Tải bản đầy đủ (.docx) (24 trang)

Tiểu luận Vận dụng tư tưởng HCM trong việc xây dựng, chỉnh đốn và đổi mới Đảng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (153.16 KB, 24 trang )

MỘT SỐ BIỆN PHÁP
RÈN KĨ NĂNG VIẾT VĂN MIÊU TẢ
MỤC LỤC
CHO HỌC
SINH LỚP 5
STT
Nội dung
Trang
A
1
2
3
4
B
I
II
2.1
2.2
2.3
2.4
III
3.1
3.2

MỞ ĐẦU
Lí do chọn đề tài
Mục đích nghiên cứu
Nhiệm vụ nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu
NỘI DUNG
Xây dựng Đảng – quy luật tồn tại và phát triển của Đảng


Nội dung công tác xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam
Xây dựng Đảng về tư tưởng, lí luận
Xây dựng Đảng về chính trị
Xây dựng Đảng về tổ chức, bộ máy, công tác cán bộ
Xây dựng Đảng về đạo đức
SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY

3
3
4
4
4
5
5
8
8
9
11
13
16

DỰNG ĐẢNG TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Yêu cầu khách quan phải xây dựng Đảng trong sạch, vững

16

mạnh trong thời kì mới của cách mạng Việt Nam
Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng cầm

21


quyền trong thời kì mới của cách mạng Việt Nam

3.2.
1
3.2.
2
C
D

21
Nâng cao năng lực cầm quyền của Ðảng
Nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức đảng, cấp ủy đảng và

22

đảng viên
KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO

24
25

A. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn
luyện, là đội tiên phong cách mạng, bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công

1



nhân và dân tộc Việt Nam. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã vượt
qua mọi khó khăn, gian khổ và hy sinh, giành nhiều thắng lợi có ý nghĩa chiến
lược và mang tính thời đại, làm cho đất nước, xã hội và con người Việt Nam
ngày đổi mới sâu sắc. Lịch sử của Đảng là một pho lịch sử bằng vàng. Người
nói : “Với tất cả tinh thần khiêm tốn của người cách mạng, chúng ta vẫn có
quyền nói rằng : Đảng ta thật là vĩ đại!”
Tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam là sự kế thừa và
phát huy sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mac – Lênin về Đảng Cộng sản trong
điều kiện lịch sử cụ thể của một nước thuộc địa, tàn tích phong kiến nặng nề,
kinh tế nghèo nàn lạc hậu, trình độ khoa học – kĩ thuật kém phát triển, giai
cấp công nhân nhỏ bé, khác hẳn các nước tư bản phát triển. Đó là một trong
những đóng góp to lớn của Người, làm phong phú thêm lý luận của chủ nghĩa
Mac – Lênin về Đảng Cộng sản.
Lịch sử cách mạng Việt Nam đã khẳng định vai trò cực kì quan trọng
của Đảng ta. Ngày nay, khi đất nước đang tiến nhanh trên con đường công
nghiệp hóa, hiện đại hóa vai trò lãnh đạo của Đảng không những không mất
đi mà càng quan trọng. Để thực hiện được vai trò của mình thì Đảng phải
thường xuyên đổi mới và tự chỉnh đốn, đó là vấn đề luôn mang tính cấp thiết
và không bao giờ cũ đi trong mọi thời kì. Trong quan niệm của Hồ Chí Minh,
xây dựng và chỉnh đốn Đảng gắn liền với sự tồn tại của Đảng. Còn Đảng, còn
hoạt động , còn cần phải tổ chức xây dựng, chỉnh đốn. Tư tưởng Hồ Chí Minh
về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong sạch, vững mạnh chiếm một vị
trí quan trọng toàn bộ di sản tư tưởng của Người.
Vậy tư tưởng của Người về Đảng Cộng sản, đặc biệt là về vấn đề xây
dựng, đổi mới và chỉnh đốn Đảng như thế nào và Đảng ta đã vận dụng tư
tưởng đó của Người vào công cuộc đổi mới và chỉnh đốn Đảng trong giai
đoạn hiện nay ra sao ? Đề tài nghiên cứu của em sẽ làm rõ vấn đề trên.
2. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ các nội dung :

2

2


- Sự cần thiết và nội dung xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam theo tư
tưởng của Người.
- Sự kế thừa và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong
giai đoạn hiện nay.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tìm hiểu về những quan điểm, quan niệm, tư tưởng, lí luận của Chủ tịch
Hồ Chí Minh về công tác xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong sạch, vững
mạnh.
4. Phương pháp nghiên cứu
- Kết hợp phương pháp lịch sử và logic.
- Các phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, thống kê.
- Phương pháp liên ngành khoa học xã hội và nhân văn, lí luận chính
trị.

B. NỘI DUNG
I. Xây dựng Đảng – quy luật tồn tại và phát triển của Đảng
Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong sạch
vững mạnh chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong toàn bộ di sản tư tưởng
3

3


của Người. Với Hồ Chí Minh, xây dựng Đảng là một nhiệm vụ tất yếu, thường
xuyên để Đảng hoàn thành vai trò chiến sĩ tiên phong trước giai cấp, dân tộc,

nhân dân.
Theo Người, xây dựng Đảng là một nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu dài.
Khi cách mạng gặp khó khăn, xây dựng Đảng để cán bộ, đảng viên củng cố lập
trường, quan điểm, bình tĩnh, sáng suốt, không bi quan, nao núng, bị động. Khi
cách mạng trên đà thắng lợi cũng cần đến xây dựng Đảng để xây dựng những
quan điểm, tư tưởng cách mạng, khoa học, ngăn ngừa bệnh chủ quan, tự mãn,
lạc quan tếu và bệnh “kiêu ngạo cộng sản”. Người nhận định: “Một dân tộc, một
đảng và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất
định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ
không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”. Xây dựng, chỉnh đốn
Đảng là công việc quyết định sự sống còn của Đảng.
Những nội dung trong công tác xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam mà
Người đề ra, nếu được toàn Đảng, toàn dân, đặc biệt là những người cán bộ,
đảng viên nghiên cứu và học tập chắc chắn sẽ góp phần quan trọng trong việc
làm cho toàn Đảng trở thành một khối thống nhất về nhận thức và tư tưởng, làm
cơ sở cho sự thống nhất về hành động, đủ sức lái con thuyền cách mạng Việt
Nam tiến về phía trước, vượt qua được những khó khăn thử thách đó.
Một là, xây dựng và chỉnh đốn Đảng bị chế định bởi quá trình phát triển
liên tục của sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo. Đảng lãnh đạo giai cấp và
nhân dân đánh đổ đế quốc, phong kiến, xây dựng chế độ dân chủ mới, tạo điều
kiện tiến dần lên chủ nghĩa xã hội nhằm giải phóng dân tộc. Giải phóng giai cấp
và giải phóng con người. Sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo là một quá
trình, bao gồm nhiều thời kỳ, nhiều giai đoạn; mỗi thời kỳ giai đoạn có những
mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể và những yêu cầu riêng. Trước diễn biến của điều
kiện khách quan, bản thân Đảng cũng phải tự chỉnh đốn, tự đổi mới để vươn lên
làm tròn trọng trách trước giai cấp và dân tộc. Sinh thời, mỗi khi cách mạng
chuyển giai đoạn, bắt đầu triển khai thực hiện nhiệm vụ mới. Hồ Chí Minh bao
giờ cũng chủ trương trước hết phải xây dựng Đảng. Chủ trương đó vừa khẳng
4


