Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ bộ đội địa phương tham gia xây dựng đoàn kết dân tộc ở tỉnh quảng ninh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (332.69 KB, 84 trang )

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài
Đoàn kết toàn dân tộc là một mục tiêu của mọi quốc gia nhưng không
phải quốc gia nào cũng thực hiện được. Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc,
lại luôn bị các nước lớn nhòm ngó, muốn thôn tính, biến thành nước phụ
thuộc nhưng dân tộc ta vẫn giữ vững được nền độc lập, trường tồn và phát
triển. Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo cách mạng đã luôn chú trọng
phát huy truyền thống ĐKDT lên một tầm cao mới, tạo nên sức mạnh tổng
hợp giành thắng lợi trong hai cuộc kháng chiến chống giặc ngoại xâm, cũng
như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN hiện nay.
Xây dựng ĐKDT trên phạm vi cả nước, ở mỗi giai đoạn có những yêu
cầu, nội dung cụ thể. Trong giai đoạn hiện nay ở địa bàn tỉnh Quảng Ninh
cũng đang đặt ra những yêu cầu mới, có cả thuận lợi và khó khăn nhất định,
các thế lực thù địch đã và đang sử dụng chiến lược “Diễn biến hòa bình” với
nhiều âm mưu, thủ đoạn lợi dụng vấn đề dân tộc nhằm chia rẽ ĐKDT để từng
bước lôi kéo lực lượng và kích động nhân dân biểu tình gây mất ổn định xã
hội. Là một tỉnh nằm trên địa bàn chiến lược trọng yếu vùng Đông Bắc Tổ
quốc, Quảng Ninh có vị trí địa lý đặc thù như Việt Nam thu nhỏ bởi có cả
rừng, biển, đồng bằng, trung du, đồi núi; có chung đường biên giới trên đất
liền, trên biển với Trung Quốc. Tình hình kinh tế - xã hội phát triển không đều
giữa các địa phương và tình hình an ninh chính trị biên giới còn nhiều phức
tạp. Các thế lực thù địch đang ráo riết thực hiện âm mưu “mềm, ngầm, sâu,
hiểm”, tập trung tìm mọi cách chia rẽ, phá hoại khối ĐKDT, gây nên tình
trạng mất ổn định trên địa bàn. Chúng tạo cớ để can thiệp, chống phá từ bên
ngoài, nếu chúng ta mắc sai lầm trong nội bộ nên xây dựng khối ĐKDT ở tỉnh
Quảng Ninh hiện nay có vị trí, vai trò quan trọng.
Bộ đội địa phương là lực lượng tham mưu nhiệm vụ quân sự, trực tiếp
bảo vệ, chiến đấu trung thành, tin cậy của Đảng, Nhà nước, chính quyền và nhân
dân địa phương; là đội quân chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu, lao động sản xuất,
1




đồng thời cũng là đội quân công tác nên có ưu thế trong vận động và tổ chức
nhân dân tích cực tham gia xây dựng khối ĐKDT. Thực tế đã chứng minh, Bộ
đội địa phương tỉnh Quảng Ninh đã và đang góp phần quan trọng củng cố, tăng
cường khối ĐKDT, xây dựng “thế trận lòng dân”, xây dựng cơ sở chính trị - xã
hội, phát triển kinh tế và giữ vững sự ổn định địa bàn nơi đóng quân.
Thực tế những năm qua, Bộ đội địa phương tỉnh Quảng Ninh luôn luôn
góp phần làm thất bại âm mưu, thủ đoạn chia rẽ, phá hoại khối ĐKDT của các
thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc vùng Đông Bắc của Tổ quốc. Bộ đội địa
phương tỉnh Quảng Ninh tham gia xây dựng ĐKDT đã đạt được nhiều thành
tựu như tham mưu, phối hợp, góp phần cùng với cấp ủy, chính quyền và nhân
dân địa phương làm tốt công tác dân vận, trực tiếp giúp đỡ đồng bào các dân
tộc xây dựng nông thôn mới... Tuy nhiên, trong công tác dân vận, Bộ đội địa
phương tỉnh Quảng Ninh cũng còn bộc lộ một số hạn chế, đặc biệt là công tác
phối hợp, tuyên truyền, vận động, giải quyết những mâu thuẫn, bất đồng trong
quan hệ giữa đồng bào các DTTS kết quả chưa được như mong muốn, có lúc,
có việc chưa thật chủ động và chưa có biện pháp hữu hiệu để vô hiệu hóa âm
mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch phá hoại khối ĐKDT, gây mất ổn định
tình hình an ninh - chính trị biên giới, biển đảo.
Từ những luận cứ trên, tác giả lựa chọn vấn đề: “Bộ đội địa phương
tham gia xây dựng đoàn kết dân tộc ở tỉnh Quảng Ninh hiện nay” làm luận
văn tốt nghiệp chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học; có ý nghĩa cấp thiết
cả về lý luận và thực tiễn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Đoàn kết dân tộc luôn được nhiều khoa học quan tâm nghiên cứu, đề
cập dưới nhiều góc độ, khá toàn diện và sâu sắc, trong khuôn khổ luận văn chỉ
đề cập một số công trình tiêu biểu sau:
* Các công trình nghiên cứu về đại đoàn kết và dân tộc
Sách: “Chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh”, Phùng Hữu Phú (Chủ

