợp đồng song

vụ thì quyền của bên này tương ứng với nghĩa vụ của bên kia. Hợp đồng ủy
quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất cũng là hợp đồng song vụ, nên quyền
GVHD:

Trang 5

SVTH: ……………..


Luận văn tốt nghiệp

Hợp đồng ủy quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất

của bên ủy quyền sẽ tương ứng với nghĩa vụ của bên được ủy quyền đây là vấn
đề cơ bản quyết định đến nội dung của hợp đồng ủy quyền; Bên ủy quyền có
quyền yêu cầu bên được ủy quyền thực hiện công việc ủy quyền một cách
nghiêm túc, trung thực, đúng thời hạn; Bên được ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện
công việc theo đúng yêu cầu của bên ủy quyền. Bên được ủy quyền có quyền
yêu cầu bên ủy quyền cung cấp toàn bộ hồ sơ, tài liệu để bên được ủy quyền
thực hiện công việc. Trong trường hợp hợp đồng ủy quyền có điều kiện về tiền
thù lao thì bên ủy quyền có nghĩa vụ trả tiền thù lao và bên được ủy quyền có
quyền nhận tiền thù lao như đã thỏa thuận.
Ví dụ: Ông Hạnh ủy quyền cho bà Ba quản lý nhà trọ của mình đang cho
thuê và hàng tháng trả cho bà Ba 4.000.000 đồng. Ta thấy bà Bà có nghĩa vụ
quản lý căn nhà cho ông Hạnh và có quyền nhận tiền công hàng, còn ông Hạnh
có nghĩa vụ trả tiền công cho bà Ba và có quyền cho bà Ba thôi quản lý nhà trọ
của mình.
1.1.4.3. Hợp đồng ủy quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất có đối
tượng là công việc.
Công việc ủy quyền là những công việc mang tính pháp lý. Căn cứ vào các

khái niệm hợp đồng ủy quyền được quy định trong Bộ luật dân sự năm 2015,
cho ta thấy hợp đồng ủy quyền luôn tồn tại mối quan hệ cơ bản đó là mối quan
hệ giữa người ủy quyền và người được ủy quyền. Mục đích của việc ủy quyền
đó là trao quyền thực hiện công việc của một người cho người được ủy quyền.
Công việc được ủy quyền là những công việc mà cá nhân được phép thực hiện
một thời gian nhất định, do vậy người được ủy quyền sẽ thay thế người ủy
quyền thực hiện công việc trong khoản thời gian mà người ủy quyền lẽ ra phải
thực hiện. Hành vi của người được ủy quyền là nhân danh người ủy quyền để
thực hiện công việc với người thứ ba khi đó sẽ phát sinh hậu quả pháp lý giữa
người ủy quyền với người thứ ba do vậy công việc ủy quyền thường là những
công việc mang tính pháp lý mà việc thực hiện những công việc này sẽ làm phát
sinh quyền và nghĩa vụ đối với người được ủy quyền.
Ví dụ: Bà Thạnh có một thửa đất với diện tích 20.000m 2 tọa lạc ấp 4, xã
Thạnh Tân, huyện Tân Phước ủy quyền cho ông Tài được phép đại diện ủy
quyền, ký hợp đồng cho thuê đất với một bên thứ ba nào đó. Khi đó ông tài có
thể kiếm người muốn thuê đất để canh tác và ký đồng thuê đất theo đúng qui
định pháp luật.
Do vậy, công việc được ủy quyền thường là những công việc mang tính
pháp lý mà việc thực hiện công việc này sẽ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ đối
với người được ủy quyền.
1.1.4.4. Hợp đồng ủy quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất có tính chất
đại diện; người được ủy quyền thực hiện công việc nhân danh người ủy quyền.
Hợp đồng ủy quyền là sự thỏa thuận giữa các bên theo đó bên được ủy
quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh bên ủy quyền, bên ủy quyền
chỉ phải trả thù lao nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định. Qua định
GVHD:

Trang 6

SVTH: ……………..



Luận văn tốt nghiệp

Hợp đồng ủy quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất

nghĩa trên cho thấy hợp đồng ủy quyền vì lợi ích của người ủy quyền và người
được ủy quyền khi thực hiện công việc của người ủy quyền. Người được ủy
quyền thực hiện công việc vì lợi ích của người ủy quyền do vậy người ủy quyền
không thể là người trung gian trong hợp đồng ủy quyền. Ngày nay việc thực
hiện công việc do ủy quyền đã trở thành một nghề có tính chất chuyên nghiệp.
Do đó, không loại trừ khả năng người được ủy quyền vì lợi ích của chính mình
chứ không hẳn vì người ủy quyền. Như vậy hợp đồng ủy quyền có thể vì lợi ích
của người ủy quyền hoặc vì lợi ích của người được ủy quyền.
Ví dụ: Bà Trang ủy quyền cho bà Thủy thay mặt và nhân danh bà Trang
thực hiện công việc chuyển nhượng đối với quyền sử dụng đất của bà Trang và
quyết định các nội dung trong hợp đồng chuyển nhượng.
Hơn nữa, người được ủy quyền khi nhân danh người ủy quyền thực hiện
công việc phải vì lợi ích của người ủy quyền chứ không nhắm đến lợi ích của
mình. Nếu lợi ích đó chỉ gắn với kết quả công việc thì ta vẫn có một hợp đồng
ủy quyền, nhưng nếu lợi ích đó đồng thời cũng là một phần của kết quả công
việc thì ta có hợp đồng khác chứ không phải hợp đồng ủy quyền.
1.2. Phân loại hợp đồng ủy quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Hợp đồng là căn cứ chủ yếu để làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự. Do
đó sự đa dạng về nội dung, phạm vi ủy quyền của hợp đồng mà hợp đồng có thể
được phân thành từng nhóm khác nhau dựa trên những căn cứ, dấu hiệu đặc
trưng, cụ thể như sau:
1.2.1.Dựa vào thù lao thỏa thuận giữa các bên:
+ Ủy quyền có thù lao đây là sự thỏa thuận của hai bên (bên ủy quyền và
bên nhận ủy quyên) khi giao kết hợp đồng trong đó bên được ủy quyền có nghĩa

vụ thực hiện công việc của bên ủy quyền giao cho để đổi lại sau khi hoàn thành
công việc đó họ sẽ được hưởng lợi ích từ bên ủy quyền đó là tiền thù lao đúng
như thỏa thuận trong hợp đồng đã ký kết ban đầu.
+ Ủy quyền không có thù lao đây cũng là sự thỏa thuận của hai bên (người ủy
quyền và người được ủy quyền) khi giao kết hợp đồng trong đó bên được ủy quyền
có nghĩa vụ thực hiện công việc mà bên ủy quyền giao cho nhưng sau khi hoàn
thành công việc thì hợp đồng sẽ tự động chấm dứt và người được ủy quyền sẽ
không nhận được bất kỳ khoản tiền công thù lao nào do đã có thỏa thuận ban đầu.
1.2.2. Dựa vào thời gian của hợp đồng ủy quyền:
+ Hợp đồng ủy quyền có thời hạn: là hợp đồng ủy quyền có nêu rõ thời gian
để người được ủy quyền hoàn thành công việc được ủy quyền trong hợp đồng.
Thời hạn của hợp đồng ủy quyền có thể là tính bằng tháng hoặc bằng năm tùy
thuộc vào sự thỏa thuận của các bên trong hợp đồng.
Ví dụ: Bà Nguyễn Huỳnh Thu Trang ủy quyền cho bà Nguyễn Thị Thu
Thủy thay mặt và nhân danh bà Trang thực hiện công việc chuyển nhượng đối
với quyền sử dụng đất của bà Trang và quyết định các nội dung trong hợp đồng
chuyển nhượng với thời hạn thực hiện 01 năm
GVHD:

Trang 7

SVTH: ……………..


Luận văn tốt nghiệp

Hợp đồng ủy quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất

+ Hợp đồng ủy quyền không thời hạn là hợp đồng ủy quyền không có ghi rõ
thời gian hoặc không thể xác định được chính xác thời gian để người được ủy

quyền hoàn thành công việc được ủy quyền trong hợp đồng.
Ví dụ: Anh Hai ủy quyền cho chị Xuân bán giúp mình thửa đất tại khu 1, thị
trấn Mỹ Phước huyện Tân Phước. Từ việc ủy quyền nêu trên, không có thỏa thuận
về thời gian và pháp luật không quy định thì hợp đồng ủy quyền có hiệu lực trong
01 năm
1.3. Sơ lược về sự phát triển của hợp đồng ủy quyền để chuyển nhượng
quyền sử dụng đất trong pháp luật Việt Nam từ năm 1986 đến nay.
1.3.1. Hợp đồng ủy quyền.
1.3.1.1. Giai đoạn từ năm 1991 đến năm 1995.
Đại hội Đảng lần thứ VI năm 1986 đã định hướng đổi mới nền kinh tế, từ
nền kinh tế tập trung, quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định
hướng xã hội chủ nghĩa. Do có bước chuyển mới quan trọng nên trong xã hội
cũng có nhiều quan hệ phát sinh, đòi hỏi pháp luật cần có những quy định mới
để kịp thời điều chỉnh đặc biệt là trong lĩnh vực hợp đồng.
Trước tình hình đó, Nhà nước ta đã ban hành pháp lệnh hợp đồng dân sự
năm 1991 để tạo hành lang pháp lý cho các quan hệ dân sự trong điều kiện phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp,
đề cao trách nhiệm của các bên tham gia hợp đồng, góp phần đẩy mạnh sản xuất
kinh doanh lưu thông hàng hóa. Pháp lệnh hợp đồng dân sự năm 1991 đã dành
một điều luật để quy định giao kết hợp đồng thông qua người đại diện, cụ thể là
đại diện theo ủy quyền, quy định cụ thể: “Người được ủy quyền chỉ được giao
kết hợp đồng dân sự trong phạm vi ủy quyền mà người ủy quyền và người được
ủy quyền đã thỏa thuận. Việc ủy quyền phải được thông báo cho bên cùng giao
kết hợp đồng; Người được ủy quyền chỉ được ủy quyền lại cho người khác, nếu
có sự đồng ý của người ủy quyền; Việc ủy quyền, ủy quyền lại phải được lập
thành văn bản hoặc phải có chứng thực của cơ quan công chứng nhà nước, nếu
pháp luật quy định là hợp đồng mà người được ủy quyền giao kết phải được lập
thành văn bản hoặc phải có chứng thực; Ủy quyền chấm dứt khi người được ủy
quyền hoàn thành công việc được ủy quyền, hết hạn ủy quyền hoặc người được
ủy quyền rút việc ủy quyền. Tuy nhiên, pháp lệnh Hợp đồng dân sự năm 1991

