Tải bản đầy đủ (.docx) (153 trang)

Tổng hợp câu hỏi ôn tập môn triết học đầy đủ nhất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (629.16 KB, 153 trang )

CÂU HỎI ÔN TẬP TRIẾT HỌC
(THI GIỮA KỲ)
1. Trình bày khái quát và đánh giá các hình thức lịch sử cơ bản của chủ nghĩa duy
vật:..............................................................................................................................................
2
1b. Anh chị hãy trình bày những đặc trưng cơ bản của tri thức triết học. Mối quan
hệ của triết ho
môn khoa học khác.....................................................................................................................
6
2. Trình bày khái quát và đánh giá các hình thức lịch sử của phép biện chứng.........................
8
4. Triết học Mác - Lênin trong thời đại ngày nay.....................................................................
33
3. Anh chị hãy trình bày những chức năng cơ bản của triết học và vai trò của triết
học đối với
hội.............................................................................................................................................
36
4. Anh chị hãy trình bày những đặc trưng cơ bản của triết học Phương Đông cổ trung đại và nêu l
ảnh hưởng của nó đối với xã hội Việt Nam giai đoạn.....hiện nay...........................................
39
Anh chị hãy trình bày quan điểm về “nhân-quả” của triết học Phật giáo trong
thuyết...............Tứ51diệu đ
6. Bằng sự ra đời của triết học Phật giáo, anh chị hãy chứng minh rằng nội dung
của các học th
nói riêng, đời sống tinh thần của con người nói chung bị điều kiện sống...quy định...............
53
5.

7. Bằng sự ra đời của triết học Nho gia, anh chị hãy chứng minh rằng nội dung của
các học thuyế



nói riêng, đời sống tinh thần của con người nói chung bị điều kiện sống...quy định...............
54
8. Anh chị hãy trình bày quan điểm “chính danh” của triết học Nho gia và nêu lên
một số ảnh hưở
đối với đời sống xã hội Việt Nam....hiện nay..........................................................................
56
9. Anh chị hãy trình bày quan điểm của mình về thuyết “Chính danh”..của Nho gia..............
59
10. Anh chị hãy trình bày nội dung về “lễ” trong “ngũ thường” của Nho gia và ảnh
hưởng của nó
sống xã hội Việt Nam giai đoạn hiện. .tại.................................................................................
63
11. Anh chị hãy trình bày nội dung cơ bản về “lễ” trong “ngũ thường” của Nho gia
và quan điểm c
về vai trò của “lễ” đối với đời sống......xã hội..........................................................................
66
12. Anh chị hãy trình bày đặc trưng cơ bản của triết học phương Tây cổ đại và nêu
lên một số ản
nó đối với sự phát triển của khoa học Phương Tây. .hiện nay..................................................
71
13. Anh chị hãy trình bày đặc trưng cơ bản của triết học thời phục hưng và ảnh
hưởng của nó đ
triển của xã hội Tây Âu từ thế kỷ XV đến thế.....kỷ XIX........................................................
72
Câu 13b: Trình bày những tiền đề ra đời của triết học...Mác-Lênin.......................................
74
14.

Anh chị hãy trình bày ảnh hưởng của triết học Hêghen đối với sự ra đời

của......................triếthọc77Mác


Anh chị hãy trình bày ảnh hưởng của triết học Phoiơbác đối với sự ra
đời ...................củatriếthọc80 Ma
16. Anh chị hãy trình bày ảnh hưởng của triết học Hêghen và Phoiơbác đối với sự
ra đời. 83của tri
17. Anh chị hãy trình bày ảnh hưởng của những thành tựu của khoa học tự nhiên
thế kỷ thứ XI
ra đời của triết học...Mác..........................................................................................................
87
15.

18. Anh chị hãy trình bày những đặc trưng cơ bản của tri thức triết học. Mối quan
hệ của triết ho
môn khoa học khác...................................................................................................................
89
19.

Anh chị hãy trình bày những đặc điểm chủ yếu của lịch sử tư tưởng
triết..........................họcViệtNam91
20.

Triết học có ý nghĩa gì đối với cuộc sống và học tập, công tác của bạn ?

21.

Tại sao đến nay thế kỷ XXI vẫn còn đấu tranh giữa CNDV & CNDT ?



1. Trình bày khái quát và đánh giá các hình thứ c lị ch sử cơ bả n củ a chủ nghĩa duy vật:
Cũng như tất cả các ngành khoa học khác, chủ nghĩa duy vật triết học đã có quá trình ra
đời và phát triển qua các giai đoạn khác nhau mà biểu hiện tập trung nhất của nó là việc giải
quyết vấn đề cơ bản của triết học theo lập trường duy vật - mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức. Với việc giải quyết theo lập trường duy vật biện chứng mối quan hệ giữa vật chất và ý
thức, chủ nghĩa duy vật đã được nâng lên một tầm cao mới về chất, đặt nền tảng thế giới
quan khoa học để giải quyết tất cả những vấn đề của nhận thức khoa học và hoạt động thực
tiễn.
Từ mối quan hệ giữa vật chất và ý thức là vấn đề cơ bản của triết học. Phạm trù vật chất và
mối liên hệ giữa vật chất và ý thức đã được các nhà triết học trước Mác quan tâm với nhiều
quan điểm khác nhau và luôn diển ra cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa
duy vật trong suốt lịch sử của triết học.
Quan điểm Mácxit cho rằng chỉ có một thế giới duy nhất và thống nhất là thế giới vật chất.
Thế giới vật chất tồn tại khách quan có trước và độc lập với ý thức con người.
-Theo Lênin "Vật chất là phạm trù triết học dùng để chỉ thực tại khách quan được đem lại
cho con người trong cảm giác, được cảm giác của chúng ta chép lại, chụp lại, phản ánh và tồn
tại không lệ thuộc vào cảm giác".
thức: là một thuộc tính của một dạng vật chất có tổ chức cao của bộ não người, là sự
phản ánh thế giới khách quan vào bộ óc con người.
Ý

Mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức:
Vật chất quyết định sự hình thành và phát triển của ý thức. Vật chất là cái có trước nó sinh
ra và quyết định ý thức:
Nguồn gốc của ý thức chính là vật chất: Bộ não người, cơ quan phản ánh thế giới xung
quanh, sự tác động của thế giới vật chất vào bộ não người, tạo thành nguồn gốc tự nhiên.
Lao động và ngôn ngữ (tiếng nói, chữ viết) trong hoạt động thực tiễn cùng với nguồn gốc
tự nhiên quyết định sự hình thành tồn tại và phát triển của ý thức.
Mặt khác, ý thức là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan. Vật chất là đối tượng
khách thể của ý thức, nó quy định nội dung, hình thức, khả năng và quá trình vận động của ý

thức.
Sự tác động trở lại của ý thức:


Y thức do vật chất sinh ra và quy định nhưng ý thức lại có tính độc lập tương đối của nó.
Hơn nữa sự phản ánh của ý thức đối với vật chất là sự phản ánh tinh thần, phản ánh sáng tạo
và chủ động chứ không thụ động, máy móc, nguyên xi thế giới vật chất vì vậy nó có tác động
trở lại đối với vật chất thông qua hoạt động thực tiễn của con người.
Dựa trên các tri thức về quy luật khách quan, con người đề ra mục tiêu, phương hướng,
xác định phương pháp, dùng ý chí để thực hiện mục tiêu ấy. Vì vậy ý thức tác động trực tiếp
đến vật chất theo hai hướng chủ yếu: Nếu ý thức phản ánh đúng đắn điều kiện vật chất, hoàn
cảnh khách quan thì sẽ thúc đẩy hoặc tạo sự thuận lợi cho sự phát triển của đặc trưng vật
chất. Ngược lại nếu ý thức phản ánh sai lệch hiện thực sẽ làm cho hoạt động của con người
không phù hợp với qluật khách quan do đó sẽ kìm hãm sự ptriển của vật chất.
Tuy vậy sự tác động của ý thức đối với vật chất cũng chỉ với một mức độ nhất định chứ nó
không thể sinh ra hay tiêu diệt các quy luật vận động của vật chất được. Và suy cho cùng dù
ở mức độ nào nó vẫn phải dựa trên cơ sở sự phản ánh thế giới vật chất.
Biểu hiện của mối quan hệ giữa ý thức và vật chất trong đời sống xã hội là quan hệ tồn tại
xã hội và ý thức xã hội trong đó tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội đồng thời ý thức xã
hội có tính độc lập tương đối và tác động trở lại tồn tại xã hội. Ngoài ra, mối quan hệ giữa vật
chất và ý thức còn là
Lớp M12CQDT01-N