biên), Nxb. CTQG, Hà Nội, 1995; các tác giả đã nêu lên quá trình hình thành
2


chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc XHCN; phân tích một số nội dung cơ bản trong chiến lược đại đoàn kết
Hồ Chí Minh. Bằng những lập luận khoa học, kết hợp với kiểm chứng của
lịch sử các tác giả đã khẳng định: Trong suốt hơn nửa thế kỷ qua tư tưởng Hồ
Chí Minh đã trở thành ngọn cờ tư tưởng của Đảng Cộng sản Việt Nam, đã
thấm vào trong suy nghĩ, hành động của tất cả mọi người Việt Nam yêu nước
và hóa thành sức mạnh, động lực phát triển của cả dân tộc. Tư tưởng đại đoàn
kết Hồ Chí Minh đã trở thành một bộ phận trong đường lối chiến lược của
Đảng, nguồn sức mạnh vật chất đảm bảo thắng lợi của cách mạng, vượt ra
khỏi tư tưởng thuần túy, thực sự trở thành chiến lược cách mạng - chiến lược
đại đoàn kết Hồ Chí Minh.
Trong các công trình “Góp phần nghiên cứu dân tộc học Việt Nam”,
“Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách liên quan đến mối quan hệ dân tộc
hiện nay” (2004), Phan Hữu Dật đã đưa ra cách tiếp cận hợp lý về khái niệm
dân tộc, nguồn gốc, quá trình hình thành một số dân tộc ở Việt Nam, đặc điểm
kinh tế - xã hội của một số vùng DTTS, một số vấn đề lý luận và thực tiễn cấp
bách liên quan đến mối quan hệ dân tộc ở nước ta hiện nay... Đây là những
vấn đề nghiên cứu góp phần làm cơ sở cho Đảng, Nhà nước ta tham khảo để
hoạch định chính sách dân tộc, xây dựng khối ĐKDT.
Sách: “Đoàn kết dân tộc ở Việt Nam”, Nguyễn Đình Minh (Chủ biên),
Nxb. CTQG, Hà Nội, 2016; các tác giả cũng đã luận giải những giá trị truyền
thống của ĐKDT; cơ sở lí luận, thực tiễn của đường lối, chính sách ĐKDT và
những thành tựu, bài học kinh nghiệm xây dựng khối ĐĐKTDT của Đảng
Cộng sản Việt Nam; quan điểm, phương hướng, giải pháp xây dựng khối
ĐĐKTDT hiện nay và vạch rõ âm mưu, thủ đoạn phá hoại khối ĐĐKTDT của
các thế lực thù địch ở Việt Nam.

Trong đề tài: “Quan hệ dân tộc ở tỉnh Đắk Lắk hiện nay”, Luận văn
Thạc sĩ, Nguyễn Hữu Tới, HVCT, Hà Nội, 2015, cũng đã đề cập khá sâu sắc
đến mối quan hệ các dân tộc ở tỉnh Đắk Lắk hiện nay, thực trạng của mối
3


quan hệ các dân tộc và đã đưa ra được một số giải pháp giải quyết vấn đề dân
tộc nảy sinh trong mối quan hệ các dân tộc ở tỉnh Đắk Lắk, góp phần thiết
thực vào xây dựng khối ĐKDT trên địa bàn tỉnh cũng như cả nước.
Đề tài: “Vai trò bản sắc văn hóa dân tộc trong phát triển bền vững ở
tỉnh Nghệ An hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ, Lương Thanh Duy, HVCT, Hà
Nội, 2015, cũng đã đề cập khá toàn diện đến vai trò bản sắc văn hóa dân tộc
trong phát triển bền vững và bước đầu cũng đã đưa ra được một số giải pháp
tương đối phù hợp để giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc trong phát triển bền
vững trên địa bàn của tỉnh Nghệ An hiện nay.
Đề tài: “Hệ thống chính trị cơ sở tỉnh Bình Phước thực hiện giữ gìn
bản sắc văn hóa dân tộc hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ, Trần Thanh Lâm,
HVCT, Hà Nội, 2015, cũng đã đề cập khá sâu sắc đến trách nhiệm của hệ
thống chính trị cơ sở trong thực hiện giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và bước
đầu cũng đã đưa ra được một số giải pháp tương đối phù hợp để phát huy vai
trò trách nhiệm của hệ thống chính trị cơ sở trong thực hiện giữ gìn bản sắc
văn hóa dân tộc trên địa bàn tỉnh Bình Phước hiện nay.
* Các công trình nghiên cứu về quan điểm, chính sách dân tộc, đoàn
kết dân tộc
Sách: “Về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc” của Hồ Chí
Minh, Nxb. CTQG, Hà Nội, 2003; đã tập hợp một số bài viết tiêu biểu nhất
của Chủ tịch Hồ Chí Minh; đề cập khá toàn diện các nội dung: Đoàn kết, đoàn
kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công. Truyền thống đoàn
kết của dân tộc Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa và phát huy
truyền thống đại đoàn kết của dân tộc. Giữ gìn và tăng cường đại đoàn kết là

nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân. Về mặt trận dân tộc thống nhất. Nội dung,
nguyên tắc, phương pháp đại đoàn kết. Đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế...
Đây là những vấn đề cơ bản làm cơ sở cho Đảng ta căn cứ, vận dụng hoạch
định đường lối, chính sách, xây dựng và phát huy sức mạnh khối ĐĐKTDT
trong đấu tranh cách mạng trước kia, cũng như trong xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam XHCN hiện nay.
4


Trong công trình: “Những vấn đề cơ bản về chính sách dân tộc ở nước
ta hiện nay”, Phan Xuân Sơn, Lưu Văn Quảng (Chủ biên), Nxb. Lý luận
Chính trị, Hà Nội, 2006; các tác giả đã đưa ra quan niệm về vấn đề dân tộc và
chính sách dân tộc; trình bày chính sách dân tộc, ĐKDT của Đảng ta qua các
giai đoạn cách mạng; nêu ra những vấn đề nổi cộm trong quá trình thực hiện
chính sách dân tộc như vấn đề đất đai, định canh, định cư, nghèo đói, thất học,
dịch bệnh, hệ thống chính trị, sự chống phá của các thế lực thù địch ở vùng
DTTS; đồng thời đề xuất một số biện pháp chủ yếu nhằm thực hiện tốt chính
sách dân tộc, ĐKDT trong tình hình hiện nay.
Sách: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc”, Nguyễn Văn
Quang (Chủ biên) và Chế Đình Quang (Đồng chủ biên), Nxb. QĐND, Hà
Nội, 2016; các tác giả đã đề cập đến cơ sở hình thành và nội dung tư tưởng
Hồ Chí Minh về ĐĐKTDT; vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về ĐĐKTDT
trong tình hình mới, để Đảng ta tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo khơi dậy và tập hợp
sức mạnh ĐKDT, thúc đẩy công cuộc đổi mới phát triển và giành nhiều thắng
lợi hơn nữa.
Trong đề tài: “Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về bình đẳng dân tộc
trong thực hiện chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta trên địa bàn Tây
Nguyên hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ triết học của Nguyễn Sĩ Họa, Học viện
Chính trị - Quân sự, Hà Nội, 2006; tác giả đã bàn tới tư tưởng Hồ Chí Minh
về vấn đề bình đẳng dân tộc, đề cập đến ĐKDT, tương trợ giúp đỡ nhau giữa

các dân tộc, đánh giá thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong thực
hiện chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta; từ đó đề xuất những giải pháp
nhằm thực hiện tốt hơn sự bình đẳng dân tộc trên địa bàn Tây Nguyên theo tư
tưởng Hồ Chí Minh, góp phần phát huy sức mạnh ĐĐKTDT, xây dựng thành
công CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Trong đề tài: “Xây dựng khối đoàn kết dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí
Minh ở Đắk Lắk hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ triết học của Trương Thanh
Quảng, HVCT, Hà Nội, 2010; cũng đã đề cập khá toàn diện tư tưởng Hồ Chí
5


