Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ nâng cao chất lượng tạo nguồn phát triển đảng viên của các đảng bộ tiểu đoàn học viên ở học viện hải quân hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (381.75 KB, 91 trang )

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài
Trong mọi giai đoạn cách mạng, CTPTĐ luôn được Đảng ta quan tâm
coi đó là việc làm cơ bản, thường xuyên có tính quy luật trong công tác XDĐ,
bảo đảm cho Đảng tồn tại, phát triển có sức sống mạnh mẽ, xứng đáng là đội
tiên phong, đủ sức hoàn thành sứ mệnh lịch sử của giai cấp và của dân tộc.
Đảng bộ tiểu đoàn học viên là TCCSĐ, trực tiếp lãnh đạo tiểu đoàn thực
hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ và quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên, xây
dựng tổ chức đảng TSVM. Để thực hiện tốt chức năng nhiệm vụ được giao,
ĐBTĐHV phải luôn chăm lo xây dựng đội ngũ đảng viên phát triển cả về số
lượng, chất lượng. Phát triển đảng viên trong học viên ĐTSQ của các ĐBTĐHV
ở HVHQ là việc làm công phu với nhiều khâu, nhiều bước rất khoa học, trong
đó TNPTĐV có vị trí vai trò, ý nghĩa đặc biệt quan trọng, trực tiếp quyết định
chất lượng đảng viên được kết nạp. Thông qua TNPTĐV nhằm phát hiện, lựa
chọn những quần chúng thực sự ưu tú để bồi dưỡng giáo dục, rèn luyện thử
thách, khi có đủ các điều kiện, tiêu chuẩn thì kết nạp họ vào Đảng.
Nhận thức rõ điều đó, những năm qua Đảng bộ HVHQ luôn chú trọng,
quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động TNPTĐV của các TCCSĐ, nhất là đối
với các ĐBTĐHV. Nhờ đó, chất lượng đảng viên mới được kết nạp đã từng
bước nâng lên, bảo đảm tính kế thừa, phát triển liên tục, góp phần thực hiện
thắng lợi mục tiêu, yêu cầu đào tạo và nâng cao NLLĐ, SCĐ của các TCCSĐ
trong Đảng bộ Học viện. Tuy nhiên, quá trình thực hiện vẫn bộc lộ một số bất
cập, hạn chế, dẫn đến thực trạng một bộ phận đảng viên là học viên ĐTSQ
sau khi kết nạp đảng chưa thực sự phát huy tốt vai trò tiền phong gương mẫu,
giảm sút ý chí phấn đấu, tinh thần đấu tranh tự phê bình và phê bình không
cao, thực hiện dân chủ và phát huy trí tuệ trong sinh hoạt đảng hạn chế, biểu
hiện tư tưởng trung bình chủ nghĩa… từ đó trực tiếp ảnh hưởng đến NLLĐ,
SCĐ và chất lượng xây dựng TCCSĐ TSVM.
1



Hiện nay, trước sự phát triển của nhiệm vụ cách mạng, yêu cầu xây dựng
Quân đội vững mạnh về mọi mặt, trong đó lấy xây dựng vững mạnh về chính
trị làm cơ sở; sự chống phá của các thế lực thù địch và sự tác động của mặt trái
cơ chế thị trường; những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ của một bộ
phận cán bộ, đảng viên; hiện tượng “nhạt Đảng, khô Đoàn, xa rời chính trị” của
một bộ phận không nhỏ đoàn viên thanh niên đã và đang đặt ra yêu cầu ngày
càng cao về số lượng, cơ cấu, chất lượng NPTĐV trong học viên ĐTSQ. Hơn
lúc nào hết, các cấp, các ngành, các cơ quan, đơn vị trong và ngoài Học viện
cần phải nỗ lực, chủ động sáng tạo, tiến hành tốt TNPTĐV của các ĐBTĐHV
ở HVHQ, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu yêu cầu đào tạo, xây dựng
Đảng bộ trong sạch, xây dựng Học viện vững mạnh toàn diện.
Từ thực tiễn chất lượng TNPTĐV của các ĐBTĐHV ở HVHQ những
năm qua đặt ra phải nghiên cứu có tính hệ thống nhằm làm rõ những vấn đề lý
luận, đánh giá đúng thực trạng, tìm ra nguyên nhân và đúc kết kinh nghiệm.
Đồng thời, đưa ra những yêu cầu và đề xuất các giải pháp nâng cao chất
lượng TNPTĐV của các ĐBTĐHV ở HVHQ hiện nay. Với những lý do nêu
trên, học viên lựa chọn đề tài: “Nâng cao chất lượng tạo nguồn phát triển
đảng viên của các đảng bộ tiểu đoàn học viên ở Học viện Hải quân hiện
nay” làm luận văn thạc sĩ Xây dựng Đảng và Chính quyền Nhà nước.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Nâng cao chất lượng tạo nguồn nói chung và TNPTĐV nói riêng có vai
trò rất quan trọng trong xây dựng nguồn nhân lực có chất lượng cao cho các
tổ chức, các lực lượng. Vì vậy, trong thời gian qua vấn đề này đã được nhiều
nhà khoa học, quản lý và các cấp bộ đảng quan tâm nghiên cứu với các cấp độ
khác nhau, tiêu biểu có các công trình như sau:
* Nhóm các công trình nghiên cứu về công tác phát triển đảng
Trong nghiên cứu về CTPTĐ, đã có nhiều công trình khoa học, đề tài,
sách, giáo trình... bàn về vấn đề này, tiêu biểu như:

2


- Mạch Quang Thắng (chủ biên) (2006), Đảng viên và phát triển đảng
viên trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nxb Lao động,
Hà Nội. Nhóm tác giả đã đánh giá đúng tình hình đảng viên và công tác phát
triển đảng viên trong nhiệm kỳ Đại hội VIII (1996 - 2001) và Đại hội IX (2001
- 2006); phân tích làm rõ phương hướng phấn đấu của đảng viên theo những
tiêu chuẩn được xác định trong Điều lệ ĐCSVN mà Đại hội IX của Đảng thông
qua; nêu lên những yêu cầu có tính đặc thù do quá trình phát triển kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa đòi hỏi. Từ đó đặt ra những đổi mới cần
thiết trong công tác xây dựng đội ngũ đảng viên và phát triển đảng viên phù
hợp với tình hình mới, đặc biệt trong những thập niên đầu của thế kỷ XXI.
- Nguyễn Thị Hải Hà (2012), Đảng bộ tỉnh Hải Dương với công tác
phát triển đảng viên ở nông thôn từ năm 2001 đến năm 2010, Luận văn thạc
sĩ Lịch sử Đảng, Trung tâm đào tạo, bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị,
Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. Kết quả nghiên cứu của tác giả đã làm rõ
cơ sở lý luận và thực tiễn công tác phát triển đảng viên của Đảng bộ tỉnh Hải
Dương nói chung và khu vực nông thôn nói riêng. Phân tích, luận giải là rõ
chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Hải Dương về phát triển đảng viên
ở khu vực nông thôn từ năm 2001 đến năm 2010. Nhận xét kết quả, rút ra một
số kinh nghiệm đẩy mạnh phát triển đảng viên của Đảng bộ tỉnh ở khu vực
nông thôn trong giai đoạn 2001 - 2010.
- Nguyễn Duy Ngân (2014), Công tác phát triển đảng viên trong thanh
niên trên địa bàn phường, xã ở thành phố Hà Tĩnh trong giai đoạn hiện nay,
Luận văn thạc sĩ Chính trị học, Trường đại học Khoa học xã hội và nhân văn Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội. Tác giả đã nêu bật vai trò của thanh niên nói
chung, thanh niên trên địa bàn dân cư nói riêng trong sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh; phân tích, đánh giá sát thực trạng thanh niên trên địa bàn phường, xã và
công tác phát triển đảng viên trong thanh niên của các Đảng bộ phường, xã ở