Page 2


cơ sở để nghiên cứu, xem xét các mối quan hệ khác như: lý luận và thực tiễn, khách thể và
chủ thể, vấn đề chân lý...
* Từ mối quan hệ này ta đánh giá và rút ra được Quan điểm khách quan như sau:
Nguyên tắc khách quan trong xem xét là hệ quả tất yếu của quan điểm DVBC về mối quan

hệ giữa vật chất và ý thức. Vật chất quyết định ý thức là sự phản ánh vật chất cho nên trong
nhận thức và hành động phải đảm bảo tính khách quan, trong hoạt động thực tiễn phải luôn
luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo các quy luật khách quan.
Nguyên tắc này đòi hỏi chúng ta trong nhận thức và hành động phải xuất phát từ bản thân
SVHT, từ thực tế khách quan, không được xuất phát từ ý thức chủ quan, không lấy ý muốn
chủ quan của mình làm chính sách, không lấy ý chí áp đặt thực tế. Nắm vững nguyên tắc
khách quan đòi hỏi phải tôn trọng sự thật, tránh thái độ chủ quan, nóng vội, định kiến, không
trung thực.
Nói như vậy không có nghĩa là quan điểm khách quan coi nhẹ tính năng động của ý thức.
Quan điểm khách quan không những không loại trừ mà còn đòi hỏi phát huy tính năng động
và sáng tạo của ý thức trong quá trình phản ánh sự vật. Bởi vì quá trình đạt tới tính khách
quan đòi hỏi chủ thể phải phát huy tính năng động chủ quan trong việc tìm ra những con
đường, những biện pháp để từng bước thâm nhập sâu vào bản chất của sự vật. Điều đó phân
biệt quan điểm khách quan với chủ nghĩa khách quan. Nguyên tắc khách quan có ý nghĩa
ngăn ngừa tư duy khỏi những sai lầm do việc chủ thể nhận thức đưa vào sự vật (khách thể
nhận thức) một số yếu tố chủ quan vốn không có trong bản thân sự vật. Tuân theo quan điểm
khách quan góp phần ngăn ngừa bệnh chủ quan, duy ý chí.
Yêu cầu của nguyên tắc khách quan đòi hỏi phải tôn trọng quy luật khách quan và hành
động theo quy luật khách quan.
Từ những cơ sở lý luận trên chúng ta nhận thấy Bệnh chủ quan duy ý chí trong quá
trình xây dựng CNXH thời kỳ trước đổi mới:
Bệnh chủ quan duy ý chí là một sai lầm khá phổ biến ở nước ta và ở nhiều nước XHCN
trước đây, gây tác hại nghiêm trọng đối với sự nghiệp xây dựng CNXH.
thức là sự phản ánh hiện thực khách quan vo bộ ĩc nguời một cách sáng tạo, l ci thực tại
chủ quan tồn tại ở trong óc người dưới dạng hình ảnh tinh thần của sự vật khch quan. Vì vậy
nếu cường điệu tính sáng tạo của ý thức sẽ rơi vào bệnh chủ quan, duy ý chí. Bệnh chủ quan
duy ý chí là khuynh hướng tuyệt đối hóa vai trò của nhân tố chủ quan, cường điệu tính sáng
tạo của ý thức, của ý chí, xa thời hiện thực khách quan, bất chấp quy luật khách quan lấy
nhiệt tình Cách mạng thay cho sự yếu kém về tri thức khoa học.
Ý



Sai lầm của bệnh chủ quan, duy ý chí là lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội chạy
theo nguyện vọng chủ quan, sai lầm đó thể hiện rõ trong khi định ra chủ trương chính sách và
lựa chọn phương pháp tổ chức hoạt động thực tiễn theo hướng áp đặt, rơi vào ảo tưởng, chủ
quan.
Bệnh chủ quan duy ý chí có nguồn gốc từ nhận thức, sự yếu kém về tri thức khoa học, tri
thức lý luận không đáp ứng được đòi hỏi của thực tiễn. Bệnh chủ quan duy ý chí còn do
nguồn gốc lịch sử, xã hội, giai cấp, tâm lý của người sản xuất nhỏ chi phối. Cơ chế quan liêu
bao cấp cũng tạo điều kiện cho sự ra đời của bệnh chủ quan, duy ý chí...
Trước thời kỳ đổi mới (ĐH6), Đảng ta đã mắc bệnh chủ quan, duy ý chí trong việc xây
dựng mục tiêu và bước đi về xây dựng cơ sở vật chất kỷ thuật, cải tạo XHCN và quản lý kinh
tế, Đảng ta đã nóng vội muốn xóa bỏ ngay nền kinh tế nhiều thành phần, muốn sau khi cải
tạo XHCN chỉ còn lại hai thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể hay có lúc đẩy mạnh quá
mức việc xây dựng công nghiệp nặng mà không chú ý phát triển công nghiệp nhẹ, chúng ta
đã duy trì quá lâu cơ chế quản lý kinh tế tập trung bao cấp mang tính quan liêu, cơ chế xin
cho, có nhiều chủ trương sai trong việc cải cách giá cả, tiền lương, tiền tệ.
Lớp M12CQDT01-N

Page 3


Để khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí, phải tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp. Trước hết
phải đổi mới tư duy lý luận, nâng cao năng lực trí tuệ, trình độ lý luận của Đảng, trong hoạt
động thực tiễn phải tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan. Phải đổi mới cơ chế
quản lý kinh tế, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chí trị, chống bảo
thủ, trì trệ, quan liêu.
Bài học kinh nghiệm của Đảng:
Trong quá trình xác định đường lối Cách mạng và chỉ đạo thực tiễn. Đảng Cộng Sản Việt
Nam luôn luôn quán triệt mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức. Đảng cộng sản

Việt Nam "luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan.
Năng lực nhận thức và hành động theo quy luật là điều kiện đảm bảo sự dẫn đầu đúng đắn
của Đảng" là một bài học kinh nghiệm lớn rút ra từ thực tiễn Cách mạng nước ta. Đó chính là
biểu hiện coi quan điểm vật chất, các quy luật khách quan có vai trò quyết định được ý thức
đối với nhận thức.
Đảng ta thừa nhận đã phạm sai lầm chủ quan duy ý chí, vi phạm quy luật khách quan,
muốn nhanh chống thực hiện nhiều mục tiêu của CNXH trong điều kiện mới ở chặng đường
đầu tiên. Chúng ta đã có những thành kiến không đúng trên thực tế chưa thật sự thừa nhận
những quy luật của sản xuất hàng hóa đang tồn tại khách quan (quy luật cung cầu, cạnh
tranh, giá trị) do đó không chú ý vận dụng chúng vào việc chế định các chủ trương chính
sách kinh tế làm cho nền kinh tế trì trệ, khủng hoảng trầm trọng.
Để khắc phục được khuyết điểm, chuyển biến tình hình, Đảng ta trước hết phải thay đổi
nhận thức, đổi mới tư duy. Phải nhận thức đúng đắn và hành động phù hợp với hệ thống quy
luật khách quan, trong đó các quy luật đặc thù của CNXH ngày càng chi phối mạnh mẽ
phương hướng phát triển chung của xã hội.
Tiêu chuẩn đánh giá sự vận dụng đúng đắn các quy luật thông qua chủ trương chính sách
của Đảng và Nhà nước là sản xuất phát triển, lưu thông thông suốt, đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân từng bước được ổn định và nâng cao, con người mới XHCN ngày càng
hình thành rõ nét, xã hội ngày càng lành mạnh, chế độ XHCN ngày càng được cũng cố. Điều
đó là điều kiện đảm bảo sự dẫn dắt đúng đắn của Đảng. Mọi chủ trương chính sách gây tác
động ngược lại là biểu hiện sự vận dụng không đúng quy luật khách quan, phải được sữa đổi
hay bãi bỏ.
Trên cơ sở quán triệt mối quan hệ biện chứng giữa vật chất và ý thức, rút kinh nghiệm từ
những sai lầm do chủ quan duy ý chí, từ Đại hội VI của Đảng (1986) Đảng đã chỉ rõ bài học
kinh nghiệm và đề ra phương hướng, biện pháp khắc phục bệnh chủ quan duy ý chí và bệnh
bảo thủ, trì trệ nhằm từng bước sửa chữa những sai lầm. Những phương hướng biện pháp đó
là:
Một là phải tiến hành đổi mới toàn diện, đồng bộ và triệt để với những hình thức, bước
đi, cách làm phù hợp, trong đó lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm mà trước hết là đổi mới tư
-



duy kinh tế, nâng cao trình độ tri thức, năng lực nhận thức và vận dụng quy luật cho đội ngũ
cán bộ Đảng viên. Đây là cuộc cách mạng triệt để, sâu sắc và đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội…), từ đổi mới quan niệm, tư duy lý
luận đến đổi mới cơ chế chính sách, tổ chức cán bộ, phong cách và lề lối làm việc.
Để đảm bảo sự lãnh đạo thành công trong công cuộc đổi mới này thì Văn kiện Đại hội
Đảng lần VI đã xác định: “Đảng phải luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo
quy luật là điều kiện đảm bảo sự dẫn đầu của Đảng. Năng lực nhận thức theo quy luật là điều
kiện đảm bảo sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng”. Trên cơ sở hiểu rõ mối quan hệ biện chứng
giữa kinh tế và tình hình chính trị, ổn định xã hội, Đảng ta bắt đầu công cuộc đổi mới từ đổi
mới về tập trung trước hết vào việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đổi mới kinh tế, khắc phục
khủng hoảng KT-XH, tạo tiền đề cần thiết về vật chất và tinh thần để giữ vững ổn định chính
trị, xây dựng và củng cố niềm tin của nhân dân, tạo thuận lợi để đổi mới các mặt khác của
đời sống XH. Bên cạnh đó, với quan điểm tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan,
trong các chủ trương, chính sách kinh tế từ sau Đại hội Đảng
lần VI đến nay đã có nhiều chuyển biến tích cực. Cụ thể như: Đại hội VI xác định xây dựng
quan hệ Lớp M12CQDT01-N Page 4