4


định đúng vị trí, vai trò lãnh đạo của Đảng, vừa thể hiện khả năng nhạy bén, làm
chủ thời cuộc của người đứng đầu tổ chức Đảng. Trước suy nghĩ và nhận thức
của Hồ Chí Minh. Đảng ta lớn lên, trưởng thành gắn liền với sự phát triển của
đất nước và dân tộc, đang thực sự là "một cơ thể sống" luôn tự hoàn thiện và
vượt lên.
Hai là, đối với toàn Đảng, Hồ Chí Minh cũng chỉ rõ: Đảng sống trong xã
hội, là một bộ phận hợp thành cơ cấu của xã hội, mỗi cán bộ, đảng viên đều chịu
ảnh hưởng, tác động của môi trường xã hội, các quan hệ xã hội, cả cái tốt và cái
xấu, cái tích cực, tiến bộ và cái tiêu cực, lạc hâu. Do đó, mỗi cán bộ, đảng viên
phải thường xuyên rèn luyện; Đảng phải chú ý đến việc xây dựng Đảng. Khả
năng tiếp cận nguồn sinh lực tiềm tàng và "đề kháng" các căn bệnh xã hội "thẩm
thấu" vào Đảng là phụ thuộc vào hiệu quả công tác xây dựng Đảng. Trong hoàn
cảnh xã hội thuộc địa nửa phong kiến, kinh tế nông nghiệp là chủ yếu, trình độ
sản xuất lạc hậu mà tiến dần lên chủ nghĩa xã hội như Việt Nam thì việc xây
dựng Đảng càng phải được quan tâm đặc biệt.
Ba là, xây dựng Đảng là cơ hội để mỗi cán bộ, đảng viên tự rèn luyện,
giáo dục và tu dưỡng tốt hơn, hoàn thành các nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân
giao phó, đặc biệt là giữ được các phẩm chất đạo đức cách mạng tiêu biểu.
Đảng ta mặc dù có cơ sở khắp cả nước, có những cán bộ và đảng viên tận
tụy, hy sinh vô cùng oanh liệt, nhưng theo Hồ Chí Minh, "vì điều kiện khó khăn,
mà số đông cán bộ và đảng viên chưa được huấn luyện hẳn hoi cho nên tư tưởng
và trình độ chính trị còn thấp kém và lệch lạc. Điều đó tỏ rõ ra ở mỗi khuyết
điểm như: không nắm vững chính sách trường kỳ kháng chiến, tự lực cánh sinh;
không phân biệt rõ ràng bạn và địch, bệnh quan liêu, công thần, và nạn tham ô
hủ hóa khá nặng, v.v."
Xây dựng Đảng là làm cho mỗi cán bộ, đảng viên hiểu rõ, hiểu đúng và
thực hành tốt quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng. Mặt khác, giúp cho

cán bộ đảng viên phải nhìn lại mình, phát huy mặt tốt, loại bỏ mặt xấu vốn có
trong mỗi con người. Hồ Chí Minh cho rằng, cán bộ, đảng viên không phải là
thần thánh, họ là con người. Đã là con người thì ai cũng có hai mặt tốt - xấu,
5

5


thiện - ác thường xuyên đấu tranh với nhau. Trong điều kiện môi trường tốt nếu
cán bộ, đảng viên nỗ lực tu dưỡng, phấn đấu, rèn luyện thì mặt tốt, mặt thiện sẽ
nổi lên, đẩy lùi mặt ác, mặt xấu. Từ đó họ sẽ trở thành người tốt, làm gương cho
quần chúng, có ích cho Đảng, cho cách mạng. Ngược lại trong một môi trường
xã hội không lành mạnh, đầy rẫy sự dối trá lừa lọc, nếu cán bộ, đảng viên buông
thả, thiếu ý chí phấn đấu thì mặt ác, mặt xấu sẽ nổi lên chi phối, kiềm chế mặt
tốt, mặt thiện và lúc đó, họ trở thành người bị tha hóa, biến chất có hại cho
Đảng, cho dân, thậm chí trở thành tội phạm.
Vì thế, để mỗi cán bộ, đảng viên luôn giữ trọn phẩm chất tốt đẹp của
mình, giác ngộ lý tưởng cách mạng, vững vàng về mọi mặt trong điều kiện, môi
trường xã hội khác nhau thì cùng với sự tự giác rèn luyện, phấn đấu, họ còn cần
đến sự giúp đỡ kiểm soát, quản lý từ phía Đảng. Xây dựng Đảng không thể
buông lỏng việc thắt chặt công tác kiểm tra, quản lý cán bộ, đảng viên. Xây
dựng Đảng nếu không được đặt đúng vị trí ngang tầm mà lại buông lỏng kiểm
soát, quản lý thì rất dễ làm cho một bộ phận cán bộ đảng viên bị thoái hóa, biến
chất về đạo đức và lối sống, dẫn đến tha hóa cả về chính trị. Trên bình diện phát
triển cá nhân, xây dựng Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh trở thành nhu cầu tự
hoàn thiện, tự làm trong sạch nhân cách của mỗi cán bộ, đảng viên.
Bốn là, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, cần thường xuyên xây dựng, chỉnh
đốn Đảng, bởi lẽ, với một nhãn quan đặc biệt nhạy bén về chính trị, Người đã
nhìn thấy và nhận diện rõ tính hai mặt vốn có của quyền lực: một mặt, quyền lực
có sức mạnh to lớn để cải tạo xã hội cũ, xây dựng một xã hội mới nếu biết sử

dụng đúng; mặt khác, quyền lực cũng có sức phá hoại ghê ghớm nếu người nằm
quyền lực bị thoái hóa, biến chất, đi vào con đường ham muốn quyền lực, chạy
theo quyền lực, tranh giành quyền lực, lợi dụng quyền lực để lạm quyền, lộng
quyền, đặc quyền, đặc lợi, biến quyền lực của nhân dân giành đặc quyền của cá
nhân.v.v…
Trước lúc đi xa, trong Di chúc, Người căn dặn: “việc cần phải làm trước
tiên là chỉnh đốn lại Đảng, làm cho mỗi đảng viên, mỗi đoàn viên, mỗi chi bộ
đều ra sức làm tròn nhiệm vụ Đảng giao phó cho mình, toàn tâm, toàn ý phục
6