3


thành phố Hà Tĩnh (2007 - 2013). Từ đó tác giả làm rõ nguyên nhân của thực
trạng và đề xuất các giải pháp để làm tốt công tác phát triển đảng viên của các
Đảng bộ phường, xã ở thành phố Hà Tĩnh trong thời gian tới.
- Nguyễn Trần Phượng Trân (2014), Chất lượng công tác phát triển đảng
viên của các tổ chức đảng trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước trên địa bàn
Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sỹ chuyên ngành Xây dựng Đảng và
Chính quyền Nhà nước, Học viện Chính trị, Hà Nội. Tác giả đã phân tích làm rõ
cơ sở, lý luận, thực tiễn, tính cấp bách của công tác phát triển đảng viên của các
tổ chức đảng trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước trên địa bàn Thành phố Hồ
Chí Minh. Luận giải rõ quan niệm chất lượng công tác phát triển đảng viên của
các tổ chức đảng trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước trên địa bàn Thành
phố. Bước đầu tổng kết kinh nghiệm công tác phát triển đảng viên của các tổ
chức đảng trong các doanh nghiệp ngoài nước trên địa bàn và đề xuất những
giải pháp nâng cao chất lượng công tác phát triển đảng viên phù hợp với tính
đặc thù về chức năng, nhiệm vụ, tổ chức và hoạt động của các tổ chức đảng
trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
Nhìn tổng quát, tuy nghiên cứu trong các môi trường khác nhau, song
các công trình đều khẳng định: phát triển đảng viên là một nội dung cơ bản
của công tác xây dựng đội ngũ đảng viên nhằm tăng cường NLLĐ, SCĐ và
bảo đảm sự kế thừa phát triển liên tục của Đảng, phát triển đảng viên phải bảo
đảm đúng phương châm, phương hướng, điều kiện, tiêu chuẩn, thủ tục kết nạp
đảng theo đúng nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của Đảng và Điều lệ Đảng.
* Nhóm các công trình nghiên cứu về phát triển đảng viên và tạo
nguồn phát triển đảng viên trong sinh viên các trường đại học, cao đẳng và
các học viện, nhà trường Quân đội
- Vũ Quang Tuyến (2000), Nâng cao chất lượng công tác bồi dưỡng
nguồn phát triển đảng viên trong học viên đào tạo cán bộ chính trị cấp phân

đội ở Học viện Chính trị quân sự hiện nay, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành
4


XDĐ, Học viện Chính trị, Hà Nội. Tác giả đã luận giải làm sáng tỏ những cơ
sở lý luận và thực tiễn về CTPTĐ nói chung, đặc biệt là công tác bồi dưỡng
NPTĐV trong học viên đào tạo cán bộ chính trị cấp phân đội ở Học viện
Chính trị quân sự. Xác định các khâu các bước của CTPTĐ; nêu rõ các quan
niệm về công tác bồi dưỡng NPTĐV, chất lượng và những tiêu chí đánh chất
lượng, nội dung của công tác này; đánh giá thực trạng, chỉ ra nguyên nhân,
kinh nghiệm và đề xuất phương hướng, giải pháp để nâng cao chất lượng
công tác bồi dưỡng NPTĐV trong học viên đào tạo cán bộ chính trị ở Học
viện Chính trị trong thời gian tới.
- Phan Tấn Nam (2009), Bồi dưỡng nguồn phát triển đảng là học viên
đào tạo sĩ quan người dân tộc thiểu số ở các Trường sĩ quan phía Nam hiện
nay, Luận văn thạc sĩ Khoa học chính trị, Học viện Chính trị, Hà Nội. Tác
giả đã luận giải làm rõ những vấn đề cơ bản về bồi dưỡng NPTĐV là học
viên ĐTSQ người dân tộc thiểu số ở các trường sĩ quan phía Nam; đánh giá
thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và rút ra một số kinh nghiệm bồi dưỡng
NPTĐV là học viên ĐTSQ người dân tộc thiểu số ở các trường sĩ quan phía
Nam hiện nay; xác định yêu cầu và đề xuất những giải pháp cơ bản bồi
dưỡng NPTĐV là học viên ĐTSQ người dân tộc thiểu số ở các trường sĩ
quan phía Nam hiện nay.
- Đỗ Văn Trình (2004), Một số giải pháp nâng cao chất lượng công tác
bồi dưỡng nguồn phát triển đảng của chi đoàn học viên Trường sĩ quan Lục
quân 1, Tạp chí Thanh niên, số 12. Tác giả đã đi sâu làm rõ vai trò, tầm quan
trọng của bồi dưỡng NPTĐV đối với CTPTĐ trong đào tạo cán bộ chỉ huy
tham mưu cấp phân đội của chi đoàn học viên Trường sĩ quan Lục quân 1 và
đề xuất những biện pháp bồi dưỡng NPTĐV của chi đoàn học viên.


5


- Tổng cục Chính trị (2004), Tổng kết công tác phát triển đảng, bồi
dưỡng đội ngũ đảng viên trong học viên đào tạo sĩ quan, nhân viên chuyên
môn, kỹ thuật trong các nhà trường Quân đội (1994 - 2004), Báo cáo số
361/BC- CT, Hà Nội. Đánh giá kết quả 10 năm (1994 - 2004) của CTPTĐ,
bồi dưỡng đội ngũ đảng viên trong học viên ĐTSQ, nhân viên chuyên môn,
kỹ thuật ở các nhà trường Quân đội. Làm rõ những ưu điểm nổi bật, những
khuyết điểm còn tồn tại, chỉ rõ nguyên nhân, rút ra một số bài học kinh
nghiệm và xác định phương hướng của công tác này trong thời gian tới để đáp
ứng yêu cầu xây dựng Quân đội và nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn
cách mạng mới.
Bên cạnh những công trình, đề tài nghiên cứu kể trên còn có các luận
văn, luận án và bài viết đăng trên các tạp chí tổng kết kinh nghiệm về CTPTĐ
trong thanh niên, sinh viên, tiêu biểu như:
- Vũ An Lĩnh (2015), Chất lượng công tác phát triển đảng viên ở các
tổ chức cơ sở đảng đơn vị quản lý học viên Trường Sĩ quan Lục quân 1 hiện
nay, Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị chuyên ngành XDĐ và Chính quyền
Nhà nước, Học viện Chính trị, Hà Nội. Vũ Anh Ba (2016), Nâng cao chất
lượng công tác phát triển đảng viên ở các tổ chức cơ sở đảng đơn vị học viên
Học viện Khoa học quân sự hiện nay, Luận văn thạc sĩ XDĐ và Chính quyền
Nhà nước, Học viện Chính trị, Hà Nội. Đào Ngọc Dung (2006), “Bồi dưỡng
lý tưởng cách mạng tạo nguồn phát triển đảng viên trong thanh niên”, Tạp chí
XDĐ, số 3. Trần Đình Thọ (2006), “Kết hợp đào tạo sĩ quan với phát triển
đảng viên”, Tạp chí XDĐ, số 8. Nguyễn Đức Khiển (2012), “Một số kinh
nghiệm về công tác phát triển đảng trong Đảng bộ Quân đội”, Tạp chí Cộng
sản, số 2. Triều Dương (2016), “Phát triển đảng viên là sinh viên các trường
đại học, cao đẳng”, Tạp chí XDĐ, số 12.
Các công trình khoa học nêu trên đề cập đến những vấn đề nghiên cứu

ở những dạng thức khác nhau, có khách thể, phương pháp nghiên cứu riêng,
6


nhưng đều có điểm chung: đối tượng nghiên cứu là hoạt động tạo nguồn và
phát triển đảng viên trong sinh viên, học viên, có những đóng góp nhất định
về lý luận và thực tiễn, xung quanh vấn đề CTPTĐ ở các nhà trường trong và
ngoài Quân đội. Những đóng góp đó đã được tác giả tham khảo, kế thừa trong
nghiên cứu thực hiện luận văn.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào bàn về nâng cao chất
lượng TNPTĐV của các ĐBTĐHV ở HVHQ một cách toàn diện và có hệ
thống nên công trình mà tác giả nghiên cứu là một đề tài mới, mang tính độc
lập, không trùng với các luận văn, luận án của các tác giả đã công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Luận giải làm rõ những vấn đề cơ bản về lý luận, thực tiễn nâng cao
chất lượng TNPTĐV; đề xuất những giải pháp nâng cao chất lượng TNPTĐV
của các ĐBTĐHV ở HVHQ hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải, làm rõ những vấn đề cơ bản về chất lượng và nâng cao chất
lượng TNPTĐV của các ĐBTĐHV ở HVHQ.
- Đánh giá đúng thực trạng nâng cao chất lượng TNPTĐV, chỉ rõ
nguyên nhân và rút ra một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng chất lượng
TNPTĐV của các ĐBTĐHV ở HVHQ.
- Xác định yêu cầu và đề xuất những giải pháp nâng cao chất lượng
TNPTĐV của các ĐBTĐHV ở HVHQ hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Nâng cao chất lượng tạo nguồn phát triển đảng viên của các đảng bộ
tiểu đoàn học viên ở Học viện Hải quân.

* Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề về lý luận, thực tiễn, yêu
7


cầu và giải pháp nâng cao chất lượng TNPTĐV trong học viên của các
ĐBTĐHV ở HVHQ; các số liệu, tư liệu, điều tra khảo sát từ năm 2011 đến
nay. Các giải pháp của luận văn có giá trị ứng dụng đến năm 2025.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Luận văn nghiên cứu dựa trên hệ thống những quan điểm, nguyên lý cơ
bản của học thuyết Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các văn kiện, nghị
quyết của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quân ủy
Trung ương về công tác XDĐ và CTPTĐ.
* Cơ sở thực tiễn
Thực tiễn hoạt động nâng cao chất lượng TNPTĐV của các ĐBTĐHV
ở HVHQ; các văn kiện, nghị quyết, báo cáo sơ kết, tổng kết về công tác XDĐ,
công tác đảng, công tác chính trị của Học viện (từ năm 2011 đến nay). Luận
văn kế thừa kết quả nghiên cứu của các công trình, đề tài khoa học có liên
quan đã được nghiệm thu, công bố; đồng thời dựa trên các tư liệu, số liệu kết
quả điều tra, khảo sát ở HVHQ của tác giả.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, luận văn sử
dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học chuyên ngành và
liên ngành, trong đó chú trọng các phương pháp: phân tích, tổng hợp, lôgíc lịch sử, so sánh, tổng kết thực tiễn, điều tra khảo sát và phương pháp chuyên
gia.
6. Ý nghĩa của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp thêm cơ sở lý
luận và thực tiễn giúp cho Đảng ủy - Ban giám đốc HVHQ, Phòng Chính trị,
cấp ủy, cán bộ chủ trì ở các tiểu đoàn học viên vận dụng trong lãnh đạo, chỉ

đạo và tiến hành nâng cao chất lượng TNPTĐV của các ĐBTĐHV ở HVHQ
hiện nay và những năm tiếp theo.

8


- Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu,
giảng dạy, học tập ở HVHQ và các học viện, nhà trường trong Quân đội.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn bố cục gồm: Mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục
tài liệu tham khảo và phụ lục.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN, THỰC TIỄN NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG TẠO NGUỒN PHÁT TRIỂN ĐẢNG VIÊN CỦA CÁC
ĐẢNG BỘ TIỂU ĐOÀN HỌC VIÊN Ở HỌC VIỆN HẢI QUÂN

1.1. Chất lượng tạo nguồn phát triển đảng viên và những vấn đề cơ
bản về nâng cao chất lượng tạo nguồn phát triển đảng viên của các đảng
bộ tiểu đoàn học viên ở Học viện Hải quân
1.1.1. Nguồn phát triển đảng viên và tạo nguồn phát triển đảng viên
của các đảng bộ tiểu đoàn học viên ở Học viện Hải quân
* Khái quát về Học viện Hải quân
Học viện Hải quân (ngày 26/4/1955) tiền thân là Trường Huấn luyện
Bờ Bể, được thành lập để huấn luyện, bồi dưỡng cán bộ thực hiện nhiệm vụ
trên sông, biển đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng. Từ đó đến nay, Trường
đã 5 lần đổi tên: Trường huấn luyện Hải quân (1959), Trường Hải quân Việt
Nam (1961), Trường Sĩ quan Hải quân Việt Nam (1979), Trường Sĩ quan chỉ
huy - kỹ thuật Hải quân (1980) và Học viện Hải quân (1993). Thủ tướng
Chính phủ đã ra Quyết định số 836/TTg về việc giao nhiệm vụ đào tạo bậc
Đại học cho HVHQ (ngày 20/12/1995) và Quyết định số 30/1999/QĐ-TTg về

việc giao nhiệm vụ đào tạo Tiến sĩ cho HVHQ (ngày 01/03/1999).
Từ khi thành lập đến nay, Học viện đã đào tạo hàng chục nghìn cán bộ,
nhân viên kỹ thuật cho Quân đội và đất nước, Quân đội các nước bạn Lào,
Campuchia. Hiện nay, HVHQ đang tiếp tục đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao phục vụ sự nghiệp xây dựng Quân đội, Quân chủng Hải quân hiện
đại và góp phần phát triển kinh tế biển của đất nước. Trải qua hơn 63 năm xây
9


dựng, chiến đấu và trưởng thành, HVHQ đã vinh dự được Đảng, Nhà nước,
Quân đội tặng: 01 danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân thời kỳ
chống Mỹ (2005); 01 Huân chương Quân công hạng Nhất (1984); 02 Huân
chương Quân công hạng Ba (1971, 1983); 01 Huân chương Chiến công hạng
Nhất (1988); 01 Huân chương Chiến công hạng Ba (1975); 02 Huân chương
bảo vệ Tổ quốc hạng Hai (2005), hạng Ba (2010); 01 Huân chương Độc lập
hạng Ba (2015) và nhiều phần thưởng cao quý khác.
Tổ chức biên chế của HVHQ bao gồm: Ban Giám đốc Học viện, 06
phòng (Văn phòng, Chính trị, Đào tạo, Khoa học quân sự, Hậu cần, Kỹ Thuật)
và 02 ban (Khảo thí bảo đảm chất lượng giáo dục - đào tạo, Tài chính); 14 khoa
giáo viên; 03 hệ (Hệ 1: đào tạo sau đại học; Hệ 2: đào tạo hoàn thiện, bổ túc,
chuyển loại cán bộ; Hệ 3: Đào tạo sĩ quan cho Quân đội Hoàng gia
Campuchia); 06 tiểu đoàn (Tiểu đoàn 1, Tiểu đoàn 2, Tiểu đoàn 3, Tiểu đoàn 4,
Tiểu đoàn 5 quản lý học viên ĐTSQ cấp phân đội và Tiểu đoàn 6 quản lý đối
tượng dự nguồn); 03 trung tâm huấn luyện và thực hành; 02 đơn vị phục vụ.
Chức năng, nhiệm vụ của HVHQ: đào tạo tiến sĩ, thạc sĩ khoa học quân
sự (chuyên ngành hải quân); sĩ quan chỉ huy tham mưu, chỉ huy kỹ thuật cấp
lữ đoàn, vùng hải quân; liên kết đào tạo cán bộ chính trị cấp lữ đoàn, vùng hải
quân và tương đương. Nghiên cứu khoa học nghệ thuật quân sự hải quân. Đào
tạo và liên kết ĐTSQ cấp phân đội: trình độ đại học, cao đẳng, các kỹ sư quân
sự, cử nhân khoa học quân sự hải quân và các đối tượng: sĩ quan chỉ huy tàu

biên phòng, tàu cảnh sát biển; kỹ sư quân sự các chuyên ngành hải quân; cử
nhân khoa học xã hội và nhân văn chuyên ngành Chính trị viên tàu hải quân.
Đào tạo bổ túc cán bộ: Sĩ quan chỉ huy tàu, chính trị viên tàu; đào tạo tiếng
Anh cho phi công hải quân; bồi dưỡng kiến thức hải quân; bồi dưỡng kiến
thức quân sự; bồi dưỡng kiến thức tiếng Anh, tiếng Nga tạo nguồn đi học tập,
công tác nước ngoài. Đào tạo dự bị đại học, tạo nguồn văn hóa và sĩ quan dự
bị. Đào tạo bậc đại học cho Quân đội Hoàng gia Campuchia.
Mục tiêu ĐTSQ của HVHQ: ĐTSQ cấp phân đội bậc đại học các
10