Minh về xây dựng khối ĐKDT và những vấn đề cơ bản trong xây dựng khối
ĐKDT; thực trạng xây dựng khối ĐKDT theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở Đắk
Lắk hiện nay và nguyên nhân của thực trạng đó; từ đó xác định yêu cầu và
giải pháp cơ bản tiếp tục xây dựng khối ĐKDT theo tư tưởng Hồ Chí Minh ở
Đắk Lắk hiện nay... Đề tài này cũng là một căn cứ cho tác giả vận dụng, kế
thừa và phát triển để làm rõ cơ sở lý thuyết của ĐKDT theo tư tưởng Hồ Chí
Minh trong luận văn của mình.
Đặc biệt, tại Hội nghị TW7 (Khóa IX) tháng 3 năm 2003, lần đầu tiên
Đảng ta ra Nghị quyết chuyên đề “Về công tác dân tộc”, nhằm khẳng định vị
trí, vai trò chiến lược cơ bản, lâu dài về vấn đề dân tộc, ĐKDT, thành tựu, hạn
chế công tác dân tộc trong thời gian qua, đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ
nguyên nhân của thực trạng đó; đồng thời xác định những quan điểm, nguyên
tắc, mục tiêu, nội dung, giải pháp thực hiện công tác dân tộc trong thời gian tới.
* Các công trình nghiên cứu về quân đội tham gia xây dựng đoàn kết
dân tộc và thực hiện chính sách đoàn kết dân tộc của Đảng và Nhà nước ta
Sách: “Phát huy vai trò quân đội trong đấu tranh phòng, chống âm
mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo
chống phá cách mạng nước ta”, Tạ Việt Hùng (Chủ biên), Nxb. QĐND, Hà
Nội, 2016; các tác giả đã góp phần làm sáng tỏ những vấn đề dân tộc, tôn giáo

phức tạp đang diễn ra ở nước ta; âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi
dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo chống phá cách mạng nước ta hiện nay; các
nhân tố tác động đến những vấn đề dân tộc, tôn giáo; từ đó xác định những
yêu cầu, giải pháp cơ bản phát huy vai trò quân đội trong đấu tranh phòng,
chống âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn
giáo chống phá cách mạng nước ta hiện nay.
Đề tài: “Phát huy vai trò đơn vị cơ sở Quân khu 2 trong thực hiện
chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước ta hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ triết
học của Dương Đình Tài, Học viện Chính trị - Quân sự, Hà Nội, 2005; tác
giả đã bàn tới một số đặc điểm hoạt động của đơn vị cơ sở Quân khu 2, xác
6


định hệ thống các giải pháp nhằm tăng cường giáo dục, quán triệt cho cán
bộ, chiến sĩ trong thực hiện chính sách dân tộc; xây dựng các tổ chức ở đơn
vị cơ sở làm nòng cốt để thực hiện chính sách dân tộc; vận dụng sáng tạo các
hình thức công tác dân vận trong quá trình thực hiện để xây dựng khối
ĐKDT trên địa bàn.
Luận văn: “Vai trò của lực lượng vũ trang Quân khu 2 trong đấu tranh
chống chia rẽ dân tộc trên địa bàn Quân khu hiện nay” của Lê Việt Hùng,
Luận văn Thạc sĩ triết học, Học viện Chính trị - Quân sự, Hà Nội, 2006; tác
giả đã bàn tới đặc điểm tình hình dân tộc trên địa bàn Quân khu 2 và vai trò
của lực lượng vũ trang Quân khu 2 trong đấu tranh chống chia rẽ dân tộc trên
địa bàn Quân khu hiện nay như một trong những điều kiện quan trọng để xây
dựng khối ĐKDT.
Luận văn: “Bộ đội Biên phòng tham gia đấu tranh chống chia rẽ đại
đoàn kết dân tộc ở tỉnh Đắk Lắk hiện nay” của Phạm Khắc Tấn, Luận văn
Thạc sĩ Chủ nghĩa xã hội khoa học, Học viện Chính trị, Hà Nội, 2015; tác giả
đã bàn tới ĐKDT và âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch gây chia rẽ
ĐKDT ở tỉnh Đắk Lắk hiện nay; đặc điểm, thực trạng Bộ đội Biên phòng

tham gia đấu tranh chống chia rẽ ĐKDT ở tỉnh Đắk Lắk hiện nay; từ đó xác
định một số giải pháp cơ bản nâng cao hiệu quả Bộ đội Biên phòng tham gia
đấu tranh chống chia rẽ ĐKDT ở tỉnh Đắk Lắk hiện nay.
Luận án: “Quân đội nhân dân Việt Nam trong thực hiện chiến lược đại
đoàn kết toàn dân tộc của Đảng, Nhà nước ta hiện nay”, Luận án Tiến sĩ
chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học của Phạm Văn Tuấn, Nxb. QĐND,
Hà Nội, 2009; tác giả đã làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn quân đội trong thực
hiện chiến lược ĐĐKTDT của Đảng, Nhà nước ta; đưa ra quan niệm và xác
định nội hàm chiến lược ĐĐKTDT; làm rõ vai trò, đặc điểm quân đội trong
thực hiện chiến lược ĐĐKTDT; khảo sát kết quả, rút ra bài học kinh nghiệm
và dự báo nhân tố tác động đến quân đội trong thực hiện chiến lược ĐĐKTDT
thời gian tới. Đề xuất những giải pháp cơ bản để quân đội thực hiện tốt chiến
7