sản xuất mới xã hội chủ nghĩa là một công việc to lớn, không thể làm xong trong một thời
gian ngắn, không thể nóng vội làm trái quy luật. Văn kiện Đại hội xác định: "Nay phải sửa lại
cho đúng như sau: Đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục
trong suốt thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, với những hình thức và bước đi thích hợp, làm
cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất, luôn có tác
dụng thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất". Đại hội cũng phát hiện một vấn đề lớn
có tính lý luận, hoàn toàn mới mẻ: " Kinh nghiệm thực tiễn chỉ rõ: lực lượng sản xuất bị kìm
hãm không chỉ trong trường hợp quan hệ sản xuất lạc hậu, mà cả khi quan hệ sản xuất phát
triển không đồng bộ, có những yếu tố đi quá xa so với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất". Trên cơ sở đó, Đại hội xác định: "Nền kinh tế nhiều thành phần là một đặc trưng của

thời kỳ quá độ".Trong cơ cấu sản xuất và cơ cấu đầu tư, tôn trọng nguyên tắc quan hệ SX
phải phù hợp với lực lượng SX, Đại hội VI đã xác định phải điều chỉnh lại các cơ cấu này
theo hướng "không bố trí xây dựng công nghiệp nặng vượt quá điều kiện và khả năng thực
tế", tập trung sức người, sức của vào việc thực hiện ba chương trình mục tiêu: sản xuất lương
thực-thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng và sản xuất hàng xuất khẩu. Đây là những chương
trình chẳng những đáp ứng được nhu cầu bức xúc nhất lúc bấy giờ mà còn là điều kiện thúc
đẩy sản xuất và lưu thông hàng hóa, là cái gốc tạo ra sphẩm hàng hóa
- Hai

là trong điều kiện ngày nay khi thế giới đang đi vào nền kinh tế tri thức thì chúng ta
phải “nâng cao hàm lượng tri thức trong các nhân tố phát triển KTXH, từng bước phát
triển kinh tế tri thức ở nước ta”(VKĐH IX) và VKĐH X tiếp tục phát triển tư tưởng đó
trong điều kiện đất nuớc ta đã hội nhập với cộng đồng quốc tế và nhấn mạnh phải:
“phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu tố quan trọng của nền kinh tế và
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Đây là biện pháp nhằm khắc phục nguyên
nhân sâu xa của bệnh chủ quan duy ý chí và bệnh bảo thủ là sự yếu kém về lý luận, lạc
hậu về trình độ, tri thức KH công nghệ. Văn kiện ĐH Đảng lần VIII đã nhấn mạnh:
“phải lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh
và bền vững”. Để thực hiện được điều đó, Đảng ta cũng đã đề ra phương hướng trong
VK ĐH X là “phát huy tối đa khả năng về vật chất, trí tuệ và tinh thần của mọi người
dân”, đặc biệt phải chú ý: “trọng dụng nhân tài, các nhà khoa học đầu ngành, tổng
công trình sư, kỹ sư trưởng, kỹ thuật viên lành nghề và công nhân có tay nghề cao. Có
chính sách thu hút các nhà khoa học, công nghệ giỏi ở trong nước và ngòai nước, trong
cộng đồng người VN ở nước ngòai”

Để đảm bảo công cuộc đổi mới đi đúng hướng và ngày càng đạt kết quả cao, Đảng ta đẽ đề
ra biện pháp: “nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng…”(VKĐH X), đồng
thời phải: “tiếp tục phát huy truyền thống vẻ vang của Đảng, của dân tộc, nêu cao tinh thần
yêu nước, ý chí tự cường, ra sức thi đua thực hiện thắng lợi nghị quyết của ĐH, sớm đưa
nuớc ta ra khỏi tình trạng kém phát triển và tiến mạnh trên con đường công nghiệp hóa, hiện

đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nuớc mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Từ những kinh nghiệm thời gian qua, tại Đại hội XI của Đảng (tháng 1-2011), Đảng
ta đã rút ra những bài học kinh nghiệm sau:
- Một

là, trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào, phải kiên trì thực hiện đường lối và
mục tiêu đổi mới, kiên định và vận dụng sáng tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đổi mới


toàn diện, đồng bộ với những bước đi thích hợp. Tích cực, chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế phải gắn với chú trọng xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, giữ vững truyền
thống và bản sắc văn hoá dân tộc. Mở rộng, phát huy dân chủ phải gắn với tăng cường
kỷ luật, kỷ cương và ý thức trách nhiệm của mỗi công dân, cơ quan, đơn vị, doanh
nghiệp và cả cộng đồng.
Hai là, phải thực sự coi trọng chất lượng, hiệu quả tăng trưởng và phát triển bền vững,
nâng cao chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế, đồng thời duy trì tốc độ tăng trưởng hợp lý,
giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô. Tăng cường huy động các nguồn lực trong và ngoài nước, sử
dụng tiết kiệm và hiệu quả các nguồn lực để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế. Phát triển
lực lượng sản xuất phải đồng
Lớp M12CQDT01-N
Page 5
-


thời xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp; củng cố và tăng cường các yếu tố bảo
đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế.
- Ba

là, phải coi trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ

và công bằng xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, đặc biệt là
trong tình hình kinh tế khó khăn, suy giảm; gắn phát triển kinh tế với phát triển văn
hóa, củng cố quốc phòng, an ninh, tăng cường quan hệ đối ngoại, thực hiện tốt hai
nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

- Bốn

là, đặc biệt chăm lo củng cố, xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Thật sự phát huy dân chủ, giữ vững nguyên tắc, kỷ luật, kỷ cương, đoàn kết thống
nhất, gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân
dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên vững
vàng về chính trị, tư tưởng, trong sáng về đạo đức, lối sống, có sức chiến đấu cao,
thành thạo về chuyên môn, nghiệp vụ; phát huy hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà
nước, tính tích cực, chủ động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.

- Năm

là, trong công tác lãnh đạo và chỉ đạo phải rất nhạy bén, kiên quyết, sáng tạo, bám
sát thực tiễn đất nước; chú trọng công tác dự báo, kịp thời đề ra các giải pháp phù hợp
với tình hình mới; tăng cường công tác tuyên truyền, tạo sự đồng thuận cao, phát huy
sức mạnh của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội.

Trên đây là phần trình bày khái quát và đánh giá các hình thức lịch sử cơ bản của Chủ
nghĩa duy vật gắn liền với tình hình KT-XH thực tiễn của Việt Nam thời gian qua.
1b. Anh chi ̣hãy trình bày như ̃ng̣đăc ưtr ngơc ban̉ cuả tri th ức triết hoc̣. Mối quan hệ c triết
hoc̣ vơ ́i các môn khoa hoc̣ khác

Hiện nay, vấn đề tri thức đang được quan tâm nghiên cứu sâu sắc cả về phương diện triết
học lẫn nhận thức khoa học nói chung. Điều đó không chỉ do yêu cầu của kinh tế tri thức, mà

còn do sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin.
Trong nghiên cứu tri thức, một khía cạnh nổi lên, đó là xác định bản chất tri thức hay định
nghĩa khái niệm tri thức.
Tri thức là một thành phần của nhận thức, của toàn bộ đời sống tinh thần, ý thức con người
nói chung. Tri thức liên quan đến mọi tồn tại, hoạt động của con người, xã hội và có những
cơ sở tự nhiên nhất định của nó. Mỗi đặc trưng của tri thức sẽ được vạch ra dựa trên một
hoặc những quan điểm xem xét nhất định, trong đó có quan điểm cơ bản, làm nền tảng của
toàn bộ sự xem xét. Việc chỉ ra những đặc trưng của tri thức dưới đây sẽ mang nội dung và ý
nghĩa như vậy. Phải thấy ngay rằng việc nhận thức bản chất của tri thức sẽ trở nên hỗn độn,
khó xác định, nếu trước hết không thừa nhận tri thức là một dạng thái nhất định của tinh thần,
là “hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”. Một trong những luận điểm tiêu biểu của
triết học Mác về ý thức: “ý niệm chẳng qua chỉ là vật chất được di chuyển vào trong đầu óc
con người và được cải biến đi ở trong đó”. Luận điểm đó thể hiện rõ quan điểm duy vật khoa


học về ý thức, cho thấy rõ ý thức là sự phản ánh hiện thực vật chất khách quan vào bộ óc
người. Do đó, tri thức với tư cách thành phần của nhận thức và của ý thức, tất nhiên cũng
được xem là cái phản ánh, cái tồn tại trong bộ óc người - chủ thể tri thức, phân biệt, đối lập
với cái được phản ánh là hiện thực vật chất khách quan. Như vậy, tri thức là cái tinh thần, là
“hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan”. Với tư cách là cái tinh thần, tri thức phản ánh
các đối tượng vật chất không phải bằng cách tái hiện đối tượng đó bằng những đặc tính vật
chất như những phản ánh vô cơ, vật lý, mà bằng những đặc tính tự nhiên - xã hội tổng hợp,
đặc trưng cho hoạt động và chức năng phản ánh của bộ não người.
Tri thức là hình thức cao nhất của sự tiến hoá các hình thức phản ánh. Cùng với việc hiểu
tri thức theo quan điểm phản ánh luận duy vật mácxít, thì việc hiểu nó với tư cách một hình
thức của sự tiến hoá của các hình thức phản ánh, lại là một góc nhìn khác, góc nhìn tiến hoá
luận về tri thức.