chuyên ngành: Hải quân, Biên phòng, Cảnh sát biển và cao đẳng chỉ huy tàu.
Khi ra trường trở thành người cán bộ vừa hồng, vừa chuyên; thể hiện ở ba tiêu
chí “sĩ quan, kỹ sư (cử nhân) và đảng viên”.
Tổ chức Đảng, quần chúng và Hội đồng quân nhân ở HVHQ:
Đảng bộ HVHQ là tổ chức đảng cấp trên trực tiếp cơ sở, trực thuộc
Đảng ủy Quân chủng Hải quân, có 36 TCCSĐ trực thuộc gồm: 01 đảng bộ cơ
sở 3 cấp, 07 đảng bộ cơ sở 2 cấp (trong đó có 05 đảng bộ tiểu đoàn học viên
ĐTSQ cấp phân đội) và 28 chi bộ cơ sở.
Các tổ chức quần chúng bao gồm: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí
Minh, Công đoàn và hội Phụ nữ.
Hội đồng quân nhân: tổ chức ở các đơn vị cơ sở trực thuộc Học viện.
* Tiểu đoàn học viên ở Học viện Hải quân
Các tiểu đoàn học viên ở HVHQ là một bộ phận trong tổ chức biên chế
của Học viện, trực thuộc Ban Giám đốc Học viện, trong đó các tiểu đoàn:
Tiểu đoàn 1, Tiểu đoàn 2, Tiểu đoàn 3, Tiểu đoàn 4, Tiểu đoàn 5 quản lý đối
tượng học viên ĐTSQ cấp phân đội; riêng Tiểu đoàn 6 quản lý đối tượng dự
nguồn. Mỗi tiểu đoàn biên chế 02 đại đội học viên (trừ Tiểu đoàn 6).
Đặc điểm của tiểu đoàn học viên ĐTSQ: mỗi tiểu đoàn quản lý một
khóa học viên từ năm thứ nhất đến khi tốt nghiệp ra trường (trước năm 2016,

các tiểu đoàn quản lý học viên các khóa theo từng chuyên ngành Hải quân).
Chức năng, nhiệm vụ của tiểu đoàn học viên ĐTSQ: trực tiếp quản lý,
giáo dục, rèn luyện học viên ĐTSQ; tổ chức thực hiện nhiệm vụ giáo dục đào
tạo và nghiên cứu khoa học theo mục tiêu đào tạo và phân cấp của Học viện;
chấp hành nghiêm pháp luật Nhà nước, điều lệnh, điều lệ, chế độ quy định
của Quân đội và Học viện, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, thực hiện
thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao.
Hệ thống tổ chức chỉ huy của tiểu đoàn gồm: ban chỉ huy tiểu đoàn, ban
chỉ huy đại đội, ban cán sự lớp học viên (do học viên kiêm nhiệm).
Hệ thống tổ chức quần chúng ở các tiểu đoàn học viên gồm: Đoàn Thanh
11


niên Cộng sản Hồ Chí Minh (Đoàn cơ sở tiểu đoàn, chi đoàn đại đội, phân
đoàn lớp học viên), Công đoàn và hội Phụ nữ cơ sở (ghép các tiểu đoàn).
Hội đồng quân nhân được thành lập ở các đại đội học viên ĐTSQ.
* Các đảng bộ tiểu đoàn học viên ở Học viện Hải quân
Hệ thống tổ chức, chức năng, nhiệm vụ của các ĐBTĐHV ở HVHQ
thực hiện theo Quy định số 59-QĐ/TW ngày 22 tháng 12 năm 2016 của Ban
Chấp hành Trung ương ĐCSVN, khóa XII “Quy định về tổ chức đảng trong
Quân đội nhân dân Việt Nam”.
Đảng bộ tiểu đoàn học viên ở HVHQ là một bộ phận trong hệ thống tổ
chức đảng của Đảng bộ HVHQ, đây là loại hình TCCSĐ 2 cấp (gồm Đảng bộ
cơ sở tiểu đoàn và chi bộ đại đội), đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp của
Đảng ủy HVHQ.
Tổ chức ĐBTĐHV ở HVHQ gồm 5 đảng bộ, với các tên gọi: Đảng bộ
cơ sở Tiểu đoàn 1, Đảng bộ cơ sở Tiểu đoàn 2, Đảng bộ cơ sở Tiểu đoàn 3,
Đảng bộ cơ sở Tiểu đoàn 4 và Đảng bộ cơ sở Tiểu đoàn 5 (mỗi ĐBTĐHV
tương ứng với một tiểu đoàn quản lý các khóa học viên từ năm thứ nhất đến
năm thứ năm). Mỗi ĐBTĐHV có 2 chi bộ đại đội học viên trực thuộc, dưới

chi bộ đại đội được chia thành các tổ đảng (số lượng tổ đảng ở từng chi bộ tùy
thuộc vào số lượng đảng viên, tổ chức biên chế các lớp học viên và tình hình
nhiệm vụ của đơn vị).
Chức năng của ĐBTĐHV ở HVHQ thực hiện theo các quy định của
Đảng, cụ thể là: “Lãnh đạo mọi mặt hoạt động trong đơn vị; nghiên cứu, đề
xuất với cấp ủy cấp trên những vấn đề có liên quan đến thực hiện nhiệm vụ
chính trị và công tác đảng, công tác chính trị” [8].
Nhiệm vụ của ĐBTĐHV ở HVHQ thực hiện đầy đủ 5 nhiệm vụ đã ghi
trong Điều lệ Đảng và các quy định của Ban Bí thư về chức năng, nhiệm vụ
của TCCSĐ trong Quân đội nhân dân Việt Nam. Ngoài ra, căn cứ vào loại hình
TCCSĐ, đặc thù nhiệm vụ lãnh đạo, ĐBTĐHV có các nhiệm vụ cụ thể sau:
12


Một là, lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ giáo dục - đào tạo, nghiên cứu khoa
học đúng đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,
nghị quyết, chỉ thị của cấp trên; đổi mới phương pháp học và nghiên cứu khoa
học; xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ quản lý, giáo
dục, rèn luyện học viên theo mục tiêu yêu cầu đào tạo; hoàn thành mọi nhiệm
vụ được giao trong mọi tình huống.
Hai là, lãnh đạo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên và quần chúng
trong đơn vị có bản lĩnh chính trị vững vàng, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh
đạo của Đảng, sẵn sàng nhận và hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao.
Ba là, lãnh đạo nâng cao chất lượng huấn luyện, trình độ sẵn sàng chiến
đấu, sức mạnh chiến đấu, xây dựng đơn vị chính quy, rèn luyện kỷ luật, xây
dựng đơn vị vững mạnh toàn diện. Giữ gìn, quản lý, sử dụng có hiệu quả vũ
khí, trang bị, cơ sở vật chất hậu cần, kỹ thuật, tài chính trong đơn vị, không để
xảy ra thất thoát, lãng phí, cháy nổ. Tổ chức tốt đời sống vật chất, tinh thần cho
bộ đội. Xây dựng và thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở.
Bốn là, tổ chức giao lưu, kết nghĩa với cấp ủy, chính quyền và nhân dân

địa phương nơi đóng quân, thường xuyên phối hợp chặt chẽ, tiến hành công tác
vận động quần chúng, tham gia thực hiện các cuộc vận động chính trị cách
mạng, góp phần xây dựng cơ sở chính trị, phát triển kinh tế - xã hội ở địa bàn
đóng quân vững mạnh, tạo điều kiện cho việc hoàn thành nhiệm vụ chính trị
của đơn vị.
Năm là, lãnh đạo xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch, vững mạnh, nâng
cao năng lực lãnh đạo toàn diện và sức chiến đấu. Chấp hành nghiêm nguyên
tắc tập trung dân chủ và các chế độ sinh hoạt của cấp ủy, chi bộ. Lãnh đạo công
tác cán bộ, công tác kiểm tra, giám sát và công tác phát triển đảng viên mới
theo Điều lệ Đảng và các quy định, hướng dẫn của cấp trên. Lãnh đạo xây
dựng các tổ chức quần chúng, hội đồng quân nhân vững mạnh, hoạt động đúng
chức năng, nhiệm vụ.
* Nguồn phát triển đảng viên của các đảng bộ tiểu đoàn học viên ở
13


Học viện Hải quân
- Quan niệm về nguồn phát triển đảng viên:
Theo nghĩa chung nhất, nguồn là nơi bắt đầu hoặc là cái sinh ra, tạo nên
một sự vật, sự kiện, hiện tượng cụ thể nào đó của tự nhiên hay trong đời sống
xã hội. Chất lượng nguồn tác động trực tiếp đến tiến trình phát triển và quyết
định chất lượng của chính sự vật, hiện tượng được tạo nên từ nguồn đó. Nguồn
cạn kiệt, mất đi sẽ làm cho sự vật, hiện tượng suy thoái và mất theo.
Theo dạng phổ quát, có hai loại nguồn: nguồn tự nhiên và nguồn nhân
tạo. Nguồn tự nhiên là những điều kiện có sẵn trong tự nhiên, từ đây bắt đầu
hoặc tạo nên sự vật, hiện tượng theo quy luật tự nhiên mà con người có khả
năng xem xét, tận dụng được nó. Nguồn nhân tạo cũng là cái vốn có trong tự
nhiên hoặc trong xã hội nhưng đã được con người tác động, biến đổi làm cho
nó có chất lượng mới để tạo nên sự vật, hiện tượng nào đó nhằm thỏa mãn nhu
cầu của con người. Sự tác động biến đổi ấy gọi là tạo nguồn.