lược ĐĐKTDT của Đảng, Nhà nước ta hiện nay. Đề tài này có ý nghĩa thiết
thực giúp tác giả kế thừa trong nghiên cứu, nhưng đây là vấn đề rộng hơn luận
văn của tác giả về đối tượng và khác về khách thể cũng như phạm vi nghiên
cứu.
Những công trình nghiên cứu trên đề cập khá sâu sắc, toàn diện về vấn
đề đại đoàn kết, dân tộc, quan điểm, chính sách dân tộc, ĐKDT và vai trò
của Quân đội nhân dân Việt Nam trong tham gia xây dựng khối ĐKDT, thực
hiện chính sách ĐKDT của Đảng và Nhà nước ta đối với đồng bào các
DTTS, với những đối tượng cụ thể trên địa bàn xác định. Đây là những cơ sở
quan trọng để tác giả vận dụng, kế thừa và phát triển trong nghiên cứu luận
văn của mình.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên cứu một cách hệ
thống, cơ bản về: “Bộ đội địa phương tham gia xây dựng đoàn kết dân tộc ở
tỉnh Quảng Ninh hiện nay”, cho nên luận văn này không trùng lặp với các
công trình khoa học đã được công bố.

3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu
Luận giải một số vấn đề lý luận, thực tiễn về BĐĐP tham gia xây dựng
ĐKDT ở tỉnh Quảng Ninh hiện nay; trên cơ sở đó xác định yêu cầu, đề xuất
giải pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng BĐĐP tham gia xây dựng ĐKDT ở
tỉnh Quảng Ninh hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải một số vấn đề lý luận về BĐĐP tham gia xây dựng ĐKDT
ở tỉnh Quảng Ninh hiện nay.
- Đánh giá thực trạng BĐĐP tham gia xây dựng ĐKDT ở tỉnh Quảng
Ninh hiện nay.
- Xác định yêu cầu và đề xuất giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng
BĐĐP tham gia xây dựng ĐKDT ở tỉnh Quảng Ninh hiện nay.
8


4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: BĐĐP tham gia xây dựng
ĐKDT ở tỉnh Quảng Ninh hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu
- Về phạm vi nội dung: Nghiên cứu hoạt động của BĐĐP tham gia xây
dựng ĐKDT ở địa bàn tỉnh Quảng Ninh.
- Về phạm vi không gian: Nghiên cứu khảo sát, thu thập số liệu có liên
quan về hoạt động của BĐĐP tỉnh Quảng Ninh tham gia xây dựng ĐKDT tập
trung ở huyện Hoành Bồ, Tiên Yên, Đầm Hà, Hải Hà, Bình Liêu thuộc địa
bàn tỉnh Quảng Ninh.
- Về phạm vi thời gian: Luận văn tham khảo, thu thập và sử dụng số
liệu từ năm 2013 đến tháng 3 năm 2018.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu

* Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về liên minh giai cấp, về vấn
đề dân tộc, ĐKDT và ĐĐKTDT ở Việt Nam.
* Cơ sở thực tiễn
Thực tiễn tham gia xây dựng ĐKDT của Bộ đội địa phương tỉnh Quảng
Ninh qua các báo cáo sơ, tổng kết công tác xây dựng ĐKDT hàng năm ở một
số huyện như Hoành Bồ, Tiên Yên, Đầm Hà, Hải Hà, Bình Liêu... trên địa bàn
tỉnh Quảng Ninh. Kết quả điều tra khảo sát của tác giả và sử dụng các tài liệu,
số liệu từ năm 2013 đến tháng 3 năm 2018.
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ
nghĩa duy vật lịch sử, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể
như lịch sử - lôgíc, phân tích - tổng hợp, khảo sát thực tiễn, thống kê.

9


6. Ý nghĩa của luận văn
Những kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ lý luận về
BĐĐP tham gia xây dựng ĐKDT ở tỉnh Quảng Ninh hiện nay, cung cấp luận
cứ khoa học giúp cho BĐĐP nâng cao hơn nữa chất lượng tham gia xây dựng
ĐKDT ở tỉnh Quảng Ninh hiện nay. Đặc biệt, xây dựng khối ĐKDT trên các
địa bàn khu vực biên giới, vùng sâu, vùng xa, vùng có đông đồng bào các
DTTS sinh sống.
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và
giảng dạy ở nhà trường quân đội về những vấn đề liên quan và ứng dụng thực
tiễn tại địa bàn Đông Bắc của Tổ quốc.
7. Kết cấu của luận văn
Gồm: phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham

khảo và phụ lục.

10


Chương 1
BỘ ĐỘI ĐỊA PHƯƠNG THAM GIA XÂY DỰNG
ĐOÀN KẾT DÂN TỘC Ở TỈNH QUẢNG NINH HIỆN NAY - MỘT SỐ
VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1. Quan niệm, nội dung bộ đội địa phương tham gia xây dựng
đoàn kết dân tộc ở tỉnh Quảng Ninh hiện nay
1.1.1. Quan niệm và nội dung xây dựng đoàn kết dân tộc
* Quan niệm xây dựng đoàn kết dân tộc
Dân tộc được sử dụng theo nhiều nghĩa khác nhau. Nghĩa thứ nhất, dân
tộc là tộc người có mối liên hệ chặt chẽ, bền vững về sinh hoạt kinh tế, ngôn
ngữ, văn hoá đặc thù và có chung một ý thức tự giác dân tộc được biểu hiện ở
việc tự nhận tên gọi của dân tộc mình. Nghĩa thứ hai, dân tộc dùng để chỉ một
cộng đồng người cùng sinh sống trong một quốc gia. Với nghĩa này, dân tộc là
một cộng đồng người ổn định hợp thành nhân dân một nước, có lãnh thổ, nền
kinh tế thống nhất, ngôn ngữ, có tâm lý, nền văn hoá chung tạo nên bản sắc
văn hóa của dân tộc; có một quá trình lịch sử ra đời lâu dài gắn với thể chế
chính trị thống nhất để quản lý, điều hành mọi hoạt động của quốc gia, dân
tộc và quan hệ với các quốc gia, dân tộc khác. Theo nghĩa này, dân tộc là toàn
bộ nhân dân của quốc gia đó.
Trong luận văn chủ yếu bàn đến dân tộc theo nghĩa tộc người, đoàn kết
dân tộc ở đây là đoàn kết các dân tộc, trong đó có các DTTS sinh sống trên
địa bàn tỉnh Quảng Ninh, tạo lên một khối thống nhất, tạo thành sức mạnh
tổng hợp, góp phần thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, chính
trị, văn hóa, QP - AN, đối ngoại của tỉnh, hướng tới góp phần xây dựng khối