còn hạn chế là chưa quy định chi tiết về việc xác lập, thực hiện cũng như chấm
đứt hợp đồng ủy quyền.
1.3.1.2. Giai đoạn từ năm 1995 đến năm 2005.
Để khắc phục hạn chế của pháp lệnh hợp đồng dân sự năm 1991, ngày
28/10/1995 tại kỳ hợp thứ 8 Quốc hội khóa IX nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đã thông qua Bộ luật dân sự năm 1995 (có hiệu lực ngày 01/7/1996).
Có thể nói đây là Bộ Luật dân sự mang tính pháp lý điển hóa cao, tập trung
hầu hết các quy định của Nhà nước trong lĩnh vực dân sự, đặc biệt là về lĩnh vực
hợp đồng. Bộ Luật dân sự năm 1995 đã quy định cụ thể từng loại hợp đồng cụ
GVHD:

Trang 8

SVTH: ……………..


Luận văn tốt nghiệp

Hợp đồng ủy quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất

thể trong đó có hợp đồng ủy quyền. Có mười điều luật quy định chi tiết về hợp
đồng ủy quyền trong Bộ luật dân sự năm 1995 (Từ điều 585 đế điều 594). Việc
quy định rõ ràng từ xác lập hợp đồng ủy quyền, quyền và nghĩa vụ của bên ủy
quyền và bên được ủy quyền đến chấm dứt hợp đồng ủy quyền là kịp thời trong
bối cảnh đời sống giao lưu dân sự diễn ra ngày càng phổ biến và đa dạng.
1.3.1.3. Giai đoạn từ năm 2005 đến năm 2015.
Sau mười năm áp dụng, Bộ Luật dân sự 1995 đã xây dựng nền móng trong
việc tạo lập một hành lang pháp lý bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân
dân mặc dù còn những điểm chưa phù hợp, đòi hỏi những quy định pháp luật
phải đổi mới cho phù hợp. Chính vì lẽ đó, ngày 14/6/2005 tại kỳ họp lần thứ 7

Quốc hội khóa XI đã thông qua Bộ luật dân sự năm 2005 (có hiệu lực ngày
01/01/2006) nhằm đáp ứng nhu cầu nói trên.
Chín điều luật về hợp đồng ủy quyền trong Bộ Luật dân sự 2005 (từ Điều 581
đến điều 589) trên cơ sở kế thừa, bổ sung những quy định về hợp đồng ủy quyền
trong Bộ Luật dân sự năm 1995 về nội dung cơ bản nhưng cũng có những bước tiến
bộ, hoàn thiện hơn so với Bộ Luật dân sự năm 1995 cụ thể là đối với Bộ Luật dân sự
năm 2005 thì đã bỏ đi quy định về hình thức của hợp đồng ủy quyền mà Bộ luật dân
sự năm 1995 đã có quy định, chắc có lẽ vì nếu quy định về hình thức hợp đồng ủy
quyền như thế mất nhiều thời gian khi xác lập vì thế mà Bộ luật dân sự năm 2005 đã
bỏ quy định đó để các bên tự thỏa thuận về hình thức của hợp đồng ủy quyền, trừ
những trường hợp mà pháp luật quy định phải lập thành văn bản thì phải tuân theo.
Ngoài ra Bộ Luật dân sự năm 2005 còn được mở rộng và áp dụng chung cho các loại
hợp đồng không có phân biệt hợp đồng dân sự, hợp đồng kinh tế, hợp đồng thương
mại như trong Bộ luật dân sự năm 1995 nữa. Mặc khác thì theo quy định tại Điều
588 Bộ Luật dân sự năm 2005 về đơn phương chấm dứt hợp đồng ủy quyền như thế
nào làm cho các bên trong hợp đồng ủy quyền chấm dứt quan hệ uỷ quyền chũng
như quyền lợi của các bên với nhau, còn với Bộ Luật dân sự năm 1995 quy định
chưa dứt khoát, cụ thể là tại Điều 593 về đơn phương đình chỉ hợp đồng ủy quyền, từ
đó thấy nếu hết thời hạn đình chỉ hợp đồng ủy quyền thì các bên có thể tiếp tục thực
hiện hợp đồng chức không chấm dứt hoàn toàn như quy định trong Bộ Luật dân sự
2005. Hợp đồng ủy quyền nằm trong Bộ luật dân sự năm 2005 được quy định tại
Chương XVIII về hợp đồng dân sự thông sự thông dụng tại Mục 12, gồm 9 Điều
quy định chi tiết từ Điều 581 đến điều 589. Tuy vẫn chưa được hoàn thiện nhưng Bộ
Luật dân sự năm 2005 đã thể hiện nguyên tắc tôn trọng sự thỏa thuận và tự chịu trách
nhiệm trong hợp đồng từ đó giảm bớt sự can thiệp hành chính của Nhà nước trong
quan hệ dân sự. Tuy vậy, Bộ Luật dân sự năm 2005 vẫn còn nhiều thiếu sót và chưa
hoàn thiện ví như Điều 583 quy định về việc ủy quyền lại của hợp đồng ủy quyền
tuy quy định về ủy quyền lại nhưng Điều 583 không quy định rõ là những trường
hợp như thế nào sẽ được ủy quyền lại việc quy định phải có sự đồng ý của người ủy
quyền thì mới được ủy quyền lại cho người thứ ba việc quy định như thế sẽ làm cho

người ủy quyền muốn ủy quyền lại cho người thứ ba lúc nào cũng được. Từ những
mặt hạn chế trên đòi hỏi nhà làm luật phải soạn thảo một Bộ luật mới hoàn thiện
hoàn thiện hơn để đáp ứng nhu cầu xã hội.

GVHD:

Trang 9

SVTH: ……………..


Luận văn tốt nghiệp

Hợp đồng ủy quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất

1.3.1.4.Giai đoạn từ năm 2015 đến nay.
Qua thực tiễn áp dụng, Bộ Luật dân sự năm 2005 đã phát huy vai trò to lớn
trong việc điều chỉnh các quan hệ pháp luật dân sự, góp phần thúc đẩy sự phát
triển kinh tế xã hội hòa nhập với thế giới. Tuy nhiên, trong thời kỳ hội nhập kinh
tế quốc tế đòi hỏi những quy định pháp luật phải theo kịp sự phát triển của xã
hội. Vì thế, tại kỳ họp lần thứ 10 Quốc hội khóa XIII ngày 24/11/2015, đã thông
qua Bộ Luật dân sự năm 2015 nhằm đáp ứng nhu cầu nói trên.
Tám điều luật về hợp đồng ủy quyền trong Bộ Luật dân sự năm 2015 (từ
Điều 562 đến năm Điều 569) trên cơ sở hoàn thiện, bổ sung những quy định về
hợp đồng ủy quyền trong Bộ Luật dân sự năm 2015 làm cho pháp luật về hợp
đồng ủy quyền ngày càng hoàn thiện hơn.
1.3.2. Luật Đất đai.
1.3.2.1. Giai đoạn 1987 đến năm 1993.
Luật Đất đai đầu tiên của nước ta được ban hành vào năm 1987, ghi nhận
dấu mốc quan trọng của hệ thống pháp luật về đất đai với điểm đột phá là chủ

trương giao đất sản xuất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân để sử dụng ổn
định lâu dài. Với chủ trương này đã góp phần đưa nước ta từ chỗ thiếu đói phải
nhập khẩu về lương thực đã trở thành nước xuất khẩu gạo hàng đầu trên thế giới.
Ngoài ra, Luật Đất đai năm 1987 có các quy định để tạo điều kiện thuận lợi hơn
cho việc giao đất phục vụ xây dựng đô thị, khu dân cư nông thôn và phát triển
khu công nghiệp.
Sau 05 năm, với yêu cầu phát triển một nền nông nghiệp hàng hóa và xây
dựng hạ tầng cho kinh tế công nghiệp và dịch vụ, năm 1993, Quốc hội đã thông
qua Luật Đất đai lần thứ hai (Luật Đất đai năm 1993). Luật Đất đai năm 1993 đã
tập trung chủ yếu vào việc điều chỉnh các quan hệ đất đai nhằm kiến tạo nền sản
xuất hàng hóa, phát triển công nghiệp. Thông qua quy định Nhà nước giao cho
hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất sản xuất nông nghiệp, đất ở với 05 quyền
chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp, Luật Đất đai năm 1993
đã đảm bảo về mặt pháp lý cho việc thiết lập tính tự chủ, cũng như quyền lợi của
người sử dụng đất. Đặc biệt là Luật Đất đai năm 1993 đã khẳng định đất có giá
và giá đất do Nhà nước quy định để tính thuế chuyển quyền sử dụng đất, thu tiền
khi giao đất hoặc cho thuê đất, tính giá trị tài sản khi giao đất, bồi thường thiệt
hại khi thu hồi đất.
1.3.2.2. giai đoạn 1998 đến năm 2003.
Tiếp theo đó, năm 1998 và năm 2001, nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách hành
chính để thu hút đầu tư cho phát triển, Luật Đất đai tiếp tục được sửa đổi, bổ
sung theo hướng hoàn thiện hơn các quyền và nghĩa vụ của tổ chức sử dụng đất
và đẩy mạnh việc phân cấp trong quản lý đất đai cho chính quyền địa phương.
Thời điểm bước vào thiên niên kỷ mới, trước yêu cầu phải hoàn thiện hệ
thống chính sách và pháp luật về đất đai nhằm đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trên cơ sở tổng kết 10 năm thi hành Luật Đất
GVHD:

Trang 10


SVTH: ……………..