Trong Điều lệ ĐCSVN, NPTĐV được xác định: “Công dân Việt Nam từ
mười tám tuổi trở lên; thừa nhận và tự nguyện: thực hiện Cương lĩnh chính trị,
Điều lệ Đảng, tiêu chuẩn và nhiệm vụ đảng viên, hoạt động trong một tổ chức
cơ sở đảng; qua thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm,
đều có thể được xem xét để kết nạp vào Đảng” [5].
Theo Từ điển công tác đảng, công tác chính trị Quân đội nhân dân Việt
Nam: “Nguồn phát triển đảng viên, là những công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở
lên thừa nhận và tự nguyện: thực hiện Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, tiêu
chuẩn và nhiệm vụ đảng viên, hoạt động trong một tổ chức cơ sở đảng; qua
thực tiễn chứng tỏ là người ưu tú, được nhân dân tín nhiệm. Trong Quân đội
nhân dân Việt Nam, nguồn phát triển đảng viên tập trung chủ yếu vào đội ngũ
sĩ quan, nguồn đào tạo sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân viên chức
quốc phòng, hạ sĩ quan, chiến sĩ được rèn luyện, thử thách. Chăm lo xây dựng
nguồn phát triển đảng viên là trách nhiệm của các cấp uỷ đảng, của cán bộ,
đảng viên, các tổ chức, đoàn thể quần chúng và sự nỗ lực tự giác phấn đấu của
14


quần chúng, đoàn viên thanh niên” [58, tr.344 - 345].
Như vậy, có thể hiểu không phải 100% quần chúng đều là NPTĐV.
Nguồn phát triển đảng viên phải là những công dân Việt Nam từ 18 tuổi trở lên,
thực sự là người ưu tú đã được tuyển chọn, rèn luyện thử thách trong thực tiễn,
có đủ điều kiện, tiêu chuẩn để kết nạp vào Đảng.
Học viên ĐTSQ tại HVHQ thuộc diện thi tuyển và xét tuyển đã được
tuyển chọn kỹ về lai lịch chính trị, quan hệ xã hội của gia đình và bản thân, đủ
các điều kiện về học vấn, sức khỏe, nếu tu dưỡng, phấn đấu đáp ứng yêu cầu về
học tập, rèn luyện, chấp hành kỷ luật, có động cơ phấn đấu vào Đảng đúng đắn
đủ điều kiện, tiêu chuẩn để kết nạp vào ĐCSVN.
Với cách tiếp cận như trên, có thể quan niệm: Nguồn phát triển đảng
viên của các ĐBTĐHV ở HVHQ là toàn bộ học viên ĐTSQ đang học tập, rèn

luyện, công tác ở các tiểu đoàn học viên, được giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện
để có đủ các điều kiện, tiêu chuẩn, xem xét kết nạp vào ĐCSVN.
* Tạo nguồn phát triển đảng viên của các đảng bộ tiểu đoàn học viên ở
Học viện Hải quân
Tạo nguồn là một hoạt động tích cực, tự giác, chủ động của các chủ thể
để hình thành nguồn. Công việc tạo nguồn có tốt thì nguồn mới bảo đảm chất
lượng. TNPTĐV là khâu đầu tiên có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, quyết định
đến chất lượng, hiệu quả công tác phát triển đảng viên của tổ chức đảng.
Trong Quân đội, NPTĐV bao gồm toàn bộ quần chúng là sĩ quan, quân
nhân chuyên nghiệp, hạ sĩ quan, chiến sĩ, công nhân viên chức quốc phòng…
có đủ các điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định của Điều lệ Đảng. Tuy nhiên, từ
một công dân, một quần chúng trở thành một đảng viên Cộng sản là một sự
phát triển, một bước nhảy vọt về chất đối với mỗi con người cả về thế giới
quan, nhân sinh quan, lập trường, quan điểm giai cấp chính trị, tư tưởng, phẩm
chất, lý tưởng, lẽ sống, lối sống…, quá trình “chuyển biến về chất” đó không
thể diễn ra một cách tự phát mà nó phải được diễn ra một cách tự giác, có định
hướng, có mục đích, có nguyên tắc và theo một quy trình chặt chẽ của các tổ
15


chức, các lực lượng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản nhằm bảo đảm quần
chúng có đủ điều kiện, tiêu chuẩn để kết nạp vào đội ngũ đảng viên. Quá trình
đó là quá trình TNPTĐV, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “phải chọn
lọc đảng viên mới một cách hết sức cẩn thận. Phải đoàn kết giúp đỡ các đồng
chí mới để họ tiến bộ không ngừng” [42, tr.436].
Từ cách tiếp cận trên, có thể quan niệm: TNPTĐV của các ĐBTĐHV ở
HVHQ là tổng thể các chủ trương, biện pháp, cách thức của các tổ chức, các
lực lượng trong Học viện mà thường xuyên, trực tiếp là các cấp uỷ, tổ chức
đảng ở các tiểu đoàn học viên tác động vào đối tượng tạo nguồn để lựa chọn,
bồi dưỡng giáo dục, rèn luyện, chuyển hóa những quần chúng ưu tú trong học

tập, rèn luyện, có đủ điều kiện, tiêu chuẩn đảng viên Cộng sản, nhằm đáp ứng
yêu cầu xây dựng đội ngũ đảng viên của Đảng và mục tiêu ĐTSQ của Quân
đội.
Quan niệm trên chỉ rõ:
- Mục đích của TNPTĐV của các ĐBTĐHV ở HVHQ là nhằm lựa chọn,
bồi dưỡng giáo dục, rèn luyện, chuyển hóa những quần chúng ưu tú đủ điều
kiện, tiêu chuẩn trở thành đảng viên Cộng sản, đáp ứng yêu cầu xây dựng đội
ngũ đảng viên của Đảng và mục tiêu ĐTSQ của Quân đội.
- Chủ thể của TNPTĐV của các ĐBTĐHV ở HVHQ bao gồm: chủ thể
lãnh đạo, chỉ đạo là Đảng ủy Học viện, đề ra phương hướng, chủ trương biện
pháp lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan, tổ chức, đơn vị có liên quan trong tạo
nguồn; chủ thể tham mưu là Cơ quan chính trị, xây dựng kế hoạch, hướng dẫn
các tổ chức, các đơn vị thực hiện tạo nguồn; chủ thể trực tiếp thực hiện là các
cấp uỷ, tổ chức đảng ở các tiểu đoàn học viên tiến hành hoạt động TNPTĐV.
- Lực lượng tham gia TNPTĐV của các ĐBTĐHV gồm: các cơ quan
chức năng, các khoa giáo viên, chỉ huy các cấp, các tổ chức quần chúng, cán
bộ, đảng viên ở các cơ quan, đơn vị trong Học viện. Bên cạnh đó còn có sự
tham gia, phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan chức năng thuộc Bộ Quốc phòng,
Quân chủng, cơ quan quân sự, chính quyền các địa phương và địa bàn nơi đóng
16


quân, các nhà trường trong hệ thống giáo dục của Quốc gia và gia đình, nhưng
HVHQ chính là khâu tiếp nối quan trọng nhất, mang tính quyết định để tạo nên
sự biến đổi về chất cho đối tượng TNPTĐV.
- Đối tượng của TNPTĐV của các ĐBTĐHV: là thanh niên, học sinh,
sinh viên các trường trong hệ thống giáo dục của Quốc gia, quân nhân thực
hiện nghĩa vụ quân sự ở các đơn vị trong toàn quân và học viên ĐTSQ các tiểu
đoàn học viên ở HVHQ. Mặt khác, đây cũng chính là chủ thể của quá trình tự
học tập, tự bồi dưỡng, tự rèn luyện để đáp ứng yêu cầu của TNPTĐV.