6


vụ nhân dân”. Người cũng từng nhấn mạnh: “Một dân tộc, một Đảng và mỗi
con người, ngày hôm qua là vĩ đại, có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm
nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không
trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân”(1).
Người chỉ rõ: “Muốn hoàn thành tốt mọi việc, thì toàn thể đảng viên và
cán bộ phải chấp hành nghiêm chỉnh đường lối và chính sách của Đảng. Và
muốn như vậy, thì các cấp uỷ đảng phải tăng cường công tác kiểm tra. Vì kiểm
tra có tác dụng thúc đẩy và giáo dục đảng viên và cán bộ làm trọn nhiệm vụ đối
với Đảng, đối với Nhà nước, làm gương mẫu tốt cho nhân dân. Do đó mà góp
phần vào việc củng cố đảng về tư tưởng, về tổ chức”(2).
Vì vậy, Đảng phải đặc biệt quan tâm đến việc chỉnh đốn và đổi mới để
hạn chế, ngăn chặn, đẩy lùi và tẩy trừ mọi tệ nạn do thoái hóa, biến chất gây ra
trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền nhà nước.
Tóm lại, theo Hồ Chí Minh, xây dựng và chỉnh đốn Đảng là vấn đề mang
tính quy luật và là nhu cầu tồn tại và phát triển của bản thân Đảng. Chỉnh đốn và
đổi mới Đảng là nhằm làm cho Đảng thực sự trong sạch, vững vàng cả về chính
trị, tư tưởng và tổ chức; làm cho đội ngũ cán bộ, Đảng viên không ngừng nâng

cao phẩm chất và năng lực trước yêu cầu, đòi hỏi ngày càng cao, càng phức tạp
của nhiệm vụ cách mạng. Đổi mới và chỉnh đốn Đảng sẽ làm cho Đảng trở
thành một khối thống nhất, vững mạnh, đủ sức lái con thuyền cách mạng
Việt Nam vượt qua những khúc quanh đầy thử thách để cập bến thắng lợi.
II. Nội dung công tác xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam
2.1. Xây dựng Đảng về tư tưởng, lý luận
Theo Bác “... chỉ có đảng nào theo lý luận cách mạng tiền phong, đảng
cách mạng mới làm nổi trách nhiệm cách mạng tiền phong”, “Đảng muốn vững
phải có chủ nghĩa làm cốt, trong Đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ
nghĩa ấy” “bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân
chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin”...
7

7


Để đạt mục tiêu cách mạng, Hồ Chí Minh chỉ rõ: phải dựa vào lý luận cách
mạng và khoa học của chủ nghĩa Mac - Lênin, phải làm cho chủ nghĩa Mac
-Lênin trở thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng
Cộng sản Việt Nam.
Đảng lấy chủ nghĩa Mac - Lênin làm cốt có nghĩa là Đảng ta nắm vững tinh
thần của chủ nghĩa Mac - Lênin, lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ
nghĩa Mac - Lênin, đồng thời nắm vững tinh hoa văn hoá dân tộc và trí tuệ thời
đại vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta. Không máy móc, kinh
viện, giáo điều.
Vì vậy, trong tiếp nhận và vận dụng chủ nghĩa Mac - Lênin, Hồ Chí Minh
lưu ý những điểm sau đây:
Một là, việc học tập, nghiên cứu, tuyên truyền chủ nghĩa Mac – Lenin
phải phù hợp với đối tượng.
Hai là, việc vận dụng chủ nghĩa Mac – Lenin phải luôn luôn phù hợp với

từng hoàn cảnh.
Ba là, trong quá trình hoạt động, Đảng ta phải chú ý học tập, kế thừa
những kinh nghiệm tốt của các Đảng cộng sản khác, đồng thời Đảng ta phải tổng
kết kinh nghiệm của mình để bổ sung chủ nghĩa Mac – Lenin.
Bốn là, Đảng ta phải tăng cường đấu tranh để bảo vệ sự trong sáng của
chủ nghĩa Mac – Lenin. Chú ý chống giáo điều, cơ hộ, xét lại chủ nghĩa Mac –
Lenin, chống lại những luận điểm sai trái, xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mac –
Lenin.
2.2. Xây dựng Đảng về chính trị
Tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng Đảng về chính trị có nhiều
nội dung, trong đó đường lối chính trị là một vấn đề cốt tử trong sự tồn tại và
phát triển của Đảng.
Xây dựng Đảng về chính trị trước hết là xây dựng đường lối chính trị
đúng đắn. Đó là một đường lối chính trị dựa trên học thuyết Mac - Lênin vận
dụng sáng tạo trên nền tảng điều kiện cụ thể của Việt Nam qua từng giai đoạn
8

8


nhất định, học tập kinh nghiệm của các đảng cộng sản khác, phù hợp với xu thế
của thời đại.
Người lưu ý phải giáo dục đường lối chính sách của Đảng, thông tin thời
sự cho cán bộ, đảng viên để họ luôn kiên định lập trường, giữ vững bản lĩnh
chính trị trong mọi hoàn cảnh. Đảng, cán bộ và đảng viên phải có một bản lĩnh
chính trị vững vàng, “chớ thấy sóng cả mà ngã tay chèo” trong mọi hoàn cảnh
khó khăn, tình huống phức tạp, mọi bước ngoặt hiểm nghèo, mọi giai đoạn của
cách mạng. Đồng thời Người cũng cảnh báo nguy cơ sai lầm về đường lối chính
trị, gây hậu quả nghiêm trong đến vận mệnh của tổ quốc, sinh mệnh của từng
cán bộ, đảng viên và nhân dân.

Trên cơ sở một đường lối chính trị đúng đắn là độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội. Đảng phải biết tập trung giành thắng lợi từng bước, đi tới thắng lợi
cuối cùng.
Xây dựng Đảng, là trong tư duy và phương pháp cách mạng phải cứng rắn
về nguyên tắc và đường lối chiến lược, mềm dẻo về sách lược, linh hoạt về biện
pháp đấu tranh, vừa có khả năng tập hợp huy động toàn dân, vừa tranh thủ được
sự đồng tình ủng hộ của các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới, tạo
thành một sức mạnh tổng hợp, chiến thắng lũ bán nước và cướp nước.
Xây dựng Đảng về chính trị, là làm đường lối chính trị của Đảng phải
thấm sâu vào mọi cán hộ, đảng viên và nhân dân, làm cho mọi người nắm vững
đường lối của Đảng tạo ra sự nhất trí cao trong Đảng và đồng thuận trong xã hội
vượt qua mọi khó khăn, phức tạp, biến nghị quyết của Đảng thành hiện thực.
Xây phải đi đôi với chống. Phải nhận thức trong điều kiện Đảng cầm
quyền, sự sai lầm về đường lối của Đảng và quan liêu, mệnh lệnh, xa dân sẽ là
nguy cơ của đảng cầm quyển. Vì vậy, phải tránh nguy cơ sai lầm về đường lối
chính trị và thói quan liêu, xa dân. Hai điều đó sẽ dẫn tới thất bại của Đảng.
2.3. Xây dựng Đảng về tổ chứ, bộ máy, công tác cán bộ
- Hệ thống tổ chức của Đảng :
9