ĐĐKTDT của cả nước vững mạnh.
Đoàn kết dân tộc, là một truyền thống quý báu, được hình thành, phát
triển trong tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước hàng nghìn năm của dân
tộc Việt Nam. Từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, lãnh đạo sự nghiệp
cách mạng, truyền thống quý báu đó đã luôn được kế thừa và phát huy mạnh
11


mẽ, là động lực to lớn, nhân tố có ý nghĩa quyết định cho thắng lợi của sự
nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc cũng như xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam XHCN hiện nay.
Đại đoàn kết toàn dân tộc, là một định hướng lớn trong đường lối,
chính sách của Đảng và Nhà nước ta nhằm tập hợp lực lượng cách mạng,
không kể thành phần tôn giáo, giai cấp, tầng lớp xã hội, thành phần kinh tế,
mọi giới, mọi lứa tuổi, người trong đảng, người ngoài đảng, người đang công
tác, người đã nghỉ hưu, mọi thành viên trong đại gia đình dân tộc Việt Nam dù
sinh sống ở trong nước hay định cư ở nước ngoài... Phát huy sức mạnh của cả
cộng đồng dân tộc, truyền thống yêu nước, ý chí tự lực tự cường và lòng tự
hào dân tộc trên cơ sở liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và
đội ngũ trí thức… Mỗi giai đoạn cách mạng đều đặt ra mục tiêu, nội dung,
phương thức cụ thể để tạo ra sức mạnh nhằm liên kết, tập hợp lực lượng, đáp
ứng yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng trong giai đoạn đó.
Đường lối chiến lược ĐKDT của Đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay
được hình thành và phát triển trên cơ sở quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
điều đó thể hiện. C.Mác và Ph.Ăngghen đã nêu nhiều tư tưởng về vấn đề đoàn
kết, tập hợp lực lượng cách mạng. Các giai cấp, tầng lớp lao động bị áp bức
muốn giải phóng mình thì phải đoàn kết, liên minh lại với nhau, đoàn kết với
giai cấp vô sản, tạo nên một mặt trận cách mạng trong cuộc đấu tranh chống kẻ
thù chung là giai cấp tư sản. Các ông đã chỉ rõ, đứng trước giai cấp phản cách
mạng đã liên minh lại thì dĩ nhiên những phần tử đã được cách mạng hoá của

giai cấp tiểu tư sản và của giai cấp nông dân phải liên minh với người đại biểu
chủ yếu cho những lợi ích cách mạng, tức là giai cấp vô sản cách mạng.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhất quán cho rằng, giai cấp vô sản là giai
cấp tiên phong có sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng nhưng muốn giành
thắng lợi thì phải có sự đoàn kết, thống nhất cao, chống mọi sự phân liệt, bè
phái, chia rẽ. Điều đó đòi hỏi giai cấp vô sản trong mỗi nước, cũng như giai
12


cấp vô sản ở tất cả các nước phải đoàn kết lại mới có thể giành được thắng
lợi. Các ông đã nêu ra khẩu hiệu chỉ đạo chiến lược: "Vô sản tất cả các nước
đoàn kết lại" [36, tr.646].
Kế thừa tư tưởng của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin cho rằng vấn đề
đoàn kết, tập hợp lực lượng cách mạng, liên minh công nông là điều kiện bảo
đảm cho thắng lợi của sự nghiệp cách mạng mà giai cấp công nhân là người
lãnh đạo. Người chỉ rõ: "Liên minh công nông, đó là cái mà Chính quyền Xô
viết đem lại cho chúng ta. Sức mạnh của Chính quyền Xô viết cũng chính là ở
chỗ đó. Đó là cái bảo đảm cho những thành công của chúng ta và cho thắng
lợi cuối cùng của chúng ta" [33, tr.71].
Trong điều kiện chủ nghĩa tư bản chuyển sang giai đoạn đế quốc chủ
nghĩa, tiến hành xâm chiếm thuộc địa, câu kết chặt chẽ với nhau để chống lại
phong trào cách mạng, V.I.Lênin đã mở rộng nội hàm cũng như các đối tượng
cần phải đoàn kết. Người đưa ra khẩu hiệu bất hủ, có ý nghĩa chiến lược là:
“Vô sản tất cả các nước và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại”.
Kế thừa quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
nêu ra nhiều luận điểm có giá trị về ĐKDT và ĐĐKTDT. Chủ tịch Hồ Chí Minh
cho rằng, đại đoàn kết là vấn đề chiến lược và có tầm quan trọng đặc biệt vì:
"Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công" [42, tr.154]. Đúc kết lịch sử
dân tộc, Người đã đưa ra một kết luận mang tính chân lý: "Lúc nào dân ta đoàn
kết muôn người như một thì nước ta độc lập, tự do. Trái lại lúc nào dân ta không

đoàn kết thì bị nước ngoài xâm lấn" [37, tr.271]. Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã coi vấn đề đại đoàn kết là then chốt của cách mạng, là chìa khoá để giải
quyết vấn đề lực lượng, tạo nguồn sức mạnh để đưa cách mạng tiến lên.
Hồ Chí Minh chủ trương đoàn kết rộng rãi và lâu dài tất cả các lực
lượng có thể đoàn kết. Trong lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, Người đã
hiệu triệu: "Bất kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già, người trẻ, không chia
tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh
thực dân Pháp để cứu Tổ quốc” [38, tr.480]. Như vậy, đối tượng đoàn kết