- Nội dung TNPTĐV của các ĐBTĐHV ở HVHQ: giáo dục nâng cao
nhận thức của cấp ủy, chỉ huy các cấp, các tổ chức, lực lượng tham gia về vị
trí vai trò, mục đích, ý nghĩa và tầm quan trọng của TNPTĐV; điều tra khảo
sát, phát hiện, lựa chọn và phân loại nguồn; xây dựng kế hoạch tạo nguồn và
triển khai thực hiện; tiến hành sơ kết, tổng kết đánh giá kết quả TNPTĐV.
- Quy trình, hình thức, phương pháp TNPTĐV của các ĐBTĐHV ở
HVHQ được tiến hành theo các bước sau:
Bước 1, điều tra, khảo sát nguồn: từ đối tượng NPTĐV và ĐTSQ của
HVHQ, yêu cầu nhiệm vụ xây dựng Quân chủng trong tình hình mới. Căn cứ
chỉ thị, hướng dẫn của Bộ Quốc phòng và Quân chủng, HVHQ chủ động phối
hợp chặt chẽ với các cơ quan chức năng của cấp trên, cơ quan quân sự và
chính quyền các địa phương, các trường học để nắm chắc số lượng, cơ cấu,
chất lượng của nguồn theo từng năm, từng thời kỳ, giai đoạn, dự báo xu
hướng phát triển của nguồn và các yếu tố tác động để xác định đối tượng
tuyển sinh ĐTSQ.
Bước 2, xây dựng kế hoạch tạo nguồn và triển khai thực hiện: căn cứ
kết quả điều tra, khảo sát, các cơ quan chức năng của Học viện, chủ động xây
dựng kế hoạch tuyển sinh ĐTSQ từng năm, xác định rõ nội dung, thời gian,
địa điểm và thành phần tham gia, biện pháp tổ chức thực hiện, từng giai đoạn
cụ thể; quán triệt, phân công cụ thể đến từng tổ chức, cá nhân phụ trách; chủ
động phối hợp giữa các cơ quan, ban ngành cả trong và ngoài Học viện để
17


tiến hành công tác tuyển sinh ĐTSQ gắn với TNPTĐV trong Quân đội.
Bước 3, tuyên truyền định hướng cho đối tượng tạo nguồn: HVHQ chủ
động phối hợp hiệp đồng chặt chẽ với các tổ chức, các lực lượng, các địa
phương để tiến hành thông tin, tuyên truyền về biển đảo, tuyên truyền thu hút
nguồn nhân lực cho Quân đội, Quân chủng, giới thiệu và định hướng ngành
nghề đào tạo ở HVHQ, xu hướng phát triển sau khi tốt nghiệp ra trường... Nội

dung tuyên truyền bám sát với mục tiêu yêu cầu của tạo nguồn ĐTSQ và phát
triển đảng viên; hình thức biện pháp tiến hành phải linh hoạt, sáng tạo, khoa
học phù hợp đối với đặc điểm đối tượng của nguồn để thu hút đông đảo thanh
niên, học sinh, quân nhân thực hiện nghĩa phục tham gia tuyển sinh quân sự.
Bước 4, lựa chọn, phân loại nguồn: cơ quan quân sự ở các địa phương,
các đơn vị trong toàn quân tổ chức đăng ký, tiến hành công tác sơ tuyển ban
đầu đối với nguồn; đối tượng thi tuyển, xét tuyển, cử tuyển vào ĐTSQ bảo đảm
đáp ứng các tiêu chuẩn về: năng lực học tập, lịch sử chính trị, phẩm chất đạo
đức, lối sống và điều kiện sức khỏe theo quy định. Rà soát, nắm chắc chất
lượng để phân loại nguồn ĐTSQ, làm cơ sở cho TNPTĐV của các ĐBTĐHV.
Bước 5, giáo dục, bồi dưỡng đối tượng NPTĐV: lập kế hoạch, xác định
nội dung tuyên truyền, giáo dục chính trị hàng năm, chương trình lý luận chính
trị dành cho học viên lớp bồi dưỡng kết nạp đảng, học tập lý luận của tổ chức
đoàn, kết hợp bồi dưỡng của các tổ chức với tự bồi dưỡng, tự rèn luyện, tự
phấn đấu của học viên để nâng cao trình độ giác ngộ, xây dựng và hình thành
mục tiêu lý tưởng cách mạng, bản lĩnh chính trị, thái độ đối với ngành nghề đào
tạo, ý chí phấn đấu vươn lên của học viên theo các điều kiện tiêu chuẩn của sĩ
quan Quân đội và tiêu chuẩn đảng viên Cộng sản.
Bước 6, rèn luyện, thử thách, quản lý, đánh giá đối tượng TNPTĐV: các
cấp ủy, tổ chức đảng, chỉ huy các tiểu đoàn học viên thông qua việc thực hiện
chương trình đào tạo, quy chế rèn luyện học viên, thực hiện nền nếp chế độ sinh
hoạt và trong mọi hoạt động của đơn vị, của đoàn thanh niên; giao nhiệm vụ cho
học viên - quần chúng để rèn luyện thử thách họ trong hoạt động thực tiễn; sâu sát
bám nắm, quản lý chặt chẽ quần chúng là học viên cả về số lượng, chất lượng,
18


nhận xét đánh giá khách quan, chính xác kết quả phấn đấu của từng học viên.
Bước 7, kiểm tra, sơ tổng kết, đánh giá kết quả, rút kinh nghiệm TNPTĐV:
Đảng ủy Học viện, Cơ quan chính trị thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo và kiểm

tra việc thực hiện kế hoạch TNPTĐV của các ĐBTĐHV; tổ chức sơ kết, tổng
kết nghiêm túc, đánh giá chính xác kết quả tạo nguồn, làm rõ ưu điểm, khuyết
điểm, nguyên nhân, trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân để rút kinh nghiệm và
biện pháp khắc phục. Tổ chức kết nạp đảng cho những học viên - quần chúng
đủ điều kiện, tiêu chuẩn theo qui định của Điều lệ Đảng.
* Vai trò của tạo nguồn phát triển đảng viên của các đảng bộ tiểu đoàn
học viên ở Học viện Hải quân
Một là, TNPTĐV trực tiếp góp phần quan trọng, bảo đảm thực hiện
thắng lợi mục tiêu yêu cầu ĐTSQ gắn với phát triển đảng viên của Quân
chủng và Quân đội.
Đối tượng TNPTĐV ở các nhà trường Quân đội hiện nay chủ yếu là học
viên ĐTSQ. Giữa TNPTĐV và ĐTSQ có mối quan hệ hữu cơ, luôn song hành,
đan xen, bổ sung và làm tiền đề điều kiện cho nhau. Chúng thống nhất với nhau
ở mục đích, nhưng có sự khác biệt về nội dung, biện pháp tiến hành. Mục tiêu
yêu cầu khi tốt nghiệp ra trường, học viên phải đạt được ba tiêu chí “sĩ quan, kỹ
sư (cử nhân), đảng viên”. Những học viên ĐTSQ được tạo nguồn và kết nạp
đảng ở HVHQ khi tốt nghiệp ra trường sẽ trở thành người sĩ quan, cán bộ chủ
chốt, đảng viên của Đảng công tác ở các đơn vị cơ sở trong Quân chủng Hải
quân; họ là những cán bộ cấp cơ sở, trực tiếp thực hiện nhiệm vụ huấn luyện, sẵn
sàng chiến đấu và chiến đấu, quản lý chỉ huy bộ đội, quản lý khối lượng lớn cơ
sở vật chất, vũ khí trang bị kỹ thuật của Đảng và nhân dân giao cho. Những sĩ
quan, đảng viên này chính là lực lượng nòng cốt trực tiếp xây dựng, củng cố,
kiện toàn các TCCSĐ, tổ chức chỉ huy ở các đơn vị cơ sở, nhằm củng cố, tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Quân đội trong giai đoạn hiện nay.
Hai là, TNPTĐV trực tiếp góp phần bảo đảm cho CTPTĐ của các
ĐBTĐHV ở HVHQ đạt chất lượng, hiệu quả cao và nâng cao NLLĐ, SCĐ
19


của các TCCSĐ.