Lớp M12CQDT01-N


Page 6


Tri thức là kết quả của nhận thức. Việc xem xét tri thức theo quan điểm phản ánh luận
không tách rời tiếp cận tri thức theo quan điểm hoạt động. Nhận thức của con người dù dưới
bất kỳ hình thức nào với mức độ nào, cũng đều là quá trình hoạt động. Theo cơ cấu chung,
thì hoạt động nào cũng có yếu tố cuối cùng mang ý nghĩa “khép lại” một chu trình, đó là sản
phẩm hay kết quả của nó. Không thể đồng nhất kết quả với quá trình tạo ra nó trong bất kỳ
hoạt động nào của con người. Thí dụ, việc người ta đặt ra câu hỏi: “Trái đất có hình gì?”, việc
người ta đi tìm câu trả lời cho câu hỏi đó và việc người ta đưa ra được câu trả lời rằng “Trái
đất hình cầu”, rõ ràng là hai thành tố khác nhau của hoạt động nhận thức. Cái sau là kết quả
và cái trước là quá trình đạt đến cái sau. Tất nhiên, trong quá trình đi đến kết luận “Trái đất
hình cầu”, người ta phải vận dụng nhiều tri thức khác như những hiểu biết (tri thức) về “trái”,
“đất”, “trái đất”, về “hình”, “cầu” và “hình cầu” v.v.. Những tri thức này cấu thành quá trình
nhận thức, sáng tạo ra những tri thức mới, giúp người ta hiểu ra điều là “Trái đất hình cầu”.
Nhưng những tri thức ấy khi tách riêng ra, chúng vẫn là kết quả của những quá trình nhận
thức đã diễn ra trước đó, còn trong quá trình nhận thức để đạt đến tri thức mới (nhận ra “Trái
đất hình cầu”), chúng là những yếu tố cấu thành quá trình ấy, là phương tiện, chứ không phải
mục đích.
Tri thức với tư cách là thông tin. Quan niệm tri thức, sự phản ánh ở giới tự nhiên hữu sinh
nói chung, là thông tin. Như mọi vật mang thông tin, bộ não con người mang, lưu giữ tri thức
không phải để cố định chúng trong trạng thái đã xong xuôi, kết thúc, hoặc thậm chí trong
trạng thái chết, mà là để chuẩn bị, đem lại, cung cấp cho những yêu cầu, hoạt động mới của
con người. Chỉ với ý nghĩa ấy, tri thức mới tồn tại với nghĩa là thông tin và cũng chỉ nhờ vậy,
bộ óc con người mới trở thành vật mang thông tin là tri thức. Tuy nhiên, với tư cách là thông
tin, tri thức khác với những hình thức thông tin tinh thần, vật chất khác. Tri thức không đem
lại những thông tin về các cảm xúc, ý chí, niềm tin và khát vọng của con người. Mặt khác,
những xúc cảm của con người cũng là những thông tin, nhưng chúng không trực tiếp đem lại
tri thức. Tuy vậy, thông tin tri thức và thông tin tình cảm không tách rời nhau. Thí dụ, nhìn
thấy một người gặp cảnh ngộ bi đát, đau thương, chúng ta cũng cảm thấy đau đớn. Nhưng tri

thức không đem lại chính sự đau đớn ấy, mà chỉ cho chúng ta biết những “dấu hiệu” của sự
đau thương, như sự buồn bã trên nét mặt, sự quằn quại, kêu rên… của người có cảnh ngộ ấy.
Còn sự đau đớn của chúng ta không bắt nguồn chủ yếu từ sự nhận ra những dấu hiệu ấy, mà
là từ chính cái tình cảnh của đối tượng mà những dấu hiệu nói trên đã đụng chạm đến và làm
rung động cái lương năng bên trong của chúng ta. Thông tin - tri thức là thông tin sống, có
khả năng sinh sôi không ngừng. Một mặt, nó không ngừng được nạp thêm, làm đầy thêm về
khối lượng, loại hình, dung lượng từ môi trường; mặt khác, không ngừng truyền vào môi
trường. Trong cả hai quá trình ấy, thông tin tri thức vẫn có thể vừa là sự nạp thêm, vừa là sự
mất đi, vừa cung cấp và vừa sửa chữa, điều chỉnh. Đây là quá trình đặc biệt của thông tin tri
thức.
Tri thức là sự biểu hiện, khẳng định bản chất con người. Đây là sự tiếp cận con người, tiếp
cận văn hóa về tri thức. Vì thế, câu hỏi trước tiên phải được đặt ra và giải đáp là: “Con người
là gì?”. Sự giải đáp là toàn bộ những luận giải về tri thức phù hợp với nhận thức khoa học.
Mối quan hệ của triết học với các môn khoa học khác:


Triết học là một hình thái ý thức xã hội; là hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con
người về thế giới; về vị trí, vai trò của con người trong thế giới ấy.
Với quan niệm đó, triết học cổ đại không có đối tượng nghiên cứu riêng của mình, mà
được xem là"khoa học của mọi khoa học".
Quan niệm macxit cho rằng:"Triết học là một trong những hình thái ý thức xã hội, là học
thuyết về những nguyên tắc chung nhất của tồn tại và nhận thức, của thái độ con người đối
với thế giới; là khoa học về những quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy".
Sự hình thành, phát triển của triết học không thể tách rời sự phát triển của khoa ho khái quát các
thành tựu của khoa học cụ thể. Tuy nhiên, triết học cụ thể, nó là thế phương pháp luận cho khoa
học cụ thể, nó là thế giới quan và phương pháp luận cho kh
Lớp M12CQDT01-N

Page 7



thể, là cơ sở lý luận cho các khoa học cụ thể trong việc đánh giá các thành tựu đã đạt vạch ra
phương hướng, phương pháp cho quá trình nghiên cứu khoa học cụ thể. Khác với các học cụ
thể chỉ đi vào nghiên cứu từng lĩnh vực riêng biệt của thế giới, triết học xem xét thế giới như
một chỉnh thể và đem lại một hệ thống các quan niệm về chỉnh thể đó. Triết học là sự diễn tả
thế giới quan bằng lý luận. Mặc dù có sự khác nhau giữa các hệ thống triết học, nhưng điểm
chung của chúng là đều nghiên cứu những vấn đề chung nhất của tự nhiên, xã hội và con
người, mối quan hệ của con người nói chung, của tư duy nói riêng với thế giới.
Trong lịch sử triết học, chủ nghĩa duy vật đóng vai trò tích cực đối với sự phát triển ngược
lại chủ nghĩa duy tâm thường được sử dụng làm công cụ biện hộ cho tôn giáo và học phát
triển. Sự ra đời của chủ nghĩa duy vật biện chứng luôn gắn liền với các thàn học hiện đại, là
sự khái quát các thành tựu khoa học đồng thời nó đóng vai trò to lớn hình phát triển của khoa
học hiện đại. Tuy nhiên, chủ nghĩa duy vật biện chứng không th các khoa học khác. Theo yêu
cầu của sự phát triển đòi hỏi phải có sự liên minh chặt c học với các khoa học khác.

Như vậy, có thể kết luận:
-

Kết luận của các khoa học là những tư liệu để từ đó triết học rút ra những kết luậ
-

2.

Những kết luận chung nhất của triết học quay lại phục vụ cho các khoa học cụ thể
định hướng để các khoa học cụ thể có thể đạt được kết quả tối ưu