13


trong tư tưởng của Hồ Chí Minh là tất cả thành viên của dân tộc và không
phải là vấn đề sách lược, mang tính nhất thời, mà luôn thể hiện tính nhất quán
trong suốt quá trình cách mạng. Người chỉ rõ: "Đoàn kết của ta không những
rộng rãi mà còn đoàn kết lâu dài. Đoàn kết là một chính sách dân tộc, không
phải là một thủ đoạn chính trị" [41, tr.438].
Trong xây dựng, củng cố ĐĐKTDT, Người cho rằng đó là trách nhiệm
của Đảng, Chính phủ và của mỗi người dân. Người nhắc nhở các tổ chức
đảng từ Trung ương tới các chi bộ phải luôn là hạt nhân, trung tâm đoàn kết,
làm cơ sở để thực hiện ĐĐKTDT nên đã chỉ rõ: "Đoàn kết là một truyền
thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương
đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con
ngươi của mắt mình" [43, tr.510].
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về ĐĐKTDT, đã trở thành cơ sở để Đảng,
Nhà nước ta đề ra đường lối, chính sách ĐĐKTDT trong giai đoạn hiện nay.
Đường lối ĐĐKTDT của Đảng ta hiện nay là sự kế thừa, phát triển lên một
tầm cao mới, chất lượng mới truyền thống đoàn kết của dân tộc trong lịch sử
dựng nước và giữ nước. Đồng thời do yêu cầu mới đang đặt ra của sự nghiệp
đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ

quốc Việt Nam XHCN hiện nay. Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã khẳng
định: “Đại đoàn kết toàn dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt
Nam, là động lực và nguồn lực to lớn trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc” [18,
tr.158]. Về mục tiêu đoàn kết dân tộc, trong giai đoạn cách mạng hiện nay là
giữ vững độc lập, thống nhất của Tổ quốc vì mục tiêu: “Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” [18, tr.158].
Xây dựng đoàn kết dân tộc, là hoạt động có mục đích, nguyên tắc, tổ
chức, phương thức và lực lượng, đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý
của Nhà nước nhằm xây dựng khối ĐKDT gắn bó, chặt chẽ, tạo nên sức mạnh
tổng hợp, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
XHCN trong tình hình hiện nay.
14


Mục đích của xây dựng đoàn kết dân tộc là: Xây dựng khối ĐKDT gắn
bó, chặt chẽ, tạo nên sức mạnh tổng hợp, góp phần đẩy mạnh sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong tình hình hiện nay.
Chủ thể tiến hành xây dựng đoàn kết dân tộc bao gồm: Đảng, Nhà
nước, các tổ chức chính trị - xã hội mà trực tiếp là hệ thống chính trị ở cơ sở
và đồng bào các dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, trong đó sự
tham gia của các lực lượng vũ trang giữ vai trò quan trọng.
Nguyên tắc xây dựng đoàn kết dân tộc: Phải đặt trên nền tảng hài hòa
các quan hệ lợi ích, giữ vững độc lập dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng; xây
dựng ĐKDT phải chặt chẽ, rộng rãi, lâu dài trên cơ sở lợi ích chung thống
nhất của quốc gia và lợi ích của các dân tộc; đoàn kết trên cơ sở tôn trọng văn
hóa, phong tục, tập quán; kiên quyết chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp
hòi, kỳ thị dân tộc.
Tổ chức xây dựng đoàn kết dân tộc: Là tập hợp tất cả các thành phần,
lực lượng trong một tổ chức thống nhất là Mặt trận dân tộc (Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam), dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam để xây dựng khối

ĐKDT vững mạnh, toàn diện.
Phương thức xây dựng đoàn kết dân tộc là: Vận dụng tổng hợp các
cách thức và biện pháp để tiến hành xây dựng khối ĐKDT một cách chủ
động, linh hoạt, khéo léo; chú trọng công tác tuyên truyền, vận động, giáo
dục, thuyết phục bằng những hành động thiết thực, không tuyên truyền
“suông”; tập trung phát triển kinh tế - xã hội trên mọi lĩnh vực; đồng thời,
tăng cường đấu tranh với các nhận thức, hành động sai trái, phản động để
đồng bào các dân tộc trên địa bàn thực sự đoàn kết thống nhất với nhau một
lòng, một dạ đi theo Đảng, theo cách mạng.
Lực lượng đoàn kết dân tộc là: Tất cả các dân tộc vừa là chủ thể vừa là
khách thể được tập hợp vào trong khối đoàn kết các dân tộc, cho nên phải khắc
phục các tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, tự ti, mặc cảm dân tộc để vươn
15


lên nắm bắt khoa học kỹ thuật, tận dụng các cơ hội vào phát triển sản xuất, nâng
cao đời sống, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc trên địa bàn.
* Nội dung xây dựng đoàn kết dân tộc
Xây dựng ĐKDT được thể hiện đầy đủ, toàn diện ở những nội dung cơ
bản sau đây:
Một là, Tuyên truyền, vận động nâng cao nhận thức cho đồng bào các
dân tộc về quan điểm, chính sách đoàn kết dân tộc của Đảng và Nhà nước ta
hiện nay
Tuyên truyền, vận động nâng cao nhận thức cho đồng bào các dân tộc
về quan điểm, chính sách ĐKDT của Đảng và Nhà nước ta là một nội dung
quan trọng nhằm xây dựng khối ĐKDT vững mạnh, góp phần phát triển kinh
tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, củng cố QP - AN trên địa bàn cho đồng
bào các dân tộc.
Nội dung thể hiện ở việc tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của nhà nước đối với đồng bào các dân tộc trên địa bàn.

Tuyên truyền, vận động nâng cao nhận thức, tư tưởng, tình cảm của đồng bào;
hướng dẫn, định hướng hoạt động của đồng bào theo đường lối lãnh đạo của
Đảng; củng cố mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với đồng bào các dân tộc,
giữa quân đội với đồng bào các dân tộc trên địa bàn đóng quân, tăng cường
khối ĐKDT. Tuyên truyền vạch trần âm mưu thủ đoạn chia rẽ khối ĐKDT của
các thế lực thù địch.
Hình thức tuyên truyền, vận động nâng cao nhận thức cho đồng bào các
dân tộc về quan điểm, chính sách ĐKDT của Đảng và Nhà nước ta cũng rất
đa dạng, phong phú trong đó chú trọng công tác vận động, thuyết phục, nêu
gương, bằng những việc làm thiết thực trong chấp hành đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, tôn trọng tự do tín ngưỡng,
phong tục tập quán, bản sắc văn hóa của đồng bào các dân tộc. Quá trình
tuyên truyền, vận động nâng cao nhận thức cho đồng bào các dân tộc vừa phải
16