Luận văn tốt nghiệp

Hợp đồng ủy quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất

đai năm 1993, Quốc hội đã thông qua Luật Đất đai lần thứ ba (Luật Đất đai năm
2003). Tiếp đó, năm 2009, Luật Đất đai tiếp tục có sửa đổi, bổ sung một số điều
liên quan đến quyền và nghĩa vụ của người Việt Nam định cư nước ngoài sở hữu
nhà tại Việt Nam và việc thống nhất cấp một loại Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất.
Để kịp thời giải quyết các vướng mắc, bất cập về quản lý, thi hành Luật đất
đai 2003 tại địa phương, Tổng cục được giao chủ trì xây dựng và ngày 13 tháng
8 năm 2009, Nghị định số 69/2009/NĐ-CP được Chính phủ ban hành đã tạo nền
tảng pháp lý cho công tác quản lý và sử dụng đất đai, góp phần giải quyết về căn
bản những vấn đề vướng mắc trong quản lý đất đai như quy hoạch, kế hoạch sử
dụng đất; giá đất; bồi thường, giải phóng mặt bằng và tái định cư:
Đồng thời, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của các luật liên quan đến
Luật đầu tư xây dựng cơ bản và Nghị định số 88/2009/NĐ-CP ngày 19/10/2009
về cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác
gắn liền với đất là một bước tiến dài, đặc biệt quan trọng trong tiến trình cải
cách hành chính với mục tiêu hướng tới người dân và cơ sở trong lĩnh vực quản
lý đất đai và đầu tư xây dựng; tạo tiền đề cho việc thúc đẩy thị trường bất động
sản phát triển.
1.3.2.3. Giai đoạn từ năm 2013 đến nay
Tại kỳ họp thứ 6 Quốc hội khoá 13, Luật đất đai (sửa đổi) đã được thông qua
và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2014. Đây là sự kiện quan trọng đánh dấu
những đổi mới về chính sách, pháp luật đất đai nhằm một mặt bảo đảm giữ vững
ổn định chính trị - xã hội của đất nước, một mặt đáp ứng được yêu cầu phát triển

kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng - an ninh của đất nước trong thời kỳ mới.
Có thể nói việc ban hành Luật Đất đai năm 2013 đã được tiến hành một
cách công phu, nghiêm túc và căn bản trên cơ sở thể chế hóa đầy đủ các quan
điểm, nội dung của Nghị quyết Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương
Đảng khóa XI; đã thể hiện được ý chí, nguyện vọng của các tầng lớp nhân dân;
đã nghiên cứu và tiếp thu có chọn lọc các kinh nghiệm quản lý đất đai của các
nước tiên tiến, đồng thời quan tâm giải quyết những tồn tại, bất cập đã được
nhận diện thông qua quá trình tổng kết thi hành trên thực tiễn.
Luật này đã được xây dựng cụ thể, chi tiết hơn với nhiều nội dung đổi mới
quan trọng sau đây: Quy định cụ thể các quyền, nghĩa vụ của Nhà nước và
những bảo đảm của Nhà nước đối với người sử dụng đất; quyền và nghĩa vụ của
người sử dụng đất. Chú trọng đến đánh giá chất lượng đất đai, thay đổi phương
pháp lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất để phục vụ tốt hơn cho công tác quản
lý và sử dụng đất. Tăng cường hơn việc vận hành các quan hệ đất đai theo cơ
chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; từng bước chuyển đổi phương thức
quản lý từ các biện pháp hành chính đơn thuân sang các biện pháp kinh tế. Kiểm
soát chặt chẽ hơn đối với công tác thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, cho phép
chuyển mục đích sử dụng đất để nhằm đảm bảo đất đai được sử dụng hợp lý, tiết
kiệm và hiệu quả. Tăng cường hơn công khai, minh bạch và dân chủ trong quản

GVHD:

Trang 11

SVTH: ……………..


Luận văn tốt nghiệp

Hợp đồng ủy quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất


lý, sử dụng đất; góp phần phòng, chống tiêu cực, tham nhũng, lãng phí và làm
giảm các khiếu kiện trong lĩnh vực đất đai. Thiết lập sự bình đẳng trong việc tiếp
cận đất đai, thực hiện quyền và nghĩa vụ sử dụng đất giữa nhà đầu tư trong nước
và nhà đầu tư nước ngoài cho phù hợp với yêu cầu hội nhập và thu hút đầu tư.
Tiếp tục hoàn thiện chính sách sử dụng đất nông nghiệp nhằm tạo điều kiện đẩy
mạnh tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn; Quan
tâm hơn đến việc đảm bảo quyền sử dụng đất cho nhóm người dễ bị tổn thương
như phụ nữ, người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số.
1.3.3. Luật công chứng và Nghị định về chứng thực
Nước ta từ một nước phong kiến đi thẳng lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua giai
đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Vì vậy, có thể khẳng định dưới chế độ phong
kiến trước đây, hoạt động chứng thực chính thống (với cách hiểu như hiện nay)
là chưa xuất hiện. Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng các hoạt động có tính
chất xác nhận, xác thực… của chính quyền vẫn tồn tại ở nhà nước phong kiến
Việt Nam trước đây như một nhu cầu tất yếu của quản lý xã hội.
Cùng với hoạt động công chứng, hoạt động chứng thực của nước Việt Nam
Dân chủ cộng hòa chỉ được chính thức đặt nền móng từ sau Cách mạng tháng
Tám thành công năm 1945. Cùng với việc xây dựng Nhà nước kiểu mới, ngày
15/11/1945, Hồ Chủ tịch đã thay mặt Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa ban hành Sắc lệnh số 59/SL về việc ấn định thể lệ thị thực các
giấy tờ. Tiếp sau đó, ngày 29/02/1952, Hồ Chủ tịch đã ký Sắc lệnh số 85/SL quy
định thể lệ trước bạ về việc mua, bán, cho, đổi nhà cửa, ruộng đất. Thời kỳ này,
chỉ có Ủy ban nhân dân, Ủy ban kháng chiến hành chính có thẩm quyền “thị
thực”, “nhận thực,” đây thực chất là tiền thân của hoạt động công chứng, chứng
thực sau này.
Có thể nói, việc hình thành hoạt động chứng thực như một kết quả tất yếu
của sự kết hợp giữa nhu cầu của đời sống kinh tế - xã hội và nhu cầu quản lý của
Nhà nước. Vì vậy, ngay từ khi mới thành lập nước, các văn bản về hoạt động
chứng thực đã được ban hành để đáp ứng yêu cầu này. Các quan hệ dân sự, đất

đai… - những quan hệ, giao dịch không thể thiếu trong đời sống kinh tế xã hội đã được tiếp tục diễn ra bình thường trong thời kỳ chuyển chế độ. Điều này đảm
bảo sự ổn định kinh tế - xã hội, ổn định đời sống của nhân dân và bước đầu tạo
đà cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Chính vì vậy, có thể nói hoạt
động chứng thực đã ra đời như một tất yếu của hoạt động quản lý nhà nước và là
công cụ phục vụ đời sống dân sự, kinh tế của người dân – một công cụ đáng tin
cậy và có sức mạnh.
1.3.3.1. Giai đoạn từ thời kỳ đầu đổi mới cho đến năm 2000.
Trong thời kỳ đầu đất nước ta bước vào giai đoạn đổi mới, cùng với sự phát
triển mạnh mẽ của nền kinh tế thị trường giai đoạn mới khai sinh, các giao dịch
dân sự, kinh tế cũng trở nên phong phú, đa dạng hơn. Chính sự gia tăng của các
giao dịch này đã tất yếu đòi hỏi phải có một cơ quan chuyên môn “gác cổng” để
đảm bảo an toàn cho các giao dịch đó. Chính vì vậy, hoạt động công chứng,

GVHD:

Trang 12

SVTH: ……………..