Trình bày khái quát và đánh giá các hình thứ c lị ch sử củ a phép biệ n chứng
Ngay từ rất sớm trong triết học xuất hiện hai phương pháp đối lập nhau trong việc xem xét
thế


giới: Phương pháp biện chứng và phương pháp siêu hình.
Trong thời kỳ cổ đại, phép biện chứng chất phác, ngây thơ, mà đỉnh cao của nó là
phép biện chứng cổ đại Hy Lạp, chiếm vị trí ưu trội. Theo quan điểm biện chứng đó, thế
giới là một chỉnh thể thống nhất; giữa các bộ phận của nó có mối liên hệ qua lại, thâm
nhập vào nhau, tác động và ảnh hưởng lẫn nhau; thế giới và các bộ phận cấu thành thế
giới ấy không ngừng vận động và phát triển.
Điển hình như:
Trường phái Milê: Trường phái duy vật đơn nguyên do 3 nhà triết học duy vật là
Talét, Anaximăngđrơ, Anaximen xây dựng, nhằm làm sáng rõ bản nguyên vật chất của
thế giới. Nếu bản nguyên vật chất của thế giới được Talét cho là nước, thì
Anaximăngđrơ cho là apeiron, còn Anaximen cho là không khí. Những quan niệm triết


học duy vật của trường phái Milê tuy còn mộc mạc, thô sơ nhưng có ý nghĩa vô thần
chống lại thế giới quan thần thoại đương thời và đã chứa đựng những yếu tố biện chứng
chất phác.
Trường phái Hêraclít: Trường phái duy vật đơn nguyên do Hêraclít xây dựng, thể
hiện rõ các tư tưởng biện chứng chất phác thời cổ Hi Lạp thông qua các phỏng đoán
thiên tài về quy luật thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập. Dù chưa trình bày các
quan niệm biện chứng như một hệ thống, nhưng hầu hết các luận điểm cốt lõi của phép
biện chứng đều đã được ông đề cập đến dưới dạng danh ngôn, tỷ dụ, hay những phát
biểu mang tính chất triết lý sâu sắc. Phép biện chứng duy vật chất phác là đóng góp của
triết học Hêraclít vào kho tàng tư tưởng của nhân loại.
Trường phái đa nguyên Empêđốc - Anaxago: Để lý giải tính đa dạng của vạn vật
trong thế giới theo tinh thần duy vật, Empêđốc và Anaxago cố vượt qua quan niệm đơn
nguyên sơ khai của trường phái Milê và trường phái Hêraclít, xây dựng quan niệm đa
nguyên về bản chất của thế giới vật chất đa dạng
Trường phái nguyên tử luận Lơxíp - Đêmôcrít: Trường phái này là đỉnh cao của
triết học duy vật Hi Lạp cổ đại trong giai đoạn cực thịnh với các đại biểu Lơxíp,
Đêmôcrít; trong đó, Lơxíp là

người đầu tiên nêu lên các quan niệm về nguyên tử, Đêmôcrít là người phát triển các
quan niệm này thành một hệ thống chặt chẽ và có sức thuyết phục. Mặc dù vẫn còn
nhiều hạn chế nhưng với những thành tựu đạt được, Đêmôcrít đã nâng chủ nghĩa duy
vật Hi Lạp lên đỉnh cao, làm cho nó đủ sức đương đầu chống lại các trào lưu duy tâm
đang thịnh hành bấy giờ, mà trước hết là trào lưu duy tâm nổi tiếng của Platon. Sang
thời kỳ suy tàn của triết học Hi Lạp cổ đại (Hi Lạp hóa) Êpicua (Epicure) đã củng cố và
bảo vệ và phát triển thêm học thuyết nguyên tử…

Ta nhận thấy rằng triết học thời này có những đặc điểm sau:
- Một

là, triết học Hy Lạp cổ đại thể hiện thế giới quan, ý thức hệ và phương pháp luận
của giai cấp chủ nô thống trị. Nó là công cụ lý luận để giai cấp này duy trì trật tự xã
hội, củng cố vai trò thống trị của mình.

- Hai

là, trong nền triết học Hy Lạp cổ đại có sự phân chia và đối lập rõ ràng giữa các trào
lưu, trường phái duy vật - duy tâm, vô thần - hữu thần và gắn liền với cuộc đấu tranh


chính trị - tư tưởng; trong đó, điển hình là cuộc đấu tranh giữa trào lưu duy vật của
Đêmôcrít và trào lưu duy tâm của Platông…
- Ba

là, trong nền triết học Hy Lạp cổ đại đã xuất hiện phép biện chứng chất phác. Các nhà
triết học Hy Lạp cổ đại là “những nhà biện chứng bẩm sinh”. Họ nghiên cứu và sử
dụng phép biện chứng để nâng cao nghệ thuật hùng biện, để bảo vệ quan điểm triết học
của mình, để tìm ra chân lý. Họ đã phát hiện ra nhiều yếu tố của phép biện chứng,
nhưng chưa trình bày chúng như một hệ thống lý luận chặt chẽ.


Bốn là, triết học Hy Lạp cổ đại gắn bó mật thiết với khoa học tự nhiên để tổng hợp mọi
hiểu biết về các lĩnh vực khác nhau nhằm xây dựng bức tranh về thế giới như một hình ảnh
chỉnh thể thống nhất mọi sự vật, hiện tượng xảy ra trong nó. Do trình độ tư duy lý luận còn
thấp, nên khoa học tự nhiên chưa đạt tới trình độ mổ xẻ, phân tích tự nhiên để đi sâu vào bản
chất sự vật, mà nó mới nghiên cứu tự nhiên trong tổng thể để dựng nên bức tranh tổng quát
về thế giới. Vì vậy, các nhà triết học đồng thời là các nhà khoa học tự nhiên, họ quan sát trực
tiếp các hiện tượng tự nhiên để rút ra những kết luận triết học.
-

- Năm

là, triết học Hy Lạp coi trọng vấn đề con người. Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã
đưa ra nhiều quan niệm khác nhau về con người, cố lí giải vấn đề quan hệ giữa linh
hồn và thể xác, về đời sống đạo đức - chính trị - xã hội của họ. Dù còn có nhiều bất
đồng, song nhìn chung các triết gia đều khẳng định con người là tinh hoa cao quí nhất
của tạo hóa.

Đánh giá mặt tích cực và sự hạn chế của quan điểm biện chứng chất phác thời cổ đại,
Ph.Ăngghen cho rằng trong quan điểm đó, chúng ta thấy một bức tranh về sự chằng chịt vô
tận của những mối liên hệ và những sự tác động qua lại, sự vận động và phát triển, nhưng
chưa làm rõ được cái gì đang liên hệ cũng như những quy luật nội tại của sự vận động và
phát triển.
Nhằm khắc phục những hạn chế trên đây, để đáp ứng nhu cầu hoạt động thực tiễn của con
người và cũng nhờ sự tiến bộ của nhận thức, con người đã tiến hành nghiên cứu các bộ phận
khác nhau của thế giới. Trong quá trình nghiên cứu, người ta tạm thời không chú ý tới mối
liên hệ giữa khách thể đang nghiên cứu với các khách thể khác cũng như với thế giới nói
chung, tạm thời cố định sự vật ở trạng thái hiện có mà không xem xét nó trong quá trình vận
động và phát triển. Nhờ vậy tri thức con người về các bộ phận riêng rẽ của thế giới trong
trạng thái tĩnh tại của chúng ngày càng trở nên sâu sắc hơn. Trước những thành quả to lớn

trong việc nhận thức các bộ phận cấu thành thế giới do việc áp dụng phương pháp phân tích
mang lại, một số nhà triết học đã tuyệt đối hóa phương pháp phân tích, và xem đó là phương
pháp duy nhất để nhận thức thế giới. Từ đó ra đời phương pháp tư duy siêu hình - một
phương pháp mang “tính hạn chế đặc thù của những thế kỷ gần đây”.
Từ giữa thế kỷ XVIII trở đi, khoa học tự nhiên chuyển dần trọng tâm sang việc nghiên cứu
các quá trình trong sự liên hệ, vận động và phát triển của chúng. Những thành quả do khoa
học tự nhiên mang lại đã chứng minh rằng, tự bản thân thế giới tồn tại một cách biện chứng.
Quan điểm siêu hình


bị chính khoa học tự nhiên làm mất đi cơ sở tồn tại của nó. Nhưng việc phủ định quan điểm
siêu hình lúc này dẫn đến tới việc xác lập vị trí ưu trội của phép biện chứng duy tâm khách
quan mà định cao là ở triết học Hêghen.
Nhà triết học Ph.Hêghen, bộ óc bách khoa toàn thư vĩ đại nhất trong lịch sử triết học của
nhân loại đã xây dựng hệ thống triết học duy tâm khách quan biện chứng nổi tiếng. Trong
Hiện tượng luận tinh thần, ông nêu lên những nền tảng của một triết học mới, qua tác phẩm
này Hêghen đã thoát ra khỏi sự ràng buộc mình với tư tưởng của Senlinh; Còn trong Bách
khoa toàn thư các khoa học triết học, ông trình bày một cách chi tiết toàn bộ nội dung Hệ
thống triết học mới của mình.
Theo Hêghen, giới tự nhiên và xã hội loài người chỉ là sự tồn tại khác của “ý niệm”, do sự
tha hóa của ý niệm mà thành. Ý niệm nằm trong quá trình vận động và phát triển không
ngừng. Việc nghiên cứu tính biện chứng của ý niệm đã dẫn Hêghen đến chỗ đưa ra một hệ
thống các khái niệm, các phạm trù và các quy luật cơ bản của phép biện chứng. Đây thực sự
là công lao lớn của Hêghen. Song do bị chi phối bởi chủ nghĩa duy tâm khách quan, Hêghen
đã rút ra kết luận hoàn toàn sai lầm: Biện chứng của ý niệm quy định tính biện chứng của các
sự vật và hiện tượng.
Theo Hêghen: Hiện tượng luận tinh thần với 4 nền tảng của triết học mới
Một là, thừa nhận tồn tại ý niệm tuyệt đối: Theo Hêghen, ý niệm tuyệt đối chứ không phải
cái Tuyệt đối (Senlinh) là nền tảng của hiện thực. Ý niệm tuyệt đối là sự hợp nhất giữa thực
thể - giới tự nhiên (Xpinôda) và cái Tôi tuyệt đối (Phíchtơ), là sự đồng nhất giữa tư duy và