quán triệt và nắm vững quan điểm, chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước
ta, vừa phải bám sát địa bàn, nhạy bén, sáng tạo trong công tác tuyên truyền,
vận động, có sức cảm hóa thuyết phục, phù hợp với từng đối tượng.
Hai là, Thực hiện sự bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng
phát triển giữa các dân tộc
Mục tiêu chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta là tăng cường
khối ĐĐKTDT; phát huy tinh thần cách mạng và năng lực sáng tạo của các
tộc người trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN; tạo mọi điều
kiện để các tộc người phát triển trên con đường văn minh, tiến bộ, gắn bó mật
thiết với sự phát triển chung của quốc gia dân tộc Việt Nam.
Thực hiện sự bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng phát
triển giữa các dân tộc cũng chính là để thực hiện mục tiêu đó. Cho nên các
dân tộc phải thực hiện sự bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau trong quan hệ trên tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, không phân biệt dân tộc lớn, dân tộc nhỏ,

dân tộc đa số hay dân tộc thiểu số, dân tộc ở miền núi hay dân tộc ở miền
xuôi, kỳ thị, chia rẽ dân tộc. Các dân tộc trong đại gia đình dân tộc Việt Nam
phải giúp đỡ lẫn nhau cùng phát triển, cùng nhau phấn đấu thực hiện thắng lợi
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN, kiên quyết đấu tranh với mọi âm mưu, thủ
đoạn chia rẽ khối ĐKDT của các thế lực thù địch.
Ba là, Tăng cường củng cố liên minh giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng làm nòng cốt cho
khối đoàn kết dân tộc; phát huy vai trò của hệ thống chính trị, Mặt trận Tổ
quốc, các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng đoàn kết dân tộc
Tăng cường củng cố liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và đội ngũ trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng ngày càng vững chắc, làm
nòng cốt cho xây dựng khối ĐKDT.
17


Tích cực, chủ động xây dựng, củng cố và phát huy vai trò của hệ thống
chính trị, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong xây dựng
đoàn kết dân tộc, trong đó tập trung củng cố, kiện toàn và nâng cao hiệu quả
hoạt động của hệ thống chính trị ở cơ sở; xây dựng, củng cố tổ chức và hoạt
động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ở địa phương,
thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở; xây dựng chính quyền cơ sở theo đúng
quy định của pháp luật, góp phần củng cố lòng tin của các tầng lớp nhân dân
vào tổ chức đảng và chính quyền các cấp.
Bốn là, Thực hiện có hiệu quả các chương trình phát triển kinh tế - xã
hội vùng đồng bào các dân tộc
Về kinh tế: Tạo lên sự hợp tác gắn bó trong sản xuất, nâng cao đời
sống, tạo điều kiện để các dân tộc nhất là các DTTS nâng cao năng suất lao
động, giảm dần chênh lệch về mức sống. Giải quyết tốt những vấn đề bức xúc
của các dân tộc về đói nghèo, đất đai, vốn, thuế, cơ sở hạ tầng, khoa học công

nghệ... Tạo điều kiện tốt nhất trong khả năng có thể để đồng bào các dân tộc
đẩy mạnh phát triển sản xuất theo hướng chú trọng phát triển kinh tế nhiều
thành phần, lấy phát triển kinh tế, nâng cao đời sống đồng bào làm nhiệm vụ
trung tâm, gắn tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội.
Về chính trị: Tạo lên sự gắn bó quyền lợi giữa các dân tộc trong tham
gia vào những vấn đề chung của đất nước, vào quản lý nhà nước; xây dựng
đội ngũ cán bộ đặc biệt đội ngũ cán bộ người DTTS đáp ứng yêu cầu nhiệm
vụ. Bởi vậy, cần đảm bảo để đồng bào các dân tộc tham gia vào các tổ chức,
các hoạt động chính trị - xã hội, được thật sự phát huy quyền làm chủ, quyền
ứng cử, đề cử, quyền tham gia các hoạt động kiểm tra, giám sát nhất là giám
sát các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội nhằm đảm bảo công
bằng, bình đẳng, ổn định chính trị, đồng thuận trong đồng bào, hướng đến
một xã hội phát triển.
18


Về văn hóa - xã hội: Tôn trọng văn hóa truyền thống các dân tộc, tăng
cường giao lưu văn hóa giữa các dân tộc; tạo điều kiện phát triển toàn diện
đời sống vật chất, tinh thần các dân tộc, giải quyết tốt các vấn đề xã hội. Chú
trọng nâng cao trình độ dân trí cho đồng bào, giữ gìn, phát huy bản sắc văn
hóa các dân tộc; nhất là nâng cao mức độ thụ hưởng các dịch vụ công như
nước sạch, điện sinh hoạt, bưu điện, giao thông, giáo dục, y tế...
Về quốc phòng - an ninh: Nâng cao ý thức trách nhiệm, tinh thần cảnh
giác của đồng bào các dân tộc trong tham gia ổn định chính trị, trật tự an toàn
xã hội; bảo vệ, giữ vững chủ quyền biên giới, biển đảo của Tổ quốc. Trước
hết cần tập hợp, động viên đồng bào kiên quyết đấu tranh làm thất bại âm
mưu, thủ đoạn chia rẽ gây mất đoàn kết, bất bình đẳng giữa các dân tộc, vô
hiệu hóa thủ đoạn lợi dụng, lôi kéo đồng bào tham gia biểu tình, khiếu kiện,
vượt biên trái phép, gây mất ổn định an ninh chính trị của các thế lực thù địch
trên địa bàn.

Đấu tranh ngăn chặn làm thất bại mọi âm mưu gây chia rẽ đoàn kết dân tộc
Tích cực, chủ động đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận bảo vệ
quan điểm, đường lối, chính sách ĐKDT của Đảng và Nhà nước ta. Trước sự
chống phá tinh vi, xảo quyệt của các thế lực thù địch cần nắm thế chủ động,
không để bị động bất ngờ trong mọi tình huống. Do đó phải chuẩn bị chu đáo
về mọi mặt: tư tưởng, tổ chức, lực lượng, kế hoạch, phương án chiến đấu,
phương tiện, trang bị vũ khí và các yếu tố đảm bảo khác, sẵn sàng đối phó và
làm thất bại mọi ý đồ của địch, bảo vệ khối ĐĐKTDT. Ở những địa bàn trọng
điểm, các xã biên giới, biển đảo nhạy cảm phải thường xuyên nâng cao cảnh
giác, phát hiện ý đồ và tình hình hoạt động của địch trên địa bàn, chủ động bố
trí lực lượng, biên chế tổ chức hợp lý, phân công nhiệm vụ cụ thể, đầy đủ, rõ
ràng tới từng người, tổ công tác, bộ phận... đảm bảo luôn đủ lực lượng tham
gia tác chiến ngay khi có lệnh của cấp trên.
19