9


+ Hệ thống tổ chức của Đảng từ Trung Ương đến cơ sở phải thật chặt chẽ,
có tính kỷ luật cao. Mỗi cấp độ tổ chức có chức năng, nhiệm vụ riêng.
+ Hồ Chí Minh rất coi trọng các tổ chức Đảng ở cơ sở, đặc biệt là chi bộ, vì
đó là tổ chức hạt nhân, quyết định chất lượng lãnh đạo của Đảng.
- Các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng :
+ Tập trung dân chủ
Đây là nguyên tắc cơ bản trong xây dựng Đảng. Giữa “tập trung” “và dân

chủ” có mối quan hệ khăng khít với nhau, là hai yếu tố của một nguyên tắc. Tập
trung trên nền tảng dân chủ, dân chủ dưới sự chỉ đạo của tập trung.
Tập trung là thống nhất về tư tưởng, tổ chức, hành động. Thiểu số phục
tùng đa số, cấp dưới phục tùng cấp trên, đảng viên chấp hành nghị quyết của tổ
chức Đảng. “Đảng tuy nhiều người, nhưng khi tiến hành thì chỉ như một người”.
Dân chủ là của “của quý báu của nhân dân”, là thành quả của cách mạng.
Tất cả mọi người được tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý.
Phải phát huy dân chủ nội bộ nếu không sẽ suy yếu từ bên trong.
+ Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách
Tập thể lãnh đạo vì, nhiều người thì thấy hết mọi việc, hiểu hết mọi mặt của
vấn đề, có nhiều kiến thức, tránh tệ bao biện, quan liêu, độc đoán, chủ quan.
Cá nhân phụ trách vì, “Việc gì đã bàn kỹ lưỡng rồi, kế hoạch định rõ ràng
rồi, thì cần phải giao cho một người hoặc một nhóm ít người phụ trách kế hoạch
đó mà thi hành. Như thế mới có chuyên trách, công việc mới chạy”, tránh bừa
bãi, lộn xộn, vô chính phủ dễ hỏng việc.
Phải khắc phục tệ độc đoán, chuyên quyền, đồng thời chống cả tình trạng
dựa dẫm tập thể, không dán quyết đoán, không dám chịu trách nhiệm.
+ Tự phê bình và phê bình:
Đây là nguyên tắc sinh hoạt đảng, là quy luật phát triển đảng
Mục đích của tự phê bình và phê bình là để làm cho phần tốt trong mỗi con
người, mỗi tổ chức nảy nở như hoa mùa xuân, phần xấu mất dần đi.
Người khẳng định: “Một đảng mà giấu diếm khuyết điểm đó là một đảng
hỏng. Một đảng có gan thừa nhận khuyết điểm của mình, vạch rõ những cái đó
10

10


vì đâu mà có khuyết điểm đó, xét rõ hoàn cảnh sinh ra khuyết điểm đó, rồi tìm
cách để sửa chữa khuyết điểm đó. Như thế là một đảng tiến bộ, mạnh dạn, chắc

chắn, chân chính”.
Thái độ, phương pháp tự phê bình và phê bình được Hồ Chí Minh nêu rõ:
Phải tiến hành thường xuyên như người ta rửa mặt hàng ngày; phải thẳng thắn,
chân thành, trung thực, không nể nang, không giấu diếm và cũng không thêm
bớt khuyết điểm; “phải có tình đồng chí yêu thương lẫn nhau”, tránh lợi dụng
phê bình để nói xấu nhau, bôi nhọ nhau, đả kích nhau...
+ Kỷ luật nghiêm minh và tự giác
Sức mạnh của một tổ chức cộng sản và mỗi đảng viên bắt nguồn từ ý thức
tổ chức kỷ luật nghiêm minh và tự giác.
Nghiêm minh là thuộc về tổ chức đảng, kỷ luật đối với mọi đảng viên
không phân biệt. Mọi đảng viên đều bình đẳng trước Điều lệ Đảng.
Tự giác là thuộc về mỗi cá nhân cán bộ đảng viên đối với Đảng. Kỷ luật
này do lòng tự giác của họ về nhiệm vụ đối với Đảng. Yêu cầu cao nhất của kỷ
luật đảng là chấp hành các chủ trương, nghị quyết của Đảng, tuân theo nguyên
tắc tổ chức, lãnh đạo và sinh hoạt Đảng. “Mỗi đảng viên cần phải làm kiểu mẫu
phục tùng kỷ luật, chẳng những kỷ luật đảng, mà cả kỷ luật của đoàn thể nhân
dân và của cơ quan chính quyền cách mạng”.
+ Đoàn kết thống nhất trong Đảng
Theo Hồ Chí Minh: “Đoàn kết là truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng ta,
của nhân dân ta... phải giữ gìn sự đoàn kết trong Đảng như giữ gìn con ngươi
của mắt mình”. Cơ sở để đoàn kết nhất trí trong Đảng chính là đường lối, quan
điểm của Đảng, điều lệ Đảng.
- Cán bộ, công tác cán bộ của Đảng :
+ Nhận thức rõ tầm quan trọng của cán bộ trong sự nghiệp cách mạng, Hồ
Chí Minh cho rằng, cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy, là mắt khâu trung gian
nối liền giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Muôn việc thành công hay thất bại
đều do cán bộ tốt hay kém. Cho nên người cán bộ phải có đủ đức, đủ tài để phục
vụ cách mạng.
11


11


+ Công tác cán bộ là công tác gốc của Đảng. Nội dung của nó bao hàm các
mắt khâu liên hoàn, liên quan chặt chẽ với nhau, gồm: tuyển chọn cán bộ; đào
tạo, huấn luyện, bồi dưỡng cán bộ; đánh giá đúng cán bộ; tuyển dụng, sắp xếp,
bố trí cán bộ; thực hiện các chính sách đối với cán bộ.
2.4. Xây dựng Đảng về đạo đức
Hồ Chí Minh quan niệm đạo đức cách mạng là gốc của người cách mạng,
từ rất sớm và xuyên suốt cuộc đời cách mạng của mình. Cuốn sách Đường kách
mệnh năm 1927 không phải là một chuyên luận về vấn đề đạo đức cách mạng,
nhưng ở trang đầu cuốn sách, Người đã nêu lên hai mươi ba điều về tư cách một
người cách mạng, giải quyết ba mối quan hệ: Với mình, với người, với việc.
Những thập kỷ bốn mươi, năm mươi, sáu mươi, Người đều có những bài viết
ngắn gọn, súc tích về đạo đức cách mạng. Trong Di chúc, Người nhấn mạnh:
“Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm
nhuần đạo đức cách mạng, thực sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư. Phải
giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người
đầy tớ thật trung thành của nhân dân... Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo
đức cách mạng cho đoàn viên và thanh niên, đào tạo họ thành những người
thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên”.
Người coi đạo đức như gốc của cây, như nguồn của sông, cũng như sông
thì có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn. Cây phải có gốc, không
có gốc thì cây héo. Người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù
tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân. Vì muốn giải phóng cho dân
tộc, giải phóng cho loài người là một công việc to tát mà tự mình không có đạo
đức, không có căn bản, tự mình đã hủ hoá, xấu xa thì còn làm nổi việc gì? (3) .
Vai trò nền tảng của đạo đức cách mạng được Hồ Chí Minh khẳng định: “Làm
cách mạng để cải tạo xã hội cũ thành xã hội mới, là một sự nghiệp rất vẻ vang,
nhưng nó cũng là một nhiệm vụ rất nặng nề, một cuộc đấu tranh rất phức tạp, lâu

dài, gian khổ. Sức có mạnh mới gánh được nặng và đi được xa. Người cách
mạng phải có đạo đức cách mạng làm nền tảng, mới hoàn thành được nhiệm
12