tồn tại, giữa tinh thần và vật chất, là Đấng tối cao sáng tạo ra giới tự nhiên, con người và lịch
sử nhân loại. Con người chỉ là một sản phẩm của quá trình vận động phát triển tự thân của ý
niệm tuyệt đối. Hoạt động nhận thức và cải tạo thế giới của con người, tức lịch sử nhân loại
chỉ là giai đoạn phát triển cao của ý niệm tuyệt đối, là công cụ để nó nhận thức chính bản
thân mình và quay trở về với chính mình. Theo Hêghen, tư duy lôgích chứ không phải trực
giác nghệ thuật (Senlinh) là hình thức thể hiện cao nhất của ý niệm tuyệt đối.
Hai là, thừa nhận sự phát triển của ý niệm tuyệt đối: Phát triển được Hêghen hiểu như một
chuỗi các hành động phủ định biện chứng, trong đó, cái mới liên tục thay thế cái cũ, nhưng
đồng thời kế thừa những yếu tố hợp lý của cái cũ. Quá trình phát triển của ý niệm tuyệt đối
diễn ra theo tam đoạn thức “chính đề - phản đề - hợp đề”. Đó cũng là quá trình phát sinh và
giải quyết mâu thuẫn giữa cái vật chất và cái tinh thần, giữa khách thể và chủ thể... trong bản
thân ý niệm tuyệt đối.
Ba là, thừa nhận ý thức con người là sản phẩm của lịch sử: Hêghen coi lịch sử là hiện thân
của ý niệm tuyệt đối, là đỉnh cao của sự phát triển ý niệm tuyệt đối trên trần gian. Lịch sử
nhân loại có được nhờ vào hoạt động có ý thức của những cá nhân cụ thể, nhưng nó lại là nền
tảng quy định ý thức của mỗi cá nhân. Ý thức cá nhân chỉ là sự khái quát, sự “đi tắt” toàn bộ
lịch sử mà ý thức nhân loại đã trải qua. Ý thức nhân loại là sự tái hiện lại toàn bộ tiến trình
của lịch sử nhân loại, là sản phẩm của lịch sử, là hiện thân của ý niệm tuyệt đối.


Bốn là, triết học là học thuyết về ý niệm tuyệt đối: Hêghen thừa nhận có 3 hình thức thể
hiện ý niệm tuyệt đối trên trần gian là nghệ thuật, tôn giáo và triết học, trong đó, triết học là
hình thức thể hiện cao nhất, trọn vẹn và đầy đủ nhất ý niệm tuyệt đối. Theo Hêghen, triết học
là khoa học của mọi khoa học, là khoa học vạn năng đóng vai trò nền tảng cho toàn bộ thế
giới quan và tư tưởng con người. Nhưng mỗi thời đại lại có một học thuyết triết học của riêng
mình. Học thuyết này là tinh hoa tinh thần của thời đại đó, là thời đại được thể hiện dưới
dạng tư tưởng. Mỗi hệ thống triết học của một thời đại nào đó đều là sự chắt lọc, kết tinh,
khái quát lại toàn bộ lịch sử tư tưởng trước đó, đặc biệt là tư tưởng triết học. Triết học và lịch
sử triết học thống nhất với nhau như là sự thống nhất giữa cái lôgích và cái lịch sử; vì vậy,
triết học phải bao trùm toàn bộ lịch sử phát triển của ý niệm tuyệt đối. Theo quan điểm này

thì triết học Hêghen, - khoa học về ý niệm tuyệt đối -, được chia thành 3 bộ phận là khoa học
lôgích, triết học tự nhiên, triết học tinh thần; ứng với 3 giai đoạn phát triển của ý

niệm tuyệt đối là ý niệm tuyệt đối trong chính nó, ý niệm tuyệt đối trong sự tồn tại khác của
nó (tự tha hóa), ý niệm tuyệt đối khắc phục sự tự tha hóa quay về với no.
Khoa học lôgích: Là tác phẩm quan trọng nhất của Hệ thống triết học Hêghen, Khoa học
lôgích nghiên cứu ý niệm tuyệt đối ở giai đoạn sơ khai, nhưng lại là xuất phát điểm của hệ
thống. Khi vạch ra những hạn chế của lôgích học cũ là chỉ nghiên cứu tư duy chủ quan trong
phạm vi ý thức cá nhân mà không chỉ ra được ranh giới giữa lôgích học với các ngành khoa
học khác cùng nghiên cứu tư duy, là chỉ dựa trên những phạm trù bất động, tách rời hình thức
ra khỏi nội dung của nó... , Hêghen khởi thảo một lôgích học mới giúp vạch ra bản chất đích
thực của tư duy, và đóng vai trò như một phương pháp luận triết học làm cơ sở cho mọi khoa
học.
Triết học tự nhiên: Đây là học thuyết về giới tự nhiên với tính cách là một dạng tồn tại
khác của ý niệm tuyệt đối dưới dạng các sự vật vật chất. Hêghen không giải thích ý niệm
tuyệt đối chuyển từ chính nó sang giới tự nhiên như thế nào và khi nào, mà chỉ nói rằng ý
niệm tuyệt đối tồn tại bên ngoài thời gian, và giới tự nhiên cũng không có khởi đầu trong thời
gian. Hêghen cho rằng, quá trình hình thành giới tự nhiên từ ý niệm tuyệt đối đồng thời cũng
là quá trình ý niệm tuyệt đối ngày càng biểu hiện ra thành giới tự nhiên. Thế giới đã được tạo
ra, hiện đang được tạo ra và sẽ vĩnh viễn được tạo ra.
Triết học tinh thần: Trong tác phẩm này, Hêghen xem xét ý niệm tuyệt đối ở giai đoạn cuối
cùng trên con đường diễu hành nơi trần gian, từ bỏ giới tự nhiên, khắc phục sự tha hóa, quay
về lại chính mình như thế nào.
Nhận xét chung về Hệ thống triết học Hêghen
Một là, thế giới quan duy tâm là thế giới quan xuyên suốt toàn bộ nội dung triết học
Hêghen: Mọi sự vật, quá trình dù là vật chất hay tinh thần đều là hiện thân của ý niệm tuyệt
đối. Ý niệm tuyệt đối chi phối mọi sự sinh thành, tồn tại và tiêu vong của hết thảy mọi cái
trong thế giới. Vật chất, giới tự nhiên chỉ là sự tự tha hóa, một sự tồn tại khác, một sản phẩm
sơ cứng bất động của ý niệm tuyệt đối mà thôi. Đề cao cái tinh thần, khẳng định tính quyết



định của nó trong việc đưa ra các phương thức giải quyết cho các vấn đề thuộc về lý luận
cũng như thực tiễn là tư tưởng chủ đạo được trình bày trong toàn bộ nội dung triết học
Hêghen.
Hai là, phép biện chứng là linh hồn sống động của hệ thống triết học Hêghen: Tư tưởng về
mối liên hệ phổ biến (mọi cái đều là hiện thân, là các giai đoạn khác nhau nhưng liên hệ lẫn
nhau của ý niệm tuyệt đối) và tư tưởng về sự phát triển (quá trình phủ định biện chứng của ý
niệm tuyệt đối) là những tư tưởng cơ bản xuyên suốt, là mạch suối ngầm thấm chảy qua toàn
bộ hệ thống của Hêghen.
Phát triển là một quá trình thay đổi từ thấp lên cao, bằng cách chuyển hóa qua lại giữa
lượng và chất, do sự giải quyết những mâu thuẫn nội tại trong các hình thức cụ thể của ý
niệm tuyệt đối tạo nên. Trên cơ sở mổ xẻ quá trình tự vận động của ý niệm tuyệt đối, Hêghen
đã phát hiện ra các quy luật cơ bản của phép biện chứng và các quy luật không cơ bản - các
cặp phạm trù.
Hêghen còn xây dựng các nguyên tắc của lôgích biện chứng, các quan điểm biện chứng về
nhận thức, ông đã đặt nền móng cho sự thống nhất giữa phép biện chứng, lôgích học và nhận
thức luận. Theo Hêghen, nhận thức phải đi từ trừu tượng đến cụ thể, nhận thức lý thuyết phải
thống nhất với hoạt động thực tiễn. Chân lý phải mang tính cụ thể, tính quá trình và là sự phù
hợp của khái niệm với thực tiễn. Tuy nhiên, đối với Hêghen, nhận thức là khám phá ra ý niệm
tuyệt đối chứ không phải khám phá ra giới tự nhiên vật chất; và thực tiễn không phải là hoạt
động vật chất mà chỉ là những hoạt động tinh thần của chủ thể sáng tạo ra tư tưởng mà thôi.
Phép biện chứng của Hêghen không chỉ là lý luận biện chứng về sự phát triển của thế giới
ý niệm, mà còn là phương pháp biện chứng nghiên cứu thế giới ý niệm. Thông qua phép biện
chứng của ý niệm, Hêghen đã đoán được phép biện chứng của sự vật, vì vậy, nó là phép biện
chứng duy tâm.
Phép biện chứng của Hêghen, về thực chất, là tích cực và cách mạng, nhưng nó lại bị giam
hãm trong hệ thống triết học duy tâm thần bí của ông; vì vậy, trong triết học của Hêghen, bên
cạnh những nội dung biện chứng, tiến bộ, vạch thời đại, khoa học và cách mạng lại có không
ít quan điểm siêu hình, phản động, phản khoa học và bảo thủ, tư biện; nghĩa là trong nó chứa
đựng nhiều mâu thuẫn.