Xây dựng ĐKDT là một quá trình khó khăn, phức tạp đòi hỏi phải vận
dụng trung thành, sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
thực hiện đúng quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam, chính
sách dân tộc của Nhà nước ta, căn cứ vào thực tế, đặc điểm tình hình dân tộc
trên từng địa bàn để tiến hành nhằm nâng cao chất lượng khối ĐKDT trong
tình hình hiện nay.
Xây dựng ĐKDT là một trong những hoạt động mang tính chính trị - xã
hội sâu sắc, toàn diện của hệ thống chính trị các cấp, trực tiếp là hệ thống
chính trị ở cơ sở và bản thân đồng bào các dân tộc trên địa bàn. Sự tham gia
của BĐĐP là quá trình cụ thể hóa và tổ chức thực hiện các chủ trương, chính
sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta trên địa bàn, xây dựng mối quan hệ
đoàn kết chặt chẽ giữa các dân tộc với nhau, trên tất cả các mặt của đời sống
xã hội; hướng tới các dân tộc bình đẳng, tôn trọng, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.
1.1.2. Vài nét khái quát về tỉnh Quảng Ninh, Bộ đội địa phương tỉnh

Quảng Ninh và quan niệm, nội dung bộ đội địa phương tham gia xây dựng
đoàn kết dân tộc ở tỉnh Quảng Ninh hiện nay
* Khái quát về tỉnh Quảng Ninh và Bộ đội địa phương tỉnh Quảng Ninh
Quảng Ninh là một tỉnh nằm trên địa bàn chiến lược trọng yếu
vùng Đông Bắc của Tổ quốc, đây là vị trí đặc thù vì có rừng, có biển, đồng
bằng, trung du và đồi núi; có chung đường biên giới trên đất liền, trên biển
với Trung Quốc.
Về kinh tế: Trong quy hoạch phát triển kinh tế, Quảng Ninh vừa
thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, vừa thuộc vùng duyên hải Bắc Bộ.
Đây là tỉnh khai thác than đá chính của Việt Nam và có vịnh Hạ Long là di
sản, kỳ quan thiên nhiên thế giới.
Về lịch sử: Quảng Ninh là vùng đất có bề dầy lịch sử, điều đó đã ảnh
hưởng không nhỏ đến quá trình hình thành, phát triển và mối quan hệ giữa các
dân tộc trên địa bàn tỉnh.
20


Về hành chính: Quảng Ninh có 4 thành phố, 2 thị xã và 8 huyện trực
thuộc, trong đó có 186 đơn vị hành chính cấp xã gồm 67 phường, 8 thị trấn và
111 xã. Quảng Ninh là tỉnh có nhiều thành phố trực thuộc nhất của Việt Nam.
Quảng Ninh cũng là tỉnh có tỷ lệ đô thị hóa cao nhất vùng Đông Bắc (62%).
Về dân cư: Tính đến năm 2012, dân số toàn tỉnh Quảng Ninh có khoảng
1.144.381 người, mật độ dân số là 193 người/km². Trong đó dân số sống tại
thành thị là gần 620.200 người, dân số sống tại nông thôn là 557.000 người.
Dân số nam là 607.350 người, trong khi đó nữ là 569.850 người. Tỷ lệ tăng tự
nhiên dân số phân theo địa phương tăng 11,5%. Dân cư Quảng Ninh tập trung
chủ yếu ở 4 thành phố và 2 thị xã phía nam, trung tâm của ngành công nghiệp
khai thác than Việt Nam. Phần 8 huyện phía bắc dân cư tương đối thưa thớt,
sống chủ yếu bằng nghề nông.
Về thành phần dân tộc: Tỉnh Quảng Ninh có 22 thành phần dân tộc, 21

thành phần DTTS cư trú trên địa bàn rộng lớn (hơn 85% diện tích của tỉnh),
trong đó: Dân tộc đa số (dân tộc Kinh) có 1.001.103 người, chiếm 87,48%
dân số toàn tỉnh; Dân tộc thiểu số (21 thành phần dân tộc còn lại trong tỉnh)
có 143.278 người, chiếm 12.52% dân số toàn tỉnh.
Trong 21 thành phần DTTS tỉnh Quảng Ninh, có 05 thành phần dân tộc
sống tập trung thành cộng đồng làng bản, gồm: Dân tộc Dao: 68.540 người,
chiếm 47,80% DTTS toàn tỉnh; Dân tộc Tày: 29.849 người, chiếm 20,80%
DTTS toàn tỉnh; Dân tộc Sán Dìu: 20.899 người, chiếm 14.60% DTTS toàn
tỉnh; Dân tộc Sán Chay (gồm Cao Lan và Sán Chỉ): 16.107 người, chiếm
11.20% DTTS toàn tỉnh; Dân tộc Hoa: 5.503 người, chiếm 3,80% DTTS toàn
tỉnh; Còn lại là các thành phần DTTS khác như: Nùng, Mường, Thái, Khơme,
Hmông, Thổ, Giáy… chiếm 1,80% DTTS toàn tỉnh.
Các DTTS ở Quảng Ninh phân bố, cư trú trên địa bàn 14/14 huyện, thị
xã, thành phố của tỉnh. Địa phương có tỷ lệ đồng bào DTTS cao là Bình Liêu
(chiếm 95,8% dân số toàn huyện), Ba Chẽ (79,8% dân số toàn huyện), Tiên
Yên (47,2% dân số toàn huyện), tiếp đến là Hoành Bồ, Đầm Hà, Hải Hà, Cẩm
Phả, Vân Đồn.
21


Theo Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam: Bộ đội địa phương, thành
phần ba thứ quân của Quân đội nhân dân Việt Nam, được tổ chức ở cấp tỉnh
(thành phố trực thuộc trung ương), quận, huyện, thị xã; lực lượng nòng cốt
trong chiến tranh nhân dân, lực lượng cơ động chủ yếu trên địa bàn địa
phương trong tác chiến; phối hợp cùng dân quân tự vệ, công an nhân dân
trong tác chiến và đảm bảo an ninh chính trị trong thời bình. Bộ đội