12


vụ cách mạng vẻ vang” (4) . Đạo đức trở thành nhân tố quyết định sự thành bại
của mọi công việc, phẩm chất mỗi con người: “Mọi việc thành hay là bại, chủ
chốt là do cán bộ có thấm nhuận đạo đức cách mạng, hay là không”, “Tuy năng
lực và công việc mỗi người có khác nhau, người làm việc to, người làm việc
nhỏ, nhưng ai giữ được đạo đức cách mạng đều là người cao thượng”.
Đạo đức còn “có ảnh hưởng lớn đến sự nghiệp đổi xã hội cũ thành một xã
hội mới và xây dựng thuần phong mỹ tục”. “Có đạo đức cách mạng thì khi gặp
khó khăn gian khổ, thất bại, cũng không sợ sệt, rụt rè, lùi bước…, khi gặp thuận
lợi và thành công cũng vẫn giữ vững tinh thần gian khổ, chất phác, khiêm tốn,
“lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”…, không kèn cựa về mặt hưởng thụ, không
công thần, không quan liêu, không kiêu ngạo, không hủ hoá”.
Nghiên cứu di sản tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh, ta thấy Người có
những lời dạy với những phẩm chất đạo đức cụ thể cho từng đối tượng. Người
nêu cái đúng, cái tốt, cái hay, đồng thời cũng chỉ ra cái sai, cái xấu, cái dở để
giáo dục đạo đức cho các tầng lớp nhân dân. Qua đó, Hồ Chí Minh đã nêu bật
những phẩm chất đạo đức cơ bản nhất của con người Việt Nam trong thời đại
mới. Đây cũng là những phẩm chất của nền đạo đức mới, đạo đức cách mạng
Việt Nam.
Trung với nước, hiếu với dân : Đây là phẩm chất đạo đức mà Chủ tịch Hồ
Chí Minh khẳng định là một trong những phẩm chất của đạo đức cách mạng
Việt Nam.
Từ chỗ “trung với vua, hiếu với cha mẹ” chuyển thành “trung với nước,
hiếu với dân” là một sự đảo lộn trong quan niệm đạo đức truyền thống. Hồ Chí

Minh đã viết: “Đạo đức cũ như người đầu ngược xuống đất chân chổng lên trời.
Đạo đức mới như người hai chân đứng vững được dưới đất, đầu ngửng lên
trời”(6) . Nhân dân từ chỗ là kẻ nghèo hèn, phải được chăn dắt, sai khiến trở
thành lực lượng làm nên lịch sử, sáng tạo ra lịch sử. Trước, quan là phụ mẫu của
dân, thì nay - Đảng, cán bộ, đảng viên là “đầy tớ trung thành của nhân dân”.
Theo Hồ Chí Minh, trung với nước, hiếu với dân là phải suốt đời đấu tranh cho
cách mạng, ra sức làm việc, giữ vững kỷ luật, thực hiện tốt đường lối, chính sách
13

13


của Đảng. Hồ Chí Minh dạy rằng, hiếu với dân thì phải hoà mình với quần
chúng thành một khối, tin quần chúng, hiểu quần chúng, lắng nghe ý kiến của
quần chúng, làm cho dân tin, dân phục, dân yêu, đoàn kết quần chúng chặt chẽ
xung quanh Đảng, tổ chức tuyên truyền và động viên quần chúng hăng hái thực
hiện chính sách và nghị quyết của Đảng; phải lấy dân làm gốc, phải thực hiện
dân chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Đảng, Nhà nước hoạt động phải gần dân,
thân dân, lấy trí tuệ ở dân, học hỏi dân, phải biết làm học trò dân mới làm được
thầy học của dân. Chỉ có thực hiện được như thế thì người cách mạng mới được
dân tin yêu, cách mạng mới đi đến thành công.
Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư : Phẩm chất này gắn bó chặt chẽ
với phẩm chất “trung với nước, hiếu với dân”. Cần, kiệm, liêm, chính đối với
cán bộ đảng viên lại càng cần thiết, bởi vì: “Cán bộ các cơ quan, các đoàn thể,
cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền mà thiếu
lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút” . Theo Hồ Chí Minh, càng có
chức, có quyền càng cần phải cần kiệm, liêm, chính. Người viết: “Những người
trong các công sở đều có nhiều hoặc ít quyền hành. Nếu không giữ đúng Cần,
Kiệm, Liêm, Chính thì dễ trở nên hủ bại, biến thành sâu mọt của dân”(7) .
Chí công, vô tư là không nghĩ đến mình trước, hưởng thụ đi sau, là “lòng

mình chỉ biết vì Đảng, vì Tổ quốc, vì đồng bào”. Hồ Chí Minh đòi hỏi, thực
hành chí công vô tư là phải “kiên quyết quét sạch chủ nghĩa cá nhân, nâng cao
đạo đức cách mạng”. Bởi vì, chủ nghĩa cá nhân là trái với chủ nghĩa tập thể, trái
với đạo đức cách mạng.
Giáo dục đạo đức cách mạng là một nội dung quan trọng trong việc tu
dưỡng, rèn luyện của cán bộ, đảng viên. Giáo dục đạo đức các mạng gắn chặt
với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân nhằm làm cho Đảng luôn trong
sạch, vững mạnh. Vì vậy, đạo đức cách mạng là vô luận trong hoàn cảnh nào,
cũng phải quyết tâm đấu tranh chống mọi kẻ địch.
III. Sự vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng sản Việt Nam trong
công cuộc xây dựng và chỉnh đốn Đảng hiện nay
14

14


3.1. Yêu cầu khách quan phải xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh trong
thời kì mới của cách mạng Việt Nam
Trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ kính yêu của Đảng và
dân tộc ta đã căn dặn: “Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán
bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính,
chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người
lãnh đạo, là người đầy tớ trung thành của nhân dân”(7). Là người sáng lập,
lãnh đạo và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam, trong cuộc đời hoạt động cách
mạng của mình, Hồ Chí Minh không ngừng chăm lo xây dựng, rèn luyện Đảng
ta thành một đảng thật sự trong sạch, vững mạnh, tiêu biểu cho trí tuệ, đạo đức,
lương tâm và danh dự của dân tộc.
Có thể nói, từ ngày thành lập Đảng, vận mệnh của dân tộc luôn gắn liền
với vận mệnh của Đảng. Xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là điều kiện
quyết định thắng lợi của sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Phải đổi mới, chỉnh

đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng
Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo
đức; phải đoàn kết nhất trí cao, gắn bó mật thiết với nhân dân; có phương thức
lãnh đạo khoa học, có đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ phẩm chất và năng lực, đạo
đức và lối sống…Đây thực sự là nhiệm vụ then chốt và cấp bách, có ý nghĩa
sống còn đối với Đảng và sự nghiệp đổi mới hiện nay.
Trong tình hình hiện nay, để xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh trong
thời kì của cách mạng Việt Nam cần làm tốt những vấn đề sau:
Thứ nhất, là làm cho hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác -Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh thật sự trở thành nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành
động của toàn Đảng. Tăng cường nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, làm
sáng tỏ một số vấn đề lý luận về đảng cầm quyền, về chủ nghĩa xã hội, con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta và những vấn đề mới nảy sinh trong
quá trình đổi mới, không ngừng phát triển lý luận, đề ra đường lối và chủ
trương đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước... tiếp tục đổi mới nội dung,
15

15


phương thức, nâng cao hơn nữa tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu quả của
công tác tuyên truyền, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước...
Sau nữa là phải kiên quyết đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu và hoạt
động “diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch. Những âm mưu và thủ đoạn
của chúng thường là xuyên tạc, bôi nhọ chủ nghĩa Mác- Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh hòng làm lung lay, dao động hệ tư tưởng; chúng rêu rao rằng Đảng
cộng sản Việt Nam chọn đường sai, không thể có chủ nghĩa xã hội, rằng phải
thực hiện tư nhân hoá, đa nguyên hoá chính trị, đa đảng đối lập, tức là phải thay
đổi mục tiêu, lý tưởng, phải từ bỏ lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân lao

động, kích động chia rẽ Đảng với Nhà nước, Đảng, Nhà nước với nhân dân; lợi
dụng cuộc đấu tranh của ta chống quan liêu, tham nhũng, chúng bôi nhọ nói xấu
Đảng, Nhà nước; lôi kéo tách quần chúng khỏi ảnh hưởng của Đảng. Nhất là
đồng bào dân tộc ít người và vùng tôn giáo; sử dụng triệt để các con bài như:
“Đầu tư kinh tế’, “tự do hoá chính trị”, “hợp tác về văn hoá”, “dân chủ”, “nhân
quyền”, “đào tạo cán bộ”…để làm chuyển hoá dần chế độ của chúng ta theo
hướng ngả sang con đường tư bản chủ nghĩa.
Trước những âm mưu, thủ đoạn thâm độc của kẻ địch, nếu không chăm lo
xây dựng Đảng, vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức thì tổn thất đối với
cách mạng là không thể lường hết được. Chủ động phòng ngừa, đấu tranh, phê
phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ; khắc phục
sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không
nhỏ cán bộ, đảng viên, giữ gìn sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng, sự đồng
thuận trong xã hội là góp phần xây dựng Đảng trong sạch và vững mạnh.
Thứ hai, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh là phải giữ vững bản chất
giai cấp công nhân và nêu cao tính tiền phong của Đảng, tăng cường sức chiến
đấu của Đảng từ Trung ương đến cơ sở.
Điều đó có nghĩa là Đảng phải tuyệt đối trung thành với lợi ích giai cấp và
dân tộc; tồn tại và hoạt động vì lợi ích giai cấp và dân tộc. Khi hoạch định, đề ra
đường lối, cương lĩnh Đảng luôn đứng trên lập trường giai cấp công nhân, nắm
16

16


vững quy luật khách quan, phản ánh đúng lợi ích giai cấp công nhân và nhân
dân lao động. Đồng thời phấn đấu xây dựng được một đội ngũ cán bộ, nhất là
cán bộ chủ chốt các cấp, trước hết là cán bộ cấp chiến lược thực sự kiên định,
vững vàng, tiêu biểu cho đường lối chính trị, phẩm chất trí tuệ và bản lĩnh của
giai cấp công nhân.

Muốn vậy, cần chú ý:
Một là, bản chất giai cấp công nhân thể hiện không phải chỉ ở số lượng đảng
viên xuất thân từ thành phần công nhân nhiều hay ít (mặc dù vấn đề tăng số lượng
đảng viên xuất thân từ công nhân là rất quan trọng) mà chủ yếu và quyết định hơn là
lập trường, quan điểm, thế giới quan, đường lối chính trị, nguyên tắc tổ chức… của
Đảng có thực sự là của giai cấp công nhân hay không.
Hai là, không nên hiểu bản chất giai cấp một cách máy móc, cứng nhắc. Mà
trong hoàn cảnh cụ thể nước ta, lợi ích giai cấp thống nhất với lợi ích dân tộc, sự
nghiệp của Đảng gắn liền sự nghiệp dân tộc.Đảng chẳng những phải giữ vững và
nâng cao bản chất giai cấp công nhân mà còn phải tiếp thu phát triển tinh hoa và
truyền thống dân tộc, giữ gìn và phát huy bản sắc Việt Nam.
Ba là, một Đảng có bản chất cách mạng và khoa học, thấm đượm tính giai
cấp và tính dân tộc như thế phải được cả xã hội thừa nhận; chúng ta lại có các đoàn
thể chính trị xã hội và mặt trận tổ quốc Việt Nam - một tổ chức liên minh chính trị
đại biểu rộng rãi cho ý chí, nguyện vọng và lợi ích của các tầng lớp nhân dân, đại
đoàn kế toàn dân thì không có lý do gì phải áp dụng “đa nguyên chính trị” “đa đảng
đối lập” như các thế lực đối lập đang kích động.
Thứ ba, phải quan tâm xây dựng về mặt đạo đức, phải thường xuyên tu
dưỡng, rèn luyện tư cách đạo đức cho cán bộ, đảng viên.
Đạo đức cách mạng là một nội dung đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh
về Đảng cộng sản việt Nam, là bước phát triển sáng tạo của Hồ Chí Minh đối
với học thuyết của V.I.Lênin về đảng kiểu mới của giai cấp vô sản.
Để Đảng ta thực sự “là đạo đức, là văn minh”, Hồ Chí Minh chỉ rõ Đảng
phải rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên và Người yêu cầu cán
bộ, đảng viên cần phải:
17