Luận văn tốt nghiệp

Hợp đồng ủy quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất

chứng thực ở nước ta đã được tái lập, kiện toàn và phát triển. Giai đoạn này được
đánh dấu bằng sự ra đời của hàng loạt các văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh
hoạt động công chứng, chứng thực ở cấp độ thông tư, nghị định. Thời kỳ này, hai
hoạt động công chứng và chứng thực luôn gắn kết chặt chẽ với nhau và cùng
được điều chỉnh chung trong cùng một văn bản quy phạm pháp luật.
Các văn bản điều chỉnh hoạt động chứng thực giai đoạn này bao gồm: Thông

tư số 574/QLTPK ngày 10/10/1987 của Bộ Tư pháp hướng dẫn công tác công
chứng nhà nước; Nghị định số 45/HĐBT ngày 27/2/1991 về công chứng Nhà
nước của Hội đồng Bộ trưởng (nay là Chính phủ), Nghị định số 31/CP ngày
18/5/1996 về tổ chức và hoạt động công chứng Nhà nước; Nghị định số
75/2000/NĐ-CP ngày 8/12/2000 về công chứng, chứng thực. Giai đoạn này, do
đặc điểm tình hình của nước ta trong thời kỳ đầu đổi mới, số lượng các Phòng
Công chứng và công chứng viên còn hạn chế, (trên cả nước chỉ có hơn 100
Phòng Công chứng và hơn 300 công chứng viên), chưa đủ để đáp ứng nhu cầu
của người dân. Vì vậy, để tạo điều kiện thuận lợi cho người dân có thể thực hiện
các yêu cầu công chứng ở những nơi chưa có Phòng Công chứng hoặc có nhưng
việc đi lại còn khó khăn, Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã đã được giao
nhiệm vụ chứng thực (trong đó có việc mà bản chất thuộc về hoạt động công
chứng, đó là chứng thực hợp đồng, giao dịch) và những công việc chứng thực
mà Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã thực hiện trong giai đoạn này cũng được
gọi là việc “công chứng” , VD: chứng nhận hợp đồng, giao dịch, bản sao, chữ
ký… Thời kỳ này, người thực hiện chứng thực tại UBND các cấp cũng được gọi
là công chứng viên.
Có thể nói, thời kỳ này, hai hoạt động công chứng và chứng thực còn bị lẫn
lộn về nhiều mặt: về tên gọi, về chủ thể, về nội dung, về phạm vi thực hiện… và
luôn được điều chỉnh chung trong cùng một văn bản quy phạm pháp luật. Các
Phòng công chứng bên cạnh việc công chứng hợp đồng, giao dịch vẫn được giao
thực hiện công việc chứng nhận bản sao (có tính chất giản đơn hơn), còn Ủy ban
nhân dân cấp xã lại không có thẩm quyền chứng thực bản sao. Thời kỳ này, khái
niệm chứng thực cũng manh nha hình thành song còn rất mờ nhạt. Trên thực tế,
các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong xã hội chỉ biết đến khái niệm “công chứng”
mà không biết đến khái niệm “chứng thực”. Chính điều này đã dẫn đến tình
trạng người dân đổ dồn về các Phòng Công chứng để yêu cầu công chứng bản
sao, gây ra tình trạng quá tải, ách tắc tại các Phòng công chứng trong một thời
gian dài (giai đoạn này Ủy ban nhân dân cấp huyện cũng có thẩm quyền chứng
thực bản sao nhưng rất ít người biết đến, thậm chí có trụ sở UBND cấp huyện

chỉ cách Phòng Công chứng vài trăm mét nhưng rất ít người đến yêu cầu chứng
thực bản sao trong khi tại Phòng Công chứng thì quá tải).
Trong giai đoạn này, việc phải giao cho Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã
thực hiện một số việc của công chứng nhằm đáp ứng các mục tiêu:
- Từng bước hoàn thiện cơ quan công chứng chuyên trách, để bảo đảm thực
hiện các yêu cầu công chứng một cách chặt chẽ, tin cậy;

GVHD:

Trang 13

SVTH: ……………..


Luận văn tốt nghiệp

Hợp đồng ủy quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất

- Tạo điều kiện thuận lợi cho công dân trong việc thực hiện các yêu cầu
công chứng, chứng thực;
Như vậy, giai đoạn này có sự pha trộn giữa hoạt động công chứng với tư
cách là hoạt động nghiệp vụ của công chứng viên với hoạt động chứng thực là
hành vi hành chính của cơ quan hành chính công quyền (Ủy ban nhân dân các
cấp). Điều này thể hiện ở việc Phòng Công chứng vừa chứng nhận các hợp
đồng, giao dịch vừa chứng nhận bản sao giấy tờ từ bản chính; mặt khác UBND
cấp huyện cũng vừa chứng thực bản sao giấy tờ từ bản chính vừa chứng thực
hợp đồng, giao dịch. Việc pha trộn giữa hai loại hoạt động công chứng và chứng
thực như vậy đã dẫn tới tình trạng không phân biệt hành vi nào là hành vi mang
tính dịch vụ, có thu phí hoặc lệ phí và hành vi nào là hành vi hành chính, là trách
nhiệm của cơ quan hành chính công quyền phải phục vụ dân. Mặt khác, sự pha

trộn đó cũng biến hoạt động công chứng thành hoạt động mang tính chất hành
chính khô cứng, quan liêu.
Giai đoạn này, Phòng Công chứng là cơ quan nhà nước, do Nhà nước thành
lập và trực thuộc Sở Tư pháp. Công chứng viên là công chức nhà nước, việc làm
và thu nhập luôn được đảm bảo, không phụ thuộc vào lượng khách hàng, vì vậy
dẫn đến hiện tượng nhiều Phòng công chứng/công chứng viên có biểu hiện cửa
quyền, sách nhiễu, gây khó khăn cho cơ quan, tổ chức, cá nhân. Tình trạng
người dân phải xếp hàng, chờ đợi trước cửa Phòng Công chứng để được công
chứng diễn ra phổ biến. Tình trạng nhờ vả, chạy chọt để được công chứng một
hợp đồng, giao dịch (thậm chí cả bản sao) cũng phổ biến. Chính sự độc quyền
này đã tạo cho công chứng viên có thái độ quan liêu, hách dịch, cửa quyền. Nạn
“cò công chứng” cũng vì thế mà trở nên phổ biến, gây bức xúc trong nhân dân.
Giai đoạn này, các việc công chứng, chứng thực được thực hiện cũng rất đơn
giản và do chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể, chi tiết về trình tự, thủ tục công
chứng/chứng thực nên có thể nói hoạt động công chứng/chứng thực chưa được
diễn ra bài bản, chuyên nghiệp. Trình tự/thủ tục công chứng/chứng thực giai
đoạn này còn chưa hạn chế được sự tùy tiện.
1.3.3.2. Giai đoạn 2000 đến 2006 .
Ngày 8/12/2000, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 75/2000/NĐ-CP về
công chứng, chứng thực. Giai đoạn này sự phát triển của hoạt động công
chứng/chứng thực đã được nâng lên một bước, quy củ và nền nếp hơn, tuy nhiên
chưa mang tính đột phá. Giai đoạn này, sự phân biệt giữa hoạt động công chứng
và chứng thực chưa có sự thay đổi đáng kể so với trước đây. Điểm khác biệt lớn
nhất là kể từ khi Nghị định này được ban hành thì khái niệm “chứng thực” mới
chính thức được ra đời, tồn tại song song, độc lập bên cạnh khái niệm “công
chứng”. Tại khoản 2 Điều 2 của Nghị định này đã chỉ rõ: “Chứng thực là việc
Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã xác nhận sao y giấy tờ, hợp đồng, giao dịch
và chữ ký của cá nhân trong các giấy tờ phục vụ cho việc thực hiện các giao
dịch của họ theo quy định của Nghị định này”. Như vậy, Nghị định
75/2000/NĐ-CP đã chính thức khẳng định hoạt động chứng thực là hoạt động

của Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã. Từ đây, những việc tuy có tính chất như
GVHD:

Trang 14

SVTH: ……………..


Luận văn tốt nghiệp

Hợp đồng ủy quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất

công chứng nhưng do Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã thực hiện thì được gọi
là chứng thực. Như vậy, ở giai đoạn này, hai hoạt động công chứng và chứng
thực bước đầu đã có sự phân biệt, tuy nhiên mới chỉ dừng lại phân biệt ở chủ thể
thực hiện, chưa căn cứ vào hành vi, tính chất công việc. Ví dụ cùng một loại
việc nhưng nếu do Phòng Công chứng thực hiện thì được gọi là công chứng, do
Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã thực hiện thì được gọi là chứng thực. Có thể
nói, việc ban hành Nghị định số 75/2000/NĐ-CP là một bước tiến quan trọng
trong quá trình xây dựng thể chế về hoạt động chứng thực. Nghị định số
75/2000/NĐ-CP với những quy định khá chi tiết, cụ thể về thẩm quyền, trình tự,
thủ tục… thực hiện các loại việc chứng thực, lần đầu tiên đã tạo cơ sở pháp lý
tương đối đầy đủ, rõ ràng cho hoạt động chứng thực, tạo thuận lợi cho người
thực hiện chứng thực. Nghị định số 75/2000/NĐ-CP đã đưa hoạt động chứng
thực, đặc biệt là hoạt động chứng thực hợp đồng, giao dịch ở nước ta đi vào nền
nếp và có những đóng góp tích cực trong việc đáp ứng nhu cầu chứng thực của
cơ quan, tổ chức, cá nhân trên mọi vùng miền, đặc biệt là tại các vùng sâu, vùng
xa, vùng kinh tế khó khăn…, góp phần phòng ngừa tranh chấp, vi phạm pháp
luật, thúc đẩy sự phát triển của các giao dịch dân sự, kinh tế. Giai đoạn này, đối
tượng của hai loại hoạt động công chứng và chứng thực vẫn chưa được phân biệt