Công tác phát triển đảng viên của Đảng là cả quy trình chặt chẽ với
nhiều khâu, nhiều bước, trong đó TNPTĐV là một khâu hết sức quan trọng. Nó
trực tiếp lựa chọn, bồi dưỡng, giáo dục, rèn luyện và giới thiệu cho Đảng
những quần chúng thực sự ưu tú, tiêu biểu về phẩm chất và năng lực để kết nạp
vào Đảng, tăng cường lực lượng, bổ sung nhân tố mới, góp phần thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ chính trị của đơn vị. Suy đến cùng NLLĐ, SCĐ của các
TCCSĐ phụ thuộc một cách quyết định vào số lượng và chất lượng đội ngũ
đảng viên. Tạo nguồn tốt sẽ góp phần xây dựng đội ngũ đảng viên vững mạnh,
tích cực đóng góp với đảng bộ, chi bộ trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính
trị; luôn gương mẫu, tự giác rèn luyện, phấn đấu nâng cao bản lĩnh chính trị,
phẩm chất đạo đức cách mạng, thường xuyên rèn luyện ý thức tổ chức kỷ luật,
xây dựng đoàn kết nội bộ, thực hiện nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê
bình, tuyên truyền vận động, giác ngộ quần chúng là học viên ở đơn vị. Kết
quả của tạo nguồn với những quần chúng ưu tú được kết nạp đảng sẽ là tấm
gương để học viên trong đơn vị noi theo. Với ý nghĩa ấy, TNPTĐV trực tiếp
nâng cao NLLĐ, SCĐ và góp phần xây dựng các ĐBTĐHV TSVM.
Ba là, TNPTĐV của các ĐBTĐHV sẽ góp phần thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ được giao, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện và xây dựng Học
viện, Hải quân nhân dân Việt Nam cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại.
Thực chất quá trình TNPTĐV ở HVHQ là quá trình lựa chọn, bồi dưỡng
giáo dục, chuyển hóa những quần chúng ưu tú để có đủ điều kiện, tiêu chuẩn
của đảng viên. Đó là quá trình hình thành những phẩm chất nhân cách người
Cộng sản, nhân cách người sĩ quan, người kỹ sư Quân đội. Ba nhân cách trong
một con người, song yếu tố chính trị, tư tưởng, phẩm chất đạo đức là gốc, là yếu
tố quan trọng nhất. Quá trình tạo nguồn tập trung nhiều vào yếu tố này, học viên
ĐTSQ nếu được bồi dưỡng tạo nguồn tốt thì phẩm chất, năng lực, trình độ kiến
thức được nâng lên, nắm vững đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ của Quân đội, Quân chủng, Học viện thì họ
20



sẽ tích cực học tập rèn luyện, phấn đấu, góp phần xây dựng đơn vị và Học viện
vững mạnh toàn diện. Thực tiễn cho thấy: “Công tác bồi dưỡng, phát triển đảng
trong các nhà trường đã góp phần quan trọng nâng cao tỷ lệ lãnh đạo và sức
chiến đấu của các tổ chức đảng, thực hiện chủ trương xây dựng chi bộ đại đội
có chi uỷ trong toàn quân. Xây dựng các tổ chức trong đơn vị vững mạnh, nhà
trường chính qui, mẫu mực” [53, tr.6]. Học viên ĐTSQ đều trong độ tuổi tham
gia sinh hoạt đoàn, do đó bồi dưỡng làm cho họ có nhận thức đúng, trách nhiệm
cao, tích cực tham gia vào các hoạt động của đoàn, góp phần xây dựng tổ chức
đoàn vững mạnh. Đồng thời thông qua các hoạt động của tổ chức đoàn mà học
viên được bồi dưỡng, rèn luyện, phấn đấu trưởng thành.
* Đặc điểm cơ bản của tạo nguồn phát triển đảng viên của các đảng
bộ tiểu đoàn học viên thuộc Học viện Hải quân
Thứ nhất, TNPTĐV có số lượng lớn, yêu cầu chất lượng cao.
Trước sự phát triển của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới,
nhiệm vụ của Quân đội, Quân chủng cũng có sự phát triển. Những năm gần đây,
số lượng thí sinh đăng ký dự thi và chỉ tiêu tuyển sinh ĐTSQ của các nhà trường
Quân đội nói chung và HVHQ nói riêng tăng đột biến, điểm chuẩn xét tuyển
ngày càng cao nên chất lượng học viên ĐTSQ - đối tượng TNPTĐV cũng cao
hơn trước, nhất là về trình độ nhận thức và năng lực học tập. Học viên khi tốt
nghiệp, trở thành sĩ quan sẽ là những cán bộ chủ chốt ở các đơn vị tàu, đài, trạm
của Hải quân; họ vừa là người chỉ huy, đồng thời phải là người lãnh đạo đơn vị
tổ chức thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ. Vì vậy, đặt ra những vấn đề mới đối
với TNPTĐV của các ĐBTĐHV ở HVHQ phải không ngừng bồi dưỡng, giáo
dục, rèn luyện nâng cao phẩm chất, năng lực toàn diện cho đội ngũ học viên.
Đây vừa là mục tiêu yêu cầu đào tạo, vừa là tiêu chuẩn của người sĩ quan, cũng
là tiêu chuẩn đặt ra đối với đảng viên hoạt động trong Quân đội.
Thứ hai, TNPTĐV luôn gắn với quá trình tuyển chọn ĐTSQ ở HVHQ.
Xuất phát từ mục tiêu giáo dục đào tạo đối với học viên khi ra trường
phải đạt tiêu chí “3 trong 1”, tức là phải trở thành sĩ quan, kỹ sư (cử nhân) và

21


phải là đảng viên. Để đạt được kết quả đó, quá trình ĐTSQ phải nhằm làm cho
đội ngũ học viên nhận thức đúng về mục tiêu, lý tưởng cách mạng, có bản lĩnh
chính trị vững vàng, tuyệt đối tin tưởng và trung thành với Đảng, với Tổ quốc,
với Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; có phẩm chất đạo đức, lối sống tốt, ý
thức tổ chức kỷ luật cao; có trình độ năng lực chuyên môn toàn diện, sức khỏe
tốt... đây cũng chính là các tiêu chuẩn cơ bản cần phải đạt được của mỗi học
viên, thông qua đó để các cấp ủy, tổ chức đảng xem xét, kết nạp vào Đảng. Vì
vậy, quá trình TNPTĐV luôn gắn kết chặt chẽ với quá trình ĐTSQ, hai quá
trình đó luôn đan xen, hòa quyện vào nhau, thống nhất với nhau không thể tách
rời, tác động bổ sung cho nhau, làm tiền đề, điều kiện để cùng tồn tại và phát
triển, quá trình học viên nỗ lực phấn đấu để được kết nạp vào Đảng cũng chính
là quá trình phấn đấu để đạt tới các tiêu chuẩn của người sĩ quan. Ngược lại,
quá trình ĐTSQ cũng chính là quá trình giúp học viên phấn đấu theo các tiêu
chuẩn của đảng viên, góp phần thực hiện tốt TNPTĐV.
Thứ ba, đối tượng TNPTĐV có nguồn gốc xã hội và lai lịch chính trị đa
dạng, phong phú, trình độ nhận thức chưa đồng đều, đang ở độ tuổi hình
thành, phát triển và hoàn thiện nhân cách.
Học viên ĐTSQ hội tụ về HVHQ từ nhiều vùng miền nên phong tục, tập
quán, cả những cái tiến bộ và cái lạc hậu đã hình thành, ăn sâu, bám rễ vào thói
quen, nếp nghĩ và hành động của họ. Cùng với đó, phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa cũng dần tạo nên sự phân hóa rõ nét giữa
các giai tầng trong xã hội, chênh lệch về thu nhập, mức sống, các nhu cầu xã
hội như: y tế, văn hóa, giáo dục... ở từng đối tượng, từng vùng miền cũng đã
trực tiếp tác động đến các tầng lớp thanh niên, học sinh, sinh viên và quân
nhân, dẫn đến sự chênh lệch về trình độ nhận thức, học vấn, từ đó chi phối đến
năng lực nhận thức và hành vi của học viên khi bước chân vào HVHQ. Mặt
khác, đội ngũ học viên đang ở độ tuổi thanh niên, bên cạnh những điểm mạnh

thì đây là lứa tuổi đang trong quá trình hình thành, phát triển nhân cách, thời
gian học tập, rèn luyện thử thách và kinh nghiệm trong hoạt động xã hội, trong
22