17



Một là, về phẩm chất, tư cách phải suốt đời phấn đấu hy sinh cho lý tưởng
của Đảng; tuyệt đối trung thành với Đảng, với sự nghiệp của Đảng; đặt quyền lợi
của Đảng, của Tổ quốc lên trên hết, lên trước hết; có đời tư trong sáng, là một tấm
gương sáng trong cuộc sống để nhân dân tin và noi theo.
Hai là, về năng lực phải có trí tuệ minh mẫn, sáng suốt, có trình độ chuyên
môn và nghiệp vụ giỏi, có năng lực lãnh đạo, tổ chức thực hiện đường lối, chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và các đoàn thể nhân dân.
Ba là, phải có mối liên hệ mật thiết với nhân dân, phải luôn luôn học tập
với động cơ “học để làm việc, làm người, làm cán bộ”, “học để phụng sự đoàn
thể, giải cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”.
Đi đôi với công tác giáo dục, cần coi trọng công tác kiểm tra, xử lý
nghiêm minh và kịp thời những đảng viên vi phạm về phẩm chất, đạo đức và lối
sống. Tại Hội nghị lần thứ Tư Ban chấp hành Trung ương khoá XI đã xác định:
Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tệ tham nhũng, lãng
phí, hư hỏng trong một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng viên, kể cả ở cấp cao,
chưa được đẩy lùi mà thậm chí ngày càng cao, có chiều hướng nghiêm trọng
hơn, làm xói mòn lòng tin của dân đối với Đảng.
Cũng chính sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức và lối sống của
một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên mà nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lí
đã, đang và sẽ làm xói mòn niềm tin của nhân dân với Đảng. Sức mạnh của
Đảng và mọi thắng lợi của cách mạng đều bắt nguồn từ chỗ Đảng luôn luôn
gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân. Mọi hành động của cán bộ, đảng viên
đều có ảnh hưởng đến lợi ích của nhân dân. Tình cảm là điều kiện cần, nhưng
lợi ích mới là điều kiện đủ, chỉ khi nào Đảng đảm bảo được lợi ích của nhân
dân, đáp ứng được yêu cầu, nguyện vọng của quần chúng thì khi đó, niềm tin
mới trở thành sức mạnh, mới trở thành động lực...phải coi trọng việc củng cố
mối quan hệ mật thiết giữa Đảng với nhân dân, phát huy tinh thần yêu nước,
truyền thống cách mạng, quyền làm chủ và lợi ích thiết thực của nhân dân, dựa
vào nhân dân để xây dựng Đảng. Dựa vào quần chúng và vận động quần chúng
tham gia xây dựng và chỉnh đốn Đảng, nhất định sẽ nâng cao được sức chiến

18

18


đấu của các tổ chức Đảng, củng cố mối liên hệ giữa Đảng và quần chúng, nâng
cao uy tín của Đảng. Đó là nhiệm vụ then chốt, là cội nguồn thắng lợi của sự
nghiệp cách mạng nước ta. Đó cũng chính là nền tảng cho tình cảm, niềm tin
vững chắc của dân đối với Đảng, giúp Đảng vững bước chèo lái con thuyền cách
mạng Việt Nam phát triển và hội nhập với thế giới.
Thứ tư, xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh không thể không thực hiện
đúng đắn nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách; kết
hợp với nâng cao tinh thần tự phê bình và phê bình; kỷ luật nghiêm minh, tự
giác góp phần tạo sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng.
Hồ Chí Minh chỉ rõ tập trung dân chủ là nguyên tắc quan trọng nhất trong
học thuyết về Đảng cộng sản. Trong nguyên tắc này, tập trung và dân chủ thống
nhất biện chứng với nhau, “Tập trung trên nền tảng dân chủ”, “dân chủ dưới sự
chỉ đạo tập trung”.
Tập trung dân chủ là nguyên tắc cơ bản trong tổ chức và sinh hoạt đảng,
thể hiện ngay trong bản chất của Đảng. Là một tiêu chí để phân biệt chính đảng
kiểu mới của giai cấp công nhân, đảng cách mạng chân chính với các đảng khác.
Chính vì vậy, nếu phủ nhận nguyên tắc này là phủ nhận đảng cộng sản từ bản
chất, xoá bỏ nguyên tắc này là phá hoại sức mạnh của Đảng từ gốc. Nói đến
nguyên tắc tập trung dân chủ là nói đến mối quan hệ thiểu số và đa số, cá nhân
và tổ chức, cấp dưới và cấp trên, là mối quan hệ giữa cái chung và cái riêng, rất
nhạy cảm và tế nhị. Thực tiễn cho thấy ở đâu và lúc nào Đảng xa rời nguyên tắc
tập trung dân chủ thì Đảng không còn sức mạnh rơi vào độc đoán hoặc trở thành
một câu lạc bộ, mở đường cho chủ nghĩa cơ hội, bè phái, vô chính phủ đủ loại
hoạt động, cuối cùng làm tan rã đảng về mặt tổ chức, cũng tức là thủ tiêu bản
thân đảng.

Muốn thực hiện tốt nguyên tắc này, nhằm góp phần xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh cần phải nhận thức đúng và thống nhất nội dung, bản chất
nguyên tắc tập trung dân chủ, mối quan hệ biện chứng giữa hai mặt tập trung và
dân chủ. Nâng cao chất lượng sinh hoạt của cấp uỷ và của chi bộ, quản lý chặt
chẽ đảng viên. Mỗi cán bộ, đảng viên phải không ngừng rèn luyện nâng cao tính
19

19


tổ chức, tính kỷ luật, tự giác đặt mình trong sự quản lý của chi bộ, tham gia sinh
hoạt chi bộ đầy đủ, tự khép mình vào khuôn khổ kỷ luật của Đảng. Thực hiện
nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê bình từ trên xuống dưới, không trấn áp, trù
dập người phê bình cũng như hiện tượng lợi dụng phê bình để đả kích cá nhân,
gây rối nội bộ. Đề cao tính đảng, trách nhiệm của đảng viên đối với nhiệm vụ
được giao, đối với xây dựng tổ chức Đảng. Và mọi hành động vô tổ chức, vô kỷ
luật, cố tình không chấp hành chỉ thị nghị quyết của Đảng gây chia rẽ bè phái,
làm mất đoàn kết thống nhất trong Đảng phải bị xử lý kỷ luật.
Đất nước ta đang đứng trước thời cơ lớn và thách thức lớn của sự phát
triển, bối cảnh trong nước và thế giới có nhiều thuận lợi và khó khăn; công tác
xây dựng và chỉnh đốn Đảng càng là vấn đề quan trọng hàng đầu mà cán bộ,
đảng viên và nhân dân ta hết sức quan tâm. Để thực hiện thành công chủ đề Đại
hội XII, để lãnh đạo đất nước trong điều kiện mới, Đảng ta phải tiếp tục tự đổi
mới, tự chỉnh đốn, nâng cao được năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, nắm bắt
thời cơ, chấp nhận và vượt qua thách thức, nguy cơ, nâng cao tầm trí tuệ. Đối
mới mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi tổ chức đảng, cấp uỷ đảng, chung tay dựng
Đảng ta thực sự là một Đảng trong sạch, vững mạnh.
3.2. Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng cầm quyền trong
thời kì mới của cách mạng Việt Nam
3.2.1.Nâng cao năng lực cầm quyền của Ðảng

Ðiều lệ Ðảng đã khẳng định: "Ðảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm
quyền, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của
nhân dân; dựa vào nhân dân để xây dựng Ðảng; đoàn kết và lãnh đạo nhân dân
tiến hành sự nghiệp cách mạng".
Là đảng cầm quyền, Ðảng ta có trách nhiệm lãnh đạo tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội. Trong tình hình mới, cần có phương thức thích hợp để nâng
cao chất lượng và hiệu quả lãnh đạo của Ðảng, phát huy mạnh mẽ vai trò, hiệu