dứt khoát. Tuy trên thực tế có việc thuộc hành vi công chứng như: chứng nhận
các hợp đồng, các giao dịch nhưng cũng có việc thuộc về hành vi hành chính
như chứng nhận bản sao từ bản chính, nhưng Nghị định 75/2000/NĐ-CP không
có sự phân định rõ thẩm quyền chứng nhận của công chứng với thẩm quyền thị
thực hành chính của Ủy ban nhân dân. Cụ thể là có một số loại việc tương đối
phức tạp nhưng vẫn được giao cho Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã chứng
thực mà đáng lẽ ra những việc đó chỉ nên giao cho cơ quan công chứng chứng
nhận (VD: chứng nhận hợp đồng, kể cả hợp đồng mà đối tượng là bất động sản,
chứng thực di chúc…) hoặc có những việc đơn giản như chứng thực bản sao vẫn
được giao cho Phòng Công chứng, trong khi các Phòng Công chứng giai đoạn
này đều đang quá tải. Nhiều chủng loại hợp đồng, giao dịch dân sự cùng được
chứng nhận tại cả Phòng Công chứng và tại UBND cấp huyện tùy theo địa hạt
và tùy theo giá trị tài sản ghi trong hợp đồng. Nguyên nhân của tình trạng này
vẫn là do số lượng các Phòng Công chứng chưa đủ để đáp ứng yêu cầu của
người dân (giai đoạn này số lượng các Phòng Công chứng trên cả nước đã tăng
lên nhưng cũng chỉ được khoảng hơn 300 Phòng; tại những tỉnh, thành phố lớn
như Hà nội, thành phố Hồ Chí minh cũng chỉ có khoảng 4- 5 Phòng Công
chứng), dẫn đến Ủy ban nhân dân cấp huyện vẫn phải thực hiện nhiệm vụ của
Phòng Công chứng. Tuy nhiên, cả về mặt lý luận và thực tiễn đều cho thấy việc
giao nhiệm vụ chứng nhận một số hợp đồng dân sự cho Ủy ban nhân dân cấp
huyện cũng như việc giao cho công chứng viên chứng nhận bản sao giấy tờ tài
liệu còn có một số mặt chưa thực sự phù hợp trong giai đoạn này, từ đó làm quá
tải các Phòng Công chứng, gây phiền hà cho công dân khi yêu cầu chứng nhận
các việc giản đơn và các công chứng viên không có thời gian để tập trung vào
nhiệm vụ chính là công chứng hợp đồng, giao dịch. Thực tế này dẫn đến đòi hỏi
khách quan, tất yếu là cần phải có thêm nhiều phòng công chứng, nhiều công
chứng viên để đảm nhiệm việc công chứng các hợp đồng, giao dịch, tạo điều
GVHD:

Trang 15


SVTH: ……………..


Luận văn tốt nghiệp

Hợp đồng ủy quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất

kiện để UBND cấp huyện, cấp xã giảm dần việc chứng thực các hợp đồng, giao
dịch, tập trung thực hiện tốt nhiệm vụ chính là quản lý nhà nước. Mặt khác, giai
đoạn này những hạn chế, tiêu cực của hoạt động công chứng/chứng thực vẫn tồn
tại như giai đoạn trước đây và có xu hướng ngày càng tăng. Bên cạnh đó, hoạt
động chứng thực chưa khẳng định được vị trí độc lập của mình bên cạnh hoạt
động công chứng. Hoạt động chứng thực chữ ký người dịch vẫn được giao cho
các Phòng Công chứng, các Phòng Tư pháp không có thẩm quyền này. Hoạt
dộng công chứng bản sao vẫn đổ dồn vào các Phòng Công chứng, trong khi đó
số lượng các Phòng Công lại rất hạn chế do Nhà nước không đủ nguồn lực để
thành lập thêm nhiều Phòng Công chứng. Trong khi đó, đời sống kinh tế - xã
hội của nước ta trong giai đoạn này đã có sự phát triển mạnh mẽ, vượt bậc so
với giai đoạn trước khiến cho nhu cầu công chứng/chứng thực của cơ quan, tổ
chức, cá nhân ngày càng tăng, còn UBND cấp xã vẫn chưa được giao thẩm
quyền chứng thực bản sao từ bản chính. Chính vì vậy tình trạng ách tắc, quá tải
tại các Phòng Công chứng ngày càng trở nên trầm trọng. Có thể nói, giai đoạn
này hoạt động công chứng/chứng thực chưa thực hiện tốt vai trò của mình với tư
cách là công cụ pháp lý hỗ trợ sự phát triển triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Ngược lại, hoạt động công chứng/chứng thực giai đoạn này phần nào đó còn
kìm hãm sự phát triển của các quan hệ kinh tế - xã hội.
1.3.3.3. Giai đoạn từ năm 2006 đến năm 2014.
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước đã đề ra, đặc biệt là Nghị
quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 về Chiến lược Xây dựng và hoàn thiện hệ

thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Nghị
quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm
2020 của Bộ Chính trị, với mục đích tạo điều kiện cho công tác công chứng,
chứng thực ở Việt Nam phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu, phục vụ tốt hơn
nhu cầu công chứng, chứng thực của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong xã hội,
ngày 29/11/2006, Quốc Hội đã thông qua Luật công chứng và ngày 18/5/2007,
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 79/2007/NĐ-CP về cấp bản sao từ sổ gốc,
chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký. Từ đây, hoạt động công
chứng và chứng thực đã tách bạch. Việc ban hành Luật công chứng và Nghị định
số 79/2007/NĐ-CP là phù hợp trong giai đoạn này, đặc biệt việc xã hội hóa hoạt
động công chứng và giao việc chứng thực bản sao cho UBND cấp xã thực hiện
là một bước tiến quan trọng trong việc hoàn thiện pháp luật về công chứng,
chứng thực, đưa hoạt động công chứng phát triển theo hướng chuyên nghiệp,
phù hợp với thông lệ quốc tế và gắn hoạt động chứng thực với vai trò của chính
quyền địa phương. Từ thời điểm này, hoạt động công chứng và chứng thực đã có
sự tách bạch, nhiệm vụ của hoạt động công chứng và chứng thực đã được phân
biệt tương đối rạch ròi, phù hợp với tình hình thực tế của giai đoạn này. Theo đó,
tổ chức hành nghề công chứng được giao nhiệm vụ chính là công chứng hợp
đồng, giao dịch, không còn đảm nhận nhiệm vụ mang tính chất chứng thực là
chứng thực bản sao, chữ ký. Theo quy định của Luật Công chứng thì Phòng
công chứng và Văn phòng công chứng có nhiệm vụ là:“chứng nhận tính xác
thực, tính hợp pháp của hợp đồng, giao dịch khác bằng văn bản mà theo quy
GVHD:

Trang 16

SVTH: ……………..


Luận văn tốt nghiệp


Hợp đồng ủy quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất

định của pháp luật phải công chứng hoặc cá nhân, tổ chức tự nguyện yêu cầu
công chứng”. Còn Ủy ban nhân dân cấp huyện, cấp xã theo quy định của Nghị
định số 79/2007/NĐ-CP được giao nhiệm vụ chứng thực bản sao từ bản chính
giấy tờ, văn bản và chứng thực chữ ký (giai đoạn này, UBND cấp xã đã được
chính thức giao nhiệm vụ chứng thực bản sao từ bản chính). Việc mở rộng phân
cấp thẩm quyền chứng thực cho Ủy ban nhân dân cấp xã đã đưa cơ quan chứng
thực đến gần dân hơn, tạo thuận lợi cho người dân. Đồng thời, việc tổ chức hành
nghề công chứng chấm dứt công chứng bản sao đã “buộc” người dân làm quen
với hoạt động chứng thực bản sao tại UBND cấp xã, cấp huyện, chấm dứt tình
trạng ách tắc, quá tải tại các phòng công chứng. Tuy nhiên, dù đã cố gắng phân
định như vậy nhưng giai đoạn này nhiệm vụ của hoạt động công chứng và
chứng thực vẫn có sự giao thoa, chồng lấn, chưa thể hoàn toàn phân định tách
bạch, rõ ràng cho phù hợp với bản chất của hai loại hoạt động này. Nguyên nhân
là do hiện nay mạng lưới tổ chức hành nghề công chứng chưa đủ để đáp ứng
được nhu cầu của nhân dân trên địa bàn toàn quốc nên UBND cấp huyện, cấp xã
tại một số địa bàn nơi chưa có tổ chức hành nghề công chứng hoặc tuy có nhưng
chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân vẫn tạm thời thực hiện nhiệm vụ
chứng thực hợp đồng, giao dịch.
1.3.3.4. Giai đoạn từ năm 2014 và Nghị định số 23/2015/NĐ-CP được ban
hành cho đến nay
Do đặc điểm tình hình hình giai đoạn này đã có sự thay đổi, sau nhiều năm
thực hiện xã hội hóa hoạt động công chứng, số lượng các tổ chức hành nghề
công chứng và công chứng viên trên toàn quốc đã tăng lên đáng kể, không còn
tình trạng ách tắc, quá tải tại các tổ chức hành nghề công chứng nữa. Cùng với
đó, cơ chế xin – cho trước đây đã được thay thế bằng cơ chế dịch vụ, mà ở đó
khách hàng được coi trọng; những tiêu cực trước đây trong hoạt động công
chứng cũng không còn. Trước tình hình này, ngày 20/6/2014 Quốc hội nước ta

đã thông qua Luật Công chứng mới. Luật Công chứng năm 2014 đã giao trở lại
cho tổ chức hành nghề công chứng thẩm quyền chứng thực bản sao từ bản
chính, chứng thực chữ ký và thẩm quyền công chứng bản dịch. Có thể nói, việc
giao trở lại cho tổ chức hành nghề công chứng các thẩm quyền này là phù hợp
với tình hình hiện nay, một mặt vừa tạo thêm một “kênh” để người dân lựa chọn,
một mặt vừa tạo điều kiện cho các tổ chức hành nghề công chứng duy trì và
nâng cao chất lượng hoạt động. Còn với sự ra đời của Nghị định số
23/2015/NĐ-CP ngày 16/2/2015 của Chính phủ về cấp bản sao từ sổ gốc, chứng
thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký và chứng thực hợp đồng, giao
dịch, thì về cơ bản hoạt động chứng thực vẫn được duy trì tại UBND cấp huyện,
cấp xã, bên cạnh đó là hoạt động chứng thực bản sao, chữ ký tại tổ chức hành
nghề công chứng. Tuy nhiên, để đảm bảo phù hợp với điều kiện, năng lực của
đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác chứng thực, việc chứng thực hợp đồng,
giao dịch đã được đơn giản hóa, đặc biệt là giá trị pháp lý của hợp đồng, giao
dịch được chứng thực. Theo đó, hợp đồng, giao dịch được chứng thực chỉ có giá
trị “hình thức,” tức có giá trị pháp lý thấp hơn so với hợp đồng, giao dịch được
công chứng. Điều này là phù hợp với thực tế vì hiện nay, tại những tỉnh, thành
GVHD:

Trang 17

SVTH: ……………..