Hêghen đã phủ nhận sự phát triển trong giới tự nhiên, ông bất chấp hay phủ nhận nhiều
thành tựu của khoa học tự nhiên bấy giờ nếu chúng không dung hợp với ý niệm tuyệt đối.
+

Hêghen coi nhà nước Đức, văn minh Đức là đỉnh cao của hiện thân tinh thần tuyệt đối
trên trần gian, là chuẩn mực cuối cùng mà mọi dân tộc trên thế giới phải vươn đến.
+

Hêghen coi, trong triết học Đức - triết học Hêghen, ý niệm tuyệt đối đã khám phá ra
chính mình từ cái không phải là mình để quay về với mình; do đó, tại đây, mọi sự phát triển
tiếp tục đều chấm dứt…
+


Dù có nhiều hạn chế không nhỏ nhưng thành tựu mà triết học Hêghen mang lại - phép biện
chứng tư duy là một cống hiến vĩ đại cho kho tàng tư tưởng của nhân loại. Triết học Hêghen
là một cội nguồn của triết học Mác. Cứu lấy phép biện chứng, giải phóng hạt nhân biện
chứng ra khỏi lớp vỏ duy tâm thần bí của Hệ thống Hêghen là một yêu cầu cấp bách của triết
học mà sau này Mác đã thực hiện. Khi cải tạo phép biện chứng duy tâm Hêghen theo tinh
thần duy vật của triết học Phoiơbắc, Mác đã xây dựng phép biện chứng duy vật - phép biện
chứng của sự vật - thế giới khách quan, mà phép biện chứng của ý niệm chỉ là hình ảnh biện
chứng trong bộ óc con người phản ánh phép biện chứng của sự vật - thế giới khách quan.
Tóm lại, với một hệ thống triết học tương đối hoàn chỉnh, với tri thức bách khoa, kiến thức
uyên bác và thiên tài của mình, Hêghen trở thành nhà triết học lớn nhất thời bấy giờ. Học
thuyết của ông khép lại một giai đoạn phát triển triết học đầy sôi động, đồng thời mở ra một
giai đoạn cách mạng mới trong lịch sử triết học - giai đoạn gắn tư tưởng triết học với thực
tiễn cách mạng.
Xuất phát từ quan điểm coi triết học mới phải là triết học về chính con người, có sứ mạng
mang lại cho con người một cuộc sống hạnh phúc thật sự trên trần gian mà Phoiơbắc lấy con
người làm đối tượng nghiên cứu của triết học. Ông cho rằng, xưa nay triết học nghiên cứu

vấn đề về quan hệ giữa tư duy và tồn tại, nhưng quan hệ này thuộc về bản chất của con
người; bởi vì, chỉ có con người đang sống, đang tồn tại mới có tư duy. Theo ông, chỉ khi nào
xuất phát từ con người thì vấn đề về quan hệ giữa tư duy và tồn tại mới được giải quyết một
cách đúng đắn và có ý nghĩa thật sự. Do con người là đối tượng của triết học mới, và khoa
học nghiên cứu bản chất của con người là nhân bản học, nên triết học mới đó phải là triết học
nhân bản hay nhân bản học phải là khoa học cơ sở và chung nhất cho mọi ngành khoa học.
Triết học mới mà Phoiơbắc đã xây dựng là triết học duy vật nhân bản.
Triết học Phoiơbắc đã khôi phục được truyền thống duy vật thế kỷ XVIII trong hoàn cảnh
chủ nghĩa duy tâm thống trị đời sống tinh thần ở Phương Tây, và phát triển chủ nghĩa duy vật
thêm một bước. Ông đã trình bày sáng rõ nhiều quan điểm duy vật; ông phê phán mạnh mẽ
chủ nghĩa duy tâm và Cơ đốc giáo; ông biết đặt con người vào đúng tâm điểm phân tích triết
học. Triết học của ông chất chứa đầy tính duy vật khả tri và nhân bản, nó là một cội nguồn tư
tưởng của triết học Mác.
Triết học của Phoiơbắc không sâu, còn nhiều quan niệm siêu hình, phiếm diện trong lý giải
đối tượng triết học, trong việc phân tích bản chất con người, trong việc tìm hiểu thực tiễn và
xác định vai trò của nó trong nhận thức và cuộc sống…; Đặc biệt, trong việc xác định nguồn
gốc, động lực phát triển và phương tiện cải tạo xã hội, quan điểm của Phoiơbắc còn đầy tính
duy tâm; Thái độ đối với tôn giáo của ông không nhất quán… Điều này thể hiện như sau:
Một là, do phủ nhận hệ thống duy tâm của triết học Hêghen nên ông phủ nhận luôn phép
biện chứng; hơn nữa, ông hiểu biện chứng rất hời hợt, - phép biện chứng không phải là sự
độc thoại của một nhà tư tưởng với bản thân mình mà là sự đối thoại giữa Tôi và Anh…
- Hai là, do đứng trên quan điểm nhân đạo chung chung mà quan niệm về con người rất
trừu tượng, phi lịch sử; ông chỉ quan tâm đến mặt tự nhiên - sinh học mà không chú ý
-


mặt xã hội và điều kiện chính trị - xã hội của con người; tuyệt đối hóa và coi tình yêu
là bản chất con người.
- Ba


là, do bỏ qua hoạt động thực tiễn nên Phoiơbắc coi nhận thức là một quá trình tĩnh tại,
thụ động của chủ thể tiếp nhận hình ảnh của khách thể mà không phải là quá trình
mang tính thực tiễn năng động, sáng tạo thế giới của con người - chủ thể nhận thức;
Phoiơbắc không chỉ không thấy được vai trò của thực tiễn đối với nhận thức mà ông
cũng không thấy được vai trò to lớn của thực tiễn đối với sự hoàn thiện con người,
thúc đẩy phát triển sản xuất nói riêng, xã hội nói chung. Vì không thấy trong thực tiễn
động lực phát triển xã hội nên ông cố đi tìm nó trong tình yêu. Do không xuất phát từ
quan điểm thực tiễn mà trong lĩnh vực xã hội, Phoiơbắc cũng như mọi nhà tư tưởng
trước Mác đều sa vào chủ nghĩa duy tâm, quá đề cao sức mạnh tinh thần, trước hết là
giáo dục, đạo đức, pháp luật… mà không thấy được vai trò của nền sản xuất vật chất
đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội.

Phép biện chứng duy vật được C.Mác và Ph. Ăngghen xâydựng vào giữa thế kỷ XIX, sau
đó được Lênin phát triển. Sự ra đời của phép biện chứng duy vật được chuẩn bị bằng toàn bộ
sự phát triển xã hội, triết học và khoa học tự nhiên trứơc đó mà trực tiếp nhất là phép biện
chứng của Hêghen và quan điểm duy vật của Phoiơbắc. Trong phép biện chứng duy vật luôn
luôn có sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật biện chứng và phương pháp biện
chứng duy vật.
Phép biện chứng duy vật đã khái quát một cách đúng đắn những quy luật vận động và phát
triển chung nhất của thế giới. Nhờ vậy, C.Mác và Ph. Ănghen khắc phục được những hạn chế
vốn có của phép biện chứng tự phát thời cổ đại và những sai lầm của phép biện chứng duy
tâm khách quan thời cận đại, làm cho phép biện chứng duy vật trở thành một khoa học.
Với tư cách là một khoa học, phép biện chứng duy vật được tạo thành từ một loạt những
phạm trù, những nguyên lý, những quy luật được khái quát từ hiện thực. Cho nên nó có khả
năng phản ánh đúng sự liên hệ, sự vận động và sự phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy.
Đúng như Ph. Ăngghen đã định nghĩa “phép biện chứng... là môn khoa học về những quy
luật phổ biến của sự vận động sự phát triển của tự nhiên, của xã hội loài người và tư duy”.
Lênin đã gọi phép biện chứng duy vật là linh hồn của chủ nghĩa Mác.
Quá trình chuyển biến tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen từ chủ nghĩa duy tâm và chủ
nghĩa dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản (trước năm 1844)