20

20


lực của Nhà nước và các đoàn thể nhân dân, xây dựng một hệ thống chính trị
hoạt động năng động, có hiệu lực và hiệu quả.
Nhiệm vụ đặt ra là, phải xây dựng Ðảng ngang tầm nhiệm vụ chính trị của
một đảng cầm quyền lãnh đạo nhân dân tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Ðảng cần có tổ chức tham mưu chuyên trách có chất lượng cao và tinh
gọn, đồng thời phát huy vai trò của các tổ chức đảng và đội ngũ đảng viên, nhất
là các cấp ủy viên và cán bộ chủ chốt hoạt động trong các cơ quan nhà nước và
các đoàn thể. Tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ quan nhà nước và các
đoàn thể vừa là hạt nhân lãnh đạo chính trị các tổ chức đó, vừa làm tham mưu
cho Ðảng về chủ trương, chính sách đối với những lĩnh vực có liên quan. Lãnh
đạo xây dựng bộ máy Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân thật sự là trụ cột bền vững của hệ thống chính trị nước ta.
3.2.2. Nâng cao sức chiến đấu của các tổ chức đảng, cấp ủy đảng và đảng
viên
Với vị trí là nền tảng của Ðảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở, tổ chức cơ
sở đảng có vai trò rất quan trọng. Phải dồn sức xây dựng, nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, làm cho tổ chức này thật sự trong

sạch, vững mạnh. Thời gian qua, chúng ta đã triển khai nhiều biện pháp xây
dựng và củng cố tổ chức cơ sở, nhưng do nắm không chắc tình hình cơ sở, đánh
giá chưa đúng thực chất, biện pháp chưa đủ tầm, chỉ đạo còn dàn trải, cho nên
tổ chức cơ sở đảng vẫn là khâu yếu cả về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu.
Phải đi sâu tổng kết thực tiễn, phân tích sâu sắc tình hình cơ sở đảng hiện nay ở
từng lĩnh vực, từng địa bàn, việc gì làm được, việc gì chưa làm được, tìm ra
nguyên nhân, trên cơ sở đó đề ra giải pháp khắc phục; việc làm này phải do cấp
ủy cấp trên trực tiếp của cơ sở chịu trách nhiệm trước hết.
Mạnh dạn phân cấp, tăng cường quyền tự quản cho cơ sở; làm cho tổ
chức cơ sở đảng thật sự là hạt nhân chính trị, là nền tảng vững chắc của
Ðảng. Mở rộng và phát huy dân chủ trong sinh hoạt đảng, thực hiện quyền
21

21


giám sát của đảng viên, đảng bộ đối với cấp ủy; mở rộng các hình thức nhân
dân tham gia vào các quyết định của chi bộ, đảng bộ, đảng ủy cơ sở về
những vấn đề có liên quan và giám sát cán bộ, đảng viên.
Việc kết nạp đảng viên cần được coi trọng hơn nữa về chất lượng, tiêu
chuẩn giác ngộ lý tưởng của Ðảng, đạo đức lối sống, năng lực hoàn thành
nhiệm vụ. Coi trọng đối tượng là thế hệ trẻ, công nhân, nông dân, trí thức,
quân nhân, cán bộ, con em các gia đình có công với cách mạng. Sớm khắc
phục tình trạng một số cơ sở, địa bàn chưa có đảng viên, hoặc chưa có tổ
chức đảng.
Thực hiện tốt việc tự phê bình và phê bình đấu tranh, phê phán các
biểu hiện sai trái. Thường xuyên sàng lọc đảng viên, kiên quyết đưa những
người không đủ tiêu chuẩn ra khỏi Ðảng bằng các hình thức thích hợp. Khai
trừ những đảng viên thoái hóa về chính trị, tư tưởng, đạo đức lối sống, tham
nhũng, lãng phí, quan liêu, cố tình vi phạm kỷ luật Ðảng và pháp luật của

Nhà nước. Vận động ra Ðảng, hoặc xóa tên khỏi danh sách đảng viên đối với
những đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí phấn đấu, không làm
tròn nhiệm vụ đảng viên, đã được tổ chức đảng giúp đỡ mà không tiến bộ.
Về việc đảng viên làm kinh tế tư nhân, Văn kiện Ðại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X của Ðảng đã nêu rõ: "Ðảng viên có thể làm kinh tế tư nhân trên
cơ sở gương mẫu chấp hành luật pháp, chính sách của Nhà nước, nghiêm chỉnh
chấp hành Ðiều lệ Ðảng và quy định của Ban Chấp hành Trung ương"(1). Ðây là
một chủ trương lớn của Ðảng, có ý nghĩa quan trọng trong quá trình đổi mới tư
duy lý luận và chỉ đạo thực tiễn. Ban Chấp hành Trung ương cụ thể hóa chủ
trương này thành Quy định để đảng viên của Ðảng có điều kiện tham gia tích
cực, gương mẫu đi đầu trong việc thực hiện nhiệm vụ trung tâm phát triển kinh
tế.

C. KẾT LUẬN
22

22


Hồ Chí Minh là người sáng lập, đồng thời là người giáo dục và rèn luyện
Đảng Cộng sản Việt Nam trong gần 40 năm. Người đã thực sự dành nhiều tâm
huyết cho Đảng, xác lập nên một hệ thống các quan điểm, tư tưởng về Đảng
Cộng sản Việt Nam trên cơ sở vận dụng sáng tạo và phát triển tư tưởng của chủ
nghĩa Mac – Lenin về Đảng Cộng sản vào hoàn cảnh cụ thể của đất nước. Có thể
kể đến những sáng tạo của Bác vể Đảng Cộng sản Việt Nam là quan điểm về
quy luật hình thành đảng, về sự thống nhất biện chứng giữa bản chất giai cấp
công nhân với tính dân tộc và tính nhân dân của Đảng, quan niệm về Đảng cầm
quyền và các yếu tố đảm bảo vai trò của Đảng cầm quyền.
Trong bối cảnh, điều kiện mới, đứng trước những cơ hội và thách thức
cũng không nhỏ, Đảng ta vẫn kiên trì chủ nghĩa Mac- Lenin và tư tưởng Hồ Chí

Minh. Đảng đã xác định nhiệm vụ phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng
Đảng là then chốt, đồng thời xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc, tạo nên nền tảng tinh thần cho sự phát triển xã hội.
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam đẩy mạnh
công tác xây dựng Đảng về mọi mặt, nhằm làm cho Đảng thực sự trong sạch,
vững mạnh, phát huy thành quả đã đạt được, khắc phục, ngăn chặn, tiến tới đẩy
lùi những hạn chế, yếu kém, để lấy lại niềm tin trong nhân dân, xứng đáng với
vai trò người lãnh đạo duy nhất của cách mạng Việt Nam.
Bởi vậy, việc tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam trong sạch, vững
mạnh phải được quán triệt tới từng cơ sở Đảng, từng cán bộ, từng đảng viên.

D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1) Hồ Chí Minh : Toàn tập, Sđd, t.12, tr 557 – 558
2) Hồ Chí Minh : Toàn tập, Sđd, t.11, tr 300
23

23


3) Hồ Chí Minh : Toàn tập, Sđd, t.2, tr 253
4) Hồ Chí Minh : Toàn tập, Sđd, t.9, tr 283
5) Hồ Chí Minh : Toàn tập, Sđd, t.6 tr 320 - 321
6) Hồ Chí Minh : Toàn tập, Sđd, t.5, tr 104
7) Hồ Chí Minh : Toàn tập, Sđd, t.12, tr 5

24

24




×