Luận văn tốt nghiệp

Hợp đồng ủy quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất

phố lớn nơi có điều kiện kinh tế - xã hội phát triển thì việc chứng thực hợp đồng,
giao dịch đã được chuyển giao cho các tổ chức hành nghề công chứng. Chỉ tại

những địa phương vùng sâu, vùng, xa, vùng kinh tế khó khăn... thì UBND cấp
huyện, cấp xã vẫn tiếp tục đảm đương nhiệm vụ chứng thực hợp đồng, giao
dịch. Việc chứng thực hợp đồng, giao dịch theo quy định tại Nghị định
23/2015/NĐ-CP một mặt vừa làm giảm thủ tục cũng như lệ phí cho bà con nơi
đây, mặt khác vẫn đảm bảo yêu cầu của pháp luật trong trường hợp giao dịch đó
buộc phải có công chứng/chứng thực. Chỉ trong trường hợp phát sinh tranh chấp
thì do hợp đồng, giao dịch được chứng thực có giá trị pháp lý thấp hơn nên độ
an toàn không cao bằng hợp đồng, giao dịch được công chứng. Tuy nhiên, thực
tế cho thấy giao dịch diễn ra tại những địa phương này thường là đơn giản, có
giá trị nhỏ vì vậy khả năng phát sinh tranh chấp không cao hoặc nếu có cũng
không quá khó để giải quyết.
1.4. Vai trò của Hợp đồng ủy quyền để chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
Một cá nhân trong một thời gian nhất định không chỉ tham gia một giao
dịch dân sự mà còn tham gia nhiều giao dịch dân sự . Trên thực tế, không phải ai
cũng có điều kiện trực tiếp tham gia vào tất cả các giao dịch. Có thể vì một lý do
nào đó như: không có thời gian, không có sức khỏe hoặc không có khả năng về
chuyên môn. Vì vậy, pháp luật cho phép nếu những chủ thể này không trực tiếp
thực hiện những giao dịch đó họ có thể ủy quyền cho người thứ ba, thay mặt
mình tham gia các giao dịch dân sự. Theo quan niệm truyền thống thì hợp đồng
ủy quyền được hiểu như là một công việc mà việc thực hiện công việc này mang
tính chất tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong cuộc sống. Những người ủy quyền
thường là những người do không thu xếp được cộng việc của mình. Người thực
hiện ủy quyền có thể là những người thân thiết, việc thực hiện những công việc
mang tính chất không được tính thù lao và lợi nhuận. Ngày nay, quan niệm về
ủy quyền và hợp đồng ủy quyền còn được coi là một dịch vụ pháp lý góp phần
làm gia tăng các giao dịch dân sự. Bởi lẽ, cùng một thời điểm một người vẫn có
thể tham gia được nhiều giao dịch thông qua người đại diện theo ủy quyền.
Người được ủy quyền làm mọi công việc nhân danh người ủy quyền vì lợi ích
của người ủy quyền.
Trước đây, ủy quyền được thực hiện trong phạm vi rất hẹp, xuất hiện trong

cuộc sống hàng ngày, được coi như một công việc rất đơn giản, là sự giúp đỡ lẫn
nhau trong cuộc sống. Hiện nay, Ủy quyền được thể hiện ở hầu hết những lĩnh
vực của đời sống xã hội như: kinh tế, thương mại, lao động, chuyển nhượng
quyền sử dụng đất...từ những phân tích trên cho thấy, hợp đồng ủy quyền có vai
trò như sau:
Thứ nhất, việc xác lập hợp đồng ủy quyền sẽ tạo điều kiện cho thủ thể của
các quan hệ pháp luật dân sự tiết kiệm chi phí, tiền bạc cũng như thời gian.
Ngày nay, những quy định của pháp luật về hình thức, phạm vi và đối tượng của
ủy quyền ngày càng mở rộng, việc này tạo điều kiện thuận lợi cho việc ủy quyền
được diễn ra nhanh chóng, kịp thời.

GVHD:

Trang 18

SVTH: ……………..


Luận văn tốt nghiệp

Hợp đồng ủy quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất

Thứ hai, hợp đồng ủy quyền là một công cụ đắc lực góp phần thúc đẩy và
phát triển các giao dịch dân sự trong xã hội. Một người có thể có rất nhiều hợp
đồng, giao dịch nếu ủy quyền cho người khác tham gia các giao dịch dân sự
nhân danh mình.
Thứ ba, việc nhà nước ta lần lược ban hành hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật dân sự như: Pháp lệnh hợp đồng dân sự năm 1991, Bộ luật dân sự năm
1995, Bộ luật dân sự năm 2005, cho đến nay là Bộ luật dân sự năm 2015 đều ghi
nhận hợp đồng ủy quyền là một trong những hợp đồng dân sự thông dụng và

phù hợp với pháp luật quốc tế, thể hiện sự hòa nhập của pháp luật nước ta với
các nước trên thế giới đồng thời là phương tiện ghi nhận một trong những quyền
cơ bản trong quan hệ dân sự đó là quyền tự do khi tham gia quan hệ dân sự.
Tuy nhiên cùng với những ưu điểm được phát huy, đã có hành vi lẫn tránh
pháp luật khi người ta đã lợi dụng hợp đồng ủy quyền để trục lợi, qua mặt các
quy định của pháp luật, gây thiệt hại cho lợi ích các nhân và cả lợi ích Nhà nước.
Hơn nữa, quy định hiện hành của pháp luật về hợp đồng ủy quyền chưa phải là
toàn năng. Do đó, cần thiết phải tìm hiểu thấu đáo chế định pháp lý về hợp đồng
ủy quyền để việc áp dụng vào thực tiễn phát huy được vai trò tích cực của chế
định này. Đồng thời, đưa ra được những sự điều chỉnh cho phù hợp với sự vận
hành đa dạng trong thực tiễn đời sống dân sự.

GVHD:

Trang 19

SVTH: ……………..


Luận văn tốt nghiệp

Hợp đồng ủy quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất

CHƯƠNG 2. CƠ SỞ PHÁP LÝ VỀ HỢP ĐỒNG ỦY QUYỀN
CHUYỂN NHƯỢNG QUYỀN SỬ DỤNG ĐẤT.
Trong chương này, bản thân tập trung phân tích chế độ pháp lý về hợp đồng
ủy quyền trong Bộ luật dân sự năm 2015 gồm 03 phần: giao kết hợp đồng ủy
quyền, hiệu lực và các trường hợp chấm dứt hợp đồng ủy quyền. Trên cơ sở đó,
người viết đi sâu phân tích những quy định của pháp luật hiện hành về việc ủy
quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

2.1. Giao kết hợp đồng ủy quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
2.1.1. Hình thức và thời diểm phát sinh hiệu lực của hợp đồng ủy quyền
chuyển nhượng quyền sư dụng đất.
Hình thức của hợp đồng ủy quyền quy định tại Điều 562 của Bộ Luật dân
sự năm 2015: “Hợp đồng ủy quyền là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên
được ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh bên ủy quyền, bên ủy
quyền phải chi trả thù lao nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có qui định”.
Trong trường hợp các bên giao kết hợp đồng ủy quyền bằng lời nói và
không có bên nào kiện cáo về hình thức giao kết thì hợp đồng ủy quyền vẫn có
giá trị. Để hợp thức hóa tập quán giao dịch trên và cũng để đáp ứng nhu cầu giao
dịch ủy quyền diễn ra trong đời sống được thuận lợi cho nên so với Bộ luật dân
sự năm 2005 thì Bộ luật dân sự năm 2015 đã không còn ràng buộc hợp đồng ủy
quyền vào hình thức văn bản. Tuy nhiên, vì công việc mà người được ủy quyền
thực hiện nhân danh người ủy quyền là một giao dịch có tính pháp lý nên thông
thường cac bên sẽ giao kết hợp đồng ủy quyền bằng văn bản, nếu công việc liên
quan đến tài sản và nhân thân của người ủy quyền hoặc các bên cảm thấy việc
công chưng, chứng thực là cần thiết thì hợp đồng ủy quyền này còn được công
chứng, chứng thực.
Hợp đồng ủy quyền dưới hình thức văn bản hay văn bản được công chứng,
chứng thực sẽ giúp cho bên được ủy quyền có căn cứ để giới thiệu tư cách đại
diện và thẩm quyền đại diện của mình trước người thứ ba và có giá trị chứng cứ
để chứng minh nếu có tranh chấp xảy ra. Nếu quan hệ ủy quyền được xác lập
thông qua hình thức miệng thì nếu có tranh chấp phải có căn cứ để chưng minh
cho quan hệ đó tồn tại hoặc tất cả các bên quan hệ điều thừa nhận thì Tòa án
nhân dân mới có căn cứ để giải quyết do đó hợp đồng ủy quyền cần được lập
thành văn bản, được công chức hoặc chứng thực trong trường hợp pháp luật có
quy định.
Ví dụ: Ông Hạnh ủy quyền cho bà Ba bán đất có diện tích 200m 2 đất thổ cư
tại khu 1, thị trấn Mỹ Phước, huyện Tân Phước, tỉnh Tiền Giang. Cả hai làm hợp
đồng ủy quyền (trong đó: nội dung ủy quyền ghi rõ phạm vi ủy quyền, thời hạn,

thù lao, cụ thể: Ông Hạnh ủy quyền cho bà Ba được ký hợp đồng chuyển
nhượng quyền sử dụng, thời hạn 01 năm, với thù lao 20 triệu đồng), lập thành
văn bản và phải được công chứng hoặc chứng thực thì khi đó hợp đồng ủy
quyền mới phát sinh hiệu lực.