môi trường quân sự chưa nhiều; với tâm lý của tuổi trẻ, dễ nảy sinh chủ quan,
nôn nóng, bản lĩnh chính trị chưa vững vàng nên dễ bị kích động trước các tác
động từ bên ngoài, dao động về mặt tư tưởng, tình cảm, dễ bi quan chán nản
khi va vấp, gặp phải những khó khăn gian khổ, thử thách khắc nghiệt, đặc biệt
đòi hỏi sự hy sinh.
Từ những đặc điểm trên, TNPTĐV của các ĐBTĐHV ở HVHQ cần
phải từng bước tác động, làm chuyển biến nhận thức và hành động của học
viên. Xây dựng và phát triển các phẩm chất, năng lực và ý thức tự giác phấn
đấu, tự tư dưỡng, tự rèn luyện của quần chúng là học viên hướng theo các tiêu
chuẩn đảng viên Cộng sản, tiêu chuẩn của người sĩ quan Quân đội đặt ra.
1.1.2. Những vấn đề cơ bản về chất lượng và nâng cao chất lượng
tạo nguồn phát triển đảng viên của các đảng bộ tiểu đoàn học viên ở Học
viện Hải quân
* Quan niệm và những yếu tố quy định chất lượng tạo nguồn phát triển
đảng viên của các đảng bộ tiểu đoàn học viên ở Học viện Hải quân
- Quan niệm về chất lượng TNPTĐV của các ĐBTĐHV ở HVHQ:
Phạm trù chất lượng được sử dụng khá phổ biến, là đối tượng nghiên cứu
của nhiều chuyên ngành, nhiều môn học tùy thuộc vào cách tiếp cận và nhu cầu
nghiên cứu. Triết học Mác - Lênin cũng chỉ rõ, mọi sự vật, hiện tượng đều có
chất lượng, sự thống nhất biện chứng giữa chất và lượng, sự chuyển hóa từ
những thay đổi về lượng dẫn đến thay đổi về chất và ngược lại là phương thức
của sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan. Sự
tác động biện chứng giữa các thuộc tính, các bộ phận và quá trình cấu thành nên
sự vật, hiện tượng và làm cho sự vật, hiện tượng tồn tại, vận động và phát triển.
Theo Đại từ điển Tiếng Việt, chất lượng được hiểu là: “Cái làm nên

phẩm chất, giá trị của con người, sự vật” [18, tr.331]. Như vậy, chất lượng
chính là cái tạo nên phẩm chất, giá trị một người, một sự vật, sự việc. Đó là
tổng thể các thuộc tính quy định sự tồn tại của sự việc, sự vật, đồng thời là
dấu hiệu cơ bản để phân biệt sự khác nhau giữa các sự vật, sự việc.
23


Do vậy có thể quan niệm: Chất lượng TNPTĐV của các ĐBTĐHV ở
HVHQ là kết tinh giá trị của các khâu, các bước, các nội dung, hình thức, biện
pháp TNPTĐV, được tạo nên bởi nhận thức, trách nhiệm, năng lực, điều kiện
hoạt động của chủ thể, lực lượng tham gia và được biểu hiện tập trung ở số
lượng, cơ cấu, chất lượng NPTĐV, cũng như sự góp phần thúc đẩy CTPTĐ,
xây dựng đội ngũ đảng viên, xây dựng tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh.
- Những yếu tố quy định chất lượng TNPTĐV của các ĐBTĐHV ở
HVHQ, cụ thể:
Một là, nhận thức, trách nhiệm, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp
ủy, tổ chức đảng và sự tham gia các tổ chức, các lực lượng đối với TNPTĐV.
Đảng Cộng sản Việt Nam, mà trực tiếp là các cấp ủy, các tổ chức, lực
lượng ở HVHQ vừa là chủ thể, vừa là người trực tiếp tiến hành TNPTĐV. Để
tạo nguồn thực sự có chất lượng đòi hỏi các tổ chức, lực lượng tham gia phải
có nhận thức đúng, trách nhiệm cao, cụ thể là: tính đúng đắn, khoa học của
những chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, tổ chức đảng nhất là
Đảng ủy tiểu đoàn, chi ủy, chi bộ đại đội học viên; sự tham mưu, hướng dẫn
của Cơ quan chính trị, cán bộ chính trị các tiểu đoàn; trách nhiệm phối hợp và
triển khai thực hiện của cơ quan chức năng, đội ngũ cán bộ quản lý, chỉ huy
đơn vị, các khoa giáo viên, đặc biệt là tổ chức đoàn ở các tiểu đoàn học viên
trực tiếp tham gia vào quá trình TNPTĐV. Vì vậy, chất lượng lãnh đạo, chỉ đạo
của các cấp uỷ, tổ chức đảng và sự tham gia của các tổ chức, các lực lượng
trong Học viện và đơn vị sẽ là thước đo đánh giá nhận thức, trách nhiệm và có
ý nghĩa quyết định đến chất lượng TNPTĐV của các ĐBTĐHV.

Hai là, việc thực hiện các khâu, các bước, nội dung, hình thức, biện pháp
TNPTĐV của các ĐBTĐHV ở HVHQ.
Chất lượng TNPTĐV là tổng hòa chất lượng của các khâu, các bước, nội
dung, hình thức, biện pháp tiến hành; biểu hiện bằng số lượng, chất lượng của
học viên được tạo nguồn. Mọi học viên ĐTSQ đều là đối tượng của TNPTĐV,
24


họ được coi như những chất quặng, những nguyên liệu đầu vào quý nhưng mới
chỉ ở dạng sơ khai, chưa được tuyển chọn, sàng lọc và tôi luyện để tạo ra sản
phẩm có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu sử dụng. Sự tác động, tương tác của
chủ thể, các lực lượng tham gia và nỗ lực phấn đấu của bản thân học viên đó
chính là quá trình thực hiện các khâu, các bước, nội dung, biện pháp TNPTĐV,
là quá trình lựa chọn, tuyên truyền, bồi dưỡng, giáo dục, rèn luyện thử thách một
cách toàn diện để quần chúng là học viên ở các ĐBTĐHV đủ điều kiện, tiêu
chuẩn kết nạp đảng. Vì vậy, để đạt chất lượng, hiệu quả cao trong tạo nguồn, các
cấp ủy, tổ chức đảng, các lực lượng tham gia cần quán triệt, thực hiện đầy đủ các
khâu, các bước, các nội dung, hình thức, biện pháp trong TNPTĐV.
Ba là, phẩm chất, năng lực của học viên qua phấn đấu, tu dưỡng, rèn
luyện theo mục tiêu, yêu cầu ĐTSQ và tiêu chuẩn của đảng viên.
Trong sự vận động, phát triển của các sự vật, hiện tượng, để tạo ra sự
biến đổi về chất và lượng đều phải phụ thuộc vào hai yếu tố, đó là yếu tố bên
trong và yếu tố bên ngoài, trong đó yếu tố bên trong đóng vai trò quyết định,
yếu tố bên ngoài đóng vai trò quan trọng. TNPTĐV về thực chất là quá trình lựa
chọn, giáo dục nhằm chuyển hóa những quần chúng ưu tú theo các điều kiện,
tiêu chuẩn của đảng viên Cộng sản. Yếu tố bên trong ở đây chính là quá trình tự
phấn đấu, tự tu dưỡng rèn luyện của học viên - yếu tố quyết định đến việc hình
thành phẩm chất, nhân cách, trình độ năng lực, bảo đảm cho học viên đạt đến
các tiêu chuẩn, điều kiện để trở thành đảng viên Cộng sản. Theo đó, chất lượng
TNPTĐV luôn bị quy định và phụ thuộc vào chất lượng tự tu dưỡng, tự rèn

luyện phấn đấu theo tiêu chuẩn đảng viên của đội ngũ học viên.
Bốn là, đáp ứng tốt mục tiêu, yêu cầu về tiêu chuẩn NPTĐV của các
ĐBTĐHV ở HVHQ.
Mục tiêu yêu cầu ĐTSQ ở HVHQ đặt ra: 100% học viên sau khi ra
trường phải trở thành sĩ quan Quân đội, đảng viên ĐCSVN. Để được đứng
trong hàng ngũ của Đảng đòi hỏi TNPTĐV của các ĐBTĐHV phải giáo dục,
25


×