Trong bước đầu hoạt động khoa học và chính trị, C.Mác và Ph.Ăngghen đứng trên lập
trường của chủ nghĩa duy tâm và quan điểm dân chủ cách mạng.
Các Mác (5/5/1818 - 14/3/1883) được sinh ra và lớn lên tại thành phố Tơrivơ, vùng Ranh
của nước Đức. Ngay từ khi còn học trung học, C.Mác đã thể hiện là một thanh niên tài năng,
yêu quê hương, đất nước và gắn hạnh phúc cá nhân với hạnh phúc chung của mọi người…
Trong thời gian học tập và nghiên cứu tại Đại học Bon và Đại học Béclin, ông là người rất
say mê nghiên cứu triết học, vì theo C.Mác, chỉ có triết học mới đem đến cho con người sự


hiểu biết và khả năng cải tạo thế giới nhằm giải phóng con người… Từ năm 1837, C.Mác bắt
đầu nghiên cứu triết học Hêghen, tham gia phái Hêghen trẻ. Nét nổi bật mà C.Mác nhận thấy
ở Hêghen là phương pháp nhận thức, phương pháp tư duy biện chứng… Từ năm 1839,
C.Mác bắt đầu nghiên cứu triết học Hy Lạp cổ đại và triết học cận đại. Trong Luận án tiến sĩ
Sự khác nhau giữa triết học tự nhiên của Đêmôcrít và triết học tự nhiên của Êpiquya, bảo vệ
năm 1841, C.Mác vẫn đứng trên lập trường triết học duy tâm của Hêghen, coi sự vận động và
phát triển của tự ý thức là động lực của sự phát triển xã hội. Tuy nhiên, ông vẫn đánh giá cao
vai trò của Êpiquia trong lịch sử triết học, đã làm phong phú và đóng góp vào sự phát triển
của học thuyết nguyên tử của Đêmôcrít, chống tư tưởng tôn giáo, ủng hộ chủ nghĩa vô thần.
Trong luận án này, C.Mác đã phê phán phái Hêghen trẻ, đề cao vai trò của phép biện chứng
trong quá trình nhận thức và cải tạo xã hội, phục vụ cho cuộc đấu tranh chính trị, hướng đến
hạnh phúc của con người.
Phriđrích Ăngghen (28/11/1820 - 5/8/1895) sinh ra trong một gia đình chủ xưởng dệt.
Mong muốn của gia đình là ông sớm trở thành một nhà kinh doanh… Từ năm 1839, vừa làm
việc và tự học, ông bắt đầu nghiên cứu triết học Đức, nhất là nghiên cứu triết học Hêghen.
Đứng trên lập trường dân chủ cách mạng, đối lập với chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo, tháng 3
năm 1839, Ph.Ăngghen viết bài báo đầu tiên Những bức thư từ Vesphali đả kích bộ mặt thật
của bọn chủ xưởng, ủng hộ những người lao động… Năm 1841, Ph.Ăngghen tới Béclin làm
nghĩa vụ quân sự và dự nghe các bài giảng triết học tại Đại học Béclin, đồng thời tham gia
vào nhóm Hêghen trẻ. Trong thời gian này, ông đã viết một số tác phẩm nhằm mục đích phê
phán các quan điểm phản động của nhà triết học Sêlinh. Các tác phẩm Sêlinh và Hêghen,

Sêlinh - nhà triết học nơi Chúa Kitô, và đặc biệt là tác phẩm Sêlinh và sự linh báo (1842) đã
thể hiện tư tưởng dân chủ cách mạng, thấy được mâu thuẫn giữa mặt tiến bộ và mặt bảo thủ
trong triết học Hêghen. Dù vẫn chưa thoát khỏi ảnh hưởng của chủ nghĩa duy tâm,
Ph.Ăngghen vẫn đánh giá cao triết học Phoiơbắc, vì ông nhận thấy thế giới quan duy vật của
Phoiơbắc triệt để hơn các nguyên lý triết học duy tâm Hêghen… Cuối năm 1842,
Ph.Ăngghen sang Mantrextơ, làm việc trong một xưởng sợi, bắt đầu tìm hiểu phong trào công
nhân và nghiên cứu kinh tế chính trị học cổ điển Anh. Hoạt động này có ý nghĩa quan trọng
giúp ông thấy rõ mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn trong cuộc đấu tranh xã hội, tạo bước
chuyển biến về quan điểm chính trị của ông.
Sự chuyển biến tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen từ chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa
dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa cộng sản
Sự chuyển biến tư tưởng của C.Mác bắt đầu từ quá trình hoạt động báo chí và qua sự phê
phán triết học Hêghen về nhà nước, pháp quyền, tôn giáo và vai trò của triết học: Thông qua
báo Sông Ranh (1842 - 1843), C.Mác viết bài bảo vệ lợi ích của những con người lao động
nghèo khổ, cổ vũ cuộc đấu tranh vì tự do và dân chủ; phê phán sâu sắc các tệ nạn bóc lột, áp
bức người lao động, về sự bần cùng của nông dân. Hoạt động này giúp C.Mác nhận thức đầy
đủ hơn về những mặt hạn chế của triết học Hêghen, tính chất phản động, bảo thủ của Nhà
nước Phổ, và qua đó, quan điểm của C.Mác chuyển dần từ khuynh hướng duy tâm và lập
trường dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa cộng sản…
Trong tác phẩm Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêghen (1943), C.Mác phủ
nhận mệnh đề “tồn tại là hợp lý” của Hêghen, kiên quyết bác bỏ các hình thức đang tồn tại
của nền chính trị nước Đức lúc bấy giờ là ý thức pháp quyền và nhà nước, đồng thời trình


bày các vấn đề nhà nước, pháp quyền, triết học, tôn giáo trên nền tảng thế giới quan duy vật
biện chứng; C.Mác coi triết học là vũ khí để cải tạo thế giới, là động lực cải tạo xã hội: Xuất
phát từ tư tưởng “Vũ khí của sự phê phán cố nhiên không thể thay thế được sự phê phán của
vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể bị đánh đổ bằng lực lượng vật chất; nhưng lý luận cũng
sẽ trở thành lực lượng vật chất, một khi nó thâm nhập vào quần chúng”, C.Mác coi triết học
là vũ khí tinh thần của giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh cải tạo xã hội: “Giống như triết

học thấy giai cấp vô sản là vũ khí vật chất của mình, giai cấp vô sản cũng thấy triết học là vũ
khí tinh thần của mình”. Khi chỉ ra tôn giáo cũng là sản phẩm của các điều kiện kinh tế - xã
hội trong từng thời kỳ lịch sử, C.Mác vạch ra nguồn gốc và bản chất của tôn giáo trong mối
quan hệ với đời sống hiện thực và nhu cầu tinh thần, tình cảm của con người. C.Mác viết:
“Sự nghèo nàn của tôn giáo vừa là biểu hiện của sự nghèo nàn hiện thực, vừa là sự phản
kháng chống sự nghèo nàn hiện thực ấy. Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sinh bị áp bức,
là trái tim của thế giới không có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của những trật tự
không có tinh thần. Tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân”.
Lúc bấy giờ, thông qua Niên giám Pháp - Đức, Ph.Ăngghen cũng đã đăng tải một số tác
phẩm phê phán chế độ tư hữu và phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa, phê phán các tư
tưởng kinh tế chính trị học của A.Xmít và Đ.Ricácđô trên tinh thần biện chứng; đồng thời qua
đó khẳng định vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp vô sản…Tháng 8/1844, trên đường từ Anh
về Đức, Ph.Ăngghen đã gặp C.Mác tại Pari. Và từ đây, giữa hai ông đã bắt đầu một tình bạn,
tình đồng chí vĩ đại và cảm động trong suốt cả cuộc đời để sáng tạo nên chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Như vậy, cho đến thời điểm này, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã có bước chuyển hoàn toàn từ thế giới quan duy tâm sang thế giới quan duy
vật biện chứng, từ lập trường chính trị dân chủ cách mạng sang chủ nghĩa xã hội khoa học.
Đó là một quá trình phức tạp, vừa cải biến phép biện chứng duy tâm của Hêghen thành phép
biện chứng duy vật, vừa vận dụng phép biện chứng duy vật vào việc nhận thức xã hội. C.Mác
và Ph.Ăngghen đã đặt nền móng vững chắc cho một cuộc cách mạng trong triết học, để từng
bước hoàn chỉnh hệ thống triết học của mình cả về thế giới quan và phương pháp luận.
Thời kỳ C.Mác và Ph.Ăngghen đề xuất những nguyên lý triết học duy vật biện chứng và
duy vật lịch sử (1844 - 1848): Hai ông đã trình bày một cách toàn diện những vấn đề về triết
học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa xã hội khoa học trên nền tảng thế giới quan duy vật
triệt để và cách mạng, làm rõ những quy luật cơ bản của xã hội. Triết học Mác trở thành thế
giới quan và phương pháp luận để nhận thức và cải tạo thực tiễn.
Với tác phẩm Bản thảo kinh tế - triết học (1844), C.Mác trình bày những nghiên cứu về
kinh tế học để rút ra những kết luận về triết học.
Từ việc nghiên cứu kinh tế chính trị học Anh, nghiên cứu quá trình sản xuất tư bản chủ
nghĩa, từ việc phân tích các phạm trù kinh tế cụ thể (tiền công, lợi nhuận, tư bản, địa tô, sức

lao động...), C.Mác đã phát hiện ra bản chất của xã hội tư bản - xã hội đối kháng giữa người
công nhân và nhà tư bản. C.Mác viết: “Tư bản là quyền chỉ huy lao động và sản phẩm của lao
động. Nhà tư bản có được quyền đó không phải nhờ những phẩm chất cá nhân hay phẩm chất
con người của hắn, mà chỉ có được với tư cách là người sở hữu tư bản. Sức mạnh của hắn là
sức mua của tư bản của hắn, sức mua mà không có gì có thể chống lại nỗi” …


×