GVHD:

Trang 20

SVTH: ……………..


Luận văn tốt nghiệp

Hợp đồng ủy quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất

Trên thực tế, văn bản ủy quyền có hai loại là hợp đồng ủy quyền và giấy ủy
quyền. Bộ luật dân sự năm 2015 cũng như các văn bản quy phạm pháp luật về
công chứng, chứng thực không đề cập đến giấy ủy quyền. Giấy ủy quyền thể
hiện được sử dụng cho những trường hợp ủy quyền đơn giản như ủy quyền
trong vụ kiện tranh chấp có liên quan đến thẩm quyền về quản lý đất đai, tranh
chấp tài sản, ủy quyền nhận giấy tờ. Theo Nghị định 75/2000/NĐ-CP thì giấy ủy
quyền chỉ cần chữ ký của người ủy quyền thì khi đó ủy quyền bằng giấy ủy
quyền là một hành vi pháp lý dân sự đơn phương. Để giấy ủy quyền mang bản
chất của một hợp đồng ủy quyền và chịu sự điều chỉnh của pháp luật về hợp
đồng ủy quyền thì giấy ủy quyền cần có chữ ký của bên ủy quyền và bên được
ủy quyền. Tuy nhiên, Bộ luật dân sự năm 2015 không có quy định hình thức của
hợp đồng ủy quyền do đó việc giao kết hợp đồng ủy quyền có thể áp dụng
nguyên tắc chung là quyền tự do lựa chọn hình thức của các bên trong hợp đồng.
2.1.2. Năng lực giao kết hợp đồng ủy quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất.

2.1.2.1. Bên ủy quyền là cá nhân, hộ gia đình
Muốn tồn tại hợp đồng ủy quyền trước hết đòi hỏi người ủy quyền phải có
năng lực giao kết hợp đồng ủy quyền. Luật cũng đã khẳng định người tham gia
giao dịch dân sự phải có năng lực hành vi dân sự (điểm a khoản 1 Điều 17
BLDS 2015) ngoài năng lực giao kết hợp đồng còn đòi hỏi bên ủy quyền phải có
năng lực thực hiện công việc giao cho người được ủy quyền. Cho dù công việc
hay giao dịch pháp lý là do chính người ủy quyền thực hiện nhưng vì lý do nhất
định không thể tự mình thức hiện mà phải trao quyền thực hiện cho người khác.
Ví dụ: Ủy quyền bán tài sản là bất động sản thì người ủy quyền phải có
quyền định đoạt tài sản đó nếu không hợp đồng đó sẽ bị tuyên vô hiệu hoặc bị
hủy bỏ và nếu hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu trong trường hợp người được ủy
quyền biết người ủy quyền không có năng lực thực hiện công việc ủy quyền
nhưng vẫn giao kết hợp đồng ủy quyền thì khi xảy ra tranh chấp thì người được
ủy quyền chịu trách nhiệm liên đới để bồi thường thiệt hại cho người thứ ba
ngay tình cùng tham gia xác lập giao dịch được ghi nhận trong hợp đồng ủy
quyền. Tuy nhiên, trách nhiệm dân sự của người được ủy quyền trong trường
hợp này không được quy định rõ ràng trong khung cảnh của luật định. Trách
nhiệm dân sự sẽ thể hiện rõ ràng nhất ở người ủy quyền.
Pháp luật quy định chủ thể có quyền ủy quyền tại khoản 1, 2 Điều 138 của
Bộ luật dân sự năm 2015: “cá nhân, pháp nhân có thề ủy quyền cho cá nhân,
pháp nhân khác xác lập thực hiện giao dịch dân sự”; “các thành viên hộ gia đình,
tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân có thể thỏa thuận cử cá
nhân, pháp nhân khác đại diện theo ủy quyền xác lập thực hiện giao dịch dân sự
có liên quan đến tài sản chung của các thành viên hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ
chức khác không có tư cách pháp nhân”. Tóm lại ủy quyền là việc mốt người ủy
quyền cho một người khác thực hiện công việc nhân danh mình hay nhân danh
chủ thể mà mình đại diện theo pháp luật.
2.1.2.2. Bên nhận ủy quyền là cá nhân hoặc pháp nhân.

GVHD:


Trang 21

SVTH: ……………..


Luận văn tốt nghiệp

Hợp đồng ủy quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất

Người được ủy quyền chỉ cần có năng lực giao kết hợp đồng ủy quyền
chức không nhất thiết phải có năng lực thực hiện công việc được giao theo hợp
đồng ủy quyền. Bởi vì bản chất ủy quyền là công việc được thực hiện nhân danh
người ủy quyền chứ không nhân danh người được ủy quyền, người được ủy
quyền chỉ là công cụ mà người ủy quyền sử dụng để thực hiện công việc *
Theo khoản 3 Điều 138 của Bộ luật dân sự năm 2015 quy định: “Người từ
đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi có thể là người đại diện theo ủy
quyền, trừ trường hợp pháp luật quy định giao dịch dân sự phải do người từ đủ
mưới tám tuổi trở lên xác lập, thực hiện”. Về nguyên tắc, người từ đủ mười lăm
tuổi có thể đóng vai trò người được ủy quyền trừ khi pháp luật bắt buộc công
việc ủy quyền phải cho người từ đủ mười tám tuổi trở lên xác lập, thực hiện.
Trước đây Bộ luật dân sự năm 1995 quy định: “Người chưa thành niên, người
mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự không
được làm người đại diện theo ủy quyền” (khoản 2 Điều 152 BLDS 1995).
Từ quy định đó, có thể suy lý ngược và cho ra khẳng định người đã thành
niên có đầy đủ năng lực hành vi dân sự mới được làm người đại diện theo ủy
quyền. Theo Bộ luật dân sự năm 2015 đã tạo nên sự phá cách mang tính tích cực
so với quy định về cùng nội dung người có thể làm đại diện theo ủy quyền trong
Bộ luật dân sự năm 1995. Có nhiều quy định hiện hành khẳng định vai trò chủ
thể của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi như người từ đủ

mười lăm tuổi trở lên đã trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật lao động; Có
thể tự minh xác lập, thực hiện giao dịch dân sự mà không cần sự đồng ý của
người đại diện theo pháp luật nếu có tài sản riêng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ.
Do đó, pháp luật quy định người từ đủ mười lăm tuổi trở lên có thể làm người
đại diện theo ủy quyền tạo nên sự nhất quán trong những chế định pháp luật và
cả thực tiễn áp dụng.
Tuy nhiên nếu một người phát tán tài sản do nghiện ma túy, nghiện các chất
kích thích khác mà chưa bị Tòa án tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự thì
vẫn có quyền đại diện theo ủy quyền. Trong trường hợp một người không có khả
năng nhận thức được hành vi của mình nhưng chưa bị tuyên bố mất năng lực
hành vi dân sự giao kết việc ủy quyền với tư cách là người được ủy quyền thì
hợp đồng có thể bị tuyên bố vô hiệu do không có sự ưng thuận của người được
ủy quyền nếu có đủ bằng chứng cho thấy ở thời điểm giao kết, người được ủy
quyền thực sự trong tình trạng không nhận thức được hành vi của mình nhưng
lại hoàn toàn phù hợp với nội dung hợp đồng ủy quyền thì người ủy quyền vẫn
bị ràng buộc vào các quan hệ xác lập từ công việc đó.
Bên cạnh đó người được ủy quyền là cá nhân, pháp luật còn cho phép pháp
nhân là người được ủy quyền (khoản 2 Điều 138 của BLDS 2015). Một khi một
bên ủy quyền cho pháp nhân đại diện cho mình thì pháp nhân có vai trò như một
tổ chức cung ứng dịch vụ có đầy đủ năng lực chuyên môn để thực hiện công
việc theo sự ủy quyền của khách hàng
2.1.3. Đối tượng của hợp đồng ủy quyền chuyển nhượng quyền sử
dụng đất.
GVHD:

Trang 22

SVTH: ……………..



Luận văn tốt nghiệp

Hợp đồng ủy quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất

Đối tượng của hợp đồng là nội dung của nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng hày
là sự đáp ứng của người giao kết đối với người cùng giao kết trong khuôn khổ
thực hiện hợp đồng.
Đối với hợp đồng ủy quyền, hợp đồng này có đối tượng là một công việc
phải thực hiện hay nói cách khác là một giao dịch pháp lý phải được xác lập hoặc
được thực hiện hoặc phải xác lập và thực hiện. Giao dịch pháp lý phải được xác
định hoặc có thể xác định, tức là giao dịch pháp lý này phải cụ thể làm sao cho
người được ủy quyền biết để xác lập, thực hiện hay xác lập và thực hiện. Bên
cạnh, công việc ủy quyền – giao dịch pháp lý mà người được ủy quyền phải thực
hiện không được vi phạm điều cấm của pháp luật, tức là không được thực hiện
những hành vi mà pháp luật không cho phép. Một khi chủ thể không có quyền thì
càng không thể trao quyền
2.1.4. Thời hạn của Hợp đồng ủy quyền để chuyển nhượng quyền sử
dụng đất.
Điều 563 Bộ Luật dân sự năm 2015 quy định: “Thời hạn ủy quyền do các
bên thỏa thuận hoặc do pháp luật quy định; nếu không có thỏa thuận và pháp
luật không có quy định thì hợp đồng ủy quyền có hiệu lực 01 năm, kể từ ngày
xác lập việc ủy quyền”. Nội dung điều luật này được giữ nguyên theo quy định
về thời hạn ủy quyền tại Điều 582 Bộ luật dân sự năm 2005.
Khi thỏa thuận thời hạn ủy quyền, các bên có thể có thỏa thuận số ngày cụ
thể hoặc có thể là một sự kiện bởi vì thời hạn có thể xác định bằng phút, giờ,
ngày, tuần, tháng, năm hoặc bằng một sự kiện có thể xảy ra (Khoản 2 Điều 144
Bộ Luật dân sự năm 2015). Ví dụ, có thể thỏa thuận thời hạn ủy quyền kết thúc
khi bán xong miếng đất. Đối với những công việc kéo dài, lặp đi lặp lại nhiều
lần như ủy quyền nhận hàng, ủy quyền...... trong thời gian dài thì các bên cần
thỏa thuận rõ thời hạn.

Thời hạn ủy quyền thực chất là thời hạn tồn tại tư cách của người ủy quyền
và người được ủy quyền chứ không phải là thời hạn thực hiện công việc được
giao. Bỡi lẽ, nếu chính công việc được giao phải thực hiện trong thời hạn thì
thực hiện công việc công việc trong một thời hạn đó là nội dung nghĩa vụ của
người được ủy quyền. Khi thời hạn ủy quyền kết thúc, hợp đồng ủy quyền chấm
dứt và các bên giao kết hợp đồng ủy quyền không còn mang tư cách đó nữa.
Nếu công việc chưa được thực hiện hoặc thực hiện chưa xong và người ủy
quyền vẫn muốn người được ủy quyền tiếp tục thay mình thực hiện công việc
đó, thì các bên phải giao kết hợp đồng ủy quyền mới hoặc gia hạn hợp đồng cũ.
Sau khi hợp đồng ủy quyền hết hạn, nếu không gia hạn hợp đồng cũ và không
giao kết hợp đồng mới mà người được ủy quyền vẫn tiếp tục thực hiện công việc
ủy quyền thì người này sẽ ở trong tình trạng thực hiện công việc không có ủy
quyền nếu người ủy quyền không biết hoặc biết nhưng không phản đối 9Điều
574 Bộ Luật dân sự năm 2015).
Thời hạn là yếu tố không thể thiếu trong hợp đồng ủy quyền. Hợp đồng ủy
quyền cần thời hạn để có tác dụng chấm dứt hợp đồng ủy quyền một cách đương

GVHD:

Trang 23

SVTH: ……………..


Luận văn tốt nghiệp

Hợp đồng ủy quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất

nhiên khi thời hạn ủy quyền kết thúc. Khi đó sẽ bảo vệ được quyền và lợi ích
của người bên ủy quyền. Bởi sẽ có khả năng người được ủy quyền vẫn tiếp tục

dựa vào hợp đồng ủy quyền để giao dịch trong điều kiện quan hệ giữa người ủy
quyền và người được ủy quyền đã thay đổi hoặc việc ủy quyền không còn cần
thiết mà người ủy quyền không còn nhớ đến hợp đồng ủy quyền trước đây để
đơn phương chấm dứt thực hiện.....
2.2. Hiệu lực của hợp đồng ủy quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất
Hợp đồng ủy quyền có tác dụng xác lập hai nhóm quan hệ: quan hệ giữa
người ủy quyền với người được ủy quyền và quan hệ giữa người ủy quyền,
người được ủy quyền với bên thứ ba.
2.2.1. Quyền và nghĩa vụ của bên ủy quyền
* Quyền của người ủy quyền:
Bên ủy quyền có những quyền được quy định tại Điều 568 Bộ luật dân sự
năm 2015 quy định sau đây:
“1. yêu cầu bên được ủy quyền thông báo đầy đả về việc thực hiện công
việc ủy quyền;
2. Yêu cầu bên được ủy quyền giao lại tài sản, lợi ích thu được từ vệc thực
hiện công việc ủy quyền, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.
3. Được bồi thường thiệt hại, nếu bên được ủy quyền vi phạm nghĩa vụ quy
định tại Điều 565 của Bộ Luật dân sự năm 2015”
Đây là những quyền làm phát sinh những nghĩa vụ tương ứng của người
được ủy quyền như đã nêu tại Điều 565 Bộ Luật dân sự năm 2015. Vì vậy công
việc mà người được ủy quyền thực hiện là nhân danh người ủy quyền và có hiệu
lực ràng buộc người ủy quyền. Nên người ủy quyền có quyền yêu cầu người
được ủy quyền thông báo đầy đủ về việc thực hiện công việc ủy quyền. Quyền
yêu cầu tại khoản 1 Điều 568 Bộ Luật dân sự năm 2015 giúp người ủy quyền
biết tiến độ của việc ủy quyền và những vấn đề phát sinh trong lúc thực hiện
công việc để có những xử lý kịp thời.
Người ủy quyền còn có quyền yêu cầu người được ủy quyền giao lại tài
sản, lợi ích thu được từ việc thực hiện công việc ủy quyền bởi vì bản chất những
tài sản những lợi ích này thuộc sở hữu của người ủy quyền. Người được ủy
quyền chỉ là người làm thay và nhân danh người ủy quyền, chứ không là chủ thể

của công việc theo hợp đồng ủy quyền với bên thứ ba nên những tài sản, những
lợi ích này không gắn liền với người được ủy quyền.
Ngoài ra, người ủy quyền còn có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại nếu
người được ủy quyền vi phạm các nghĩa vụ của người được ủy quyền. Quyền
này hiển nhiên tồn tại để bảo vệ quyền lợi của người ủy quyền, để người được
ủy quyền hành xử theo đúng nghĩa vụ của mình, không gây phương hại cho
người ủy quyền. Nếu vi phạm những nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm trước
người ủy quyền

GVHD:

Trang 24

SVTH: ……………..


Luận văn tốt nghiệp

Hợp đồng ủy quyền chuyển nhượng quyền sử dụng đất

* Nghĩa của bên ủy quyền
Điều 567 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định người ủy quyền có những
nghĩa vụ sau đây:
“1. Cung câp thông tin, tài liệu và phương tiện cần thiết để bên được ủy
quyền thực hiện công việc;
2. Chịu trách nhiệm về cam kết cho bên được ủy quyền thực hiện trong
phạm vi ủy quyền;
3. Thanh toán chi phí hợp lý mà bên được ủy quyền đã bỏ ra để thực hiện
công việc được ủy quyền và trả thù lao cho bên được ủy quyền, nếu có thỏa
thuận về việc trả thù lao”.

- Nghĩa vụ hợp tác; Tương ứng với quyền yêu cầu cung cấp thông tin, tài
liệu và phương tiện của người được ủy quyền là nghĩa vụ hợ tác của người ủy
quyền phải cung cấp đầy dủ thông tin, tài liệu hay phương tiện cần thiết để
người được ủy quyền thực hiện công việc ủy quyền một cách tốt nhất. Nghĩa vụ
hợp tác này cũng xuất phát từ lợi ích của người ủy quyền. Người ủy quyền phải
tạo điều kiện thuận lợi nhất theo khả năng của mình để người được ủy quyền
hoàn thành công việc ủy quyền.
- Nghĩa vu chịu trách nhiệm về cam kết cho bên được ủy quyền thực hiện
trong phạm vi ủy quyền: Bản chất hợp đồng ủy quyền là thực hiện công việc
nhân danh người khác vì vậy người ủy quyền phải chịu trách nhiệm về các cam
kết do người được ủy quyền thực hiện nhân danh người ủy quyền trong phạm vi
ợp đồng ủy quyền. Ở đây cần đặc biệt chú ý đến phạm vi ủy quyền sẽ không
chịu trách nhiệm nếu bên được ủy quyền thực hiện những công việc ngoài phạm
vi ủy quyền được giao. Còn nếu những cam kết trong phạm vi ủy quyền mà
không có lợi ích cho mình thì người ủy quyền vẫn phải chịu trách nhiệm đối với
người thứ ba.
- Nghĩa vụ thanh toán thù lao và hoàn trả chi phí: Tiền thù lao cho người
được ủy quyền sẽ do người ủy quyền và người được ủy quyền thỏa thuận hoặc
pháp luật quy định. Chẳng hạn, Luật Kinh doanh bất động sản quy định người
môi giới bất động sản thực hiện công việc ủy quyền sẽ được thù lao. Các bên tự
thỏa thuận mức thù lao, nếu không có thỏa thuận sẽ áp dung thù lao theo tập
quán nghề nghiệp. Thù lao được người ủy quyền thanh toán ngay thời điểm và
tại thời điểm hoàn thành công việc ủy quyền, nếu như không có thỏa thuận hoặc
pháp luật không có quy định. Tại Khoản 3 Điều 567 Bộ luật dân sự năm 2015
không nó rõ nhưng thù lao phải được người ủy quyền thanh toán cho người
được ủy quyền ngay cả trong trường hợp trong việc ủy quyền hoàn thành không
như ý muốn của người ủy quyền.
2.2.2. Quyền và nghĩa vụ của bên được ủy quyền
* Quyền của người được ủy quyền
Theo qui định tại Điều 566 Bộ Luật dân sự năm 2015 quy định quyền của

bên được ủy quyền quy định “Yêu cầu bên ủy quyền cung cấp thông tin, tài liệu
GVHD:

Trang 25

SVTH: ……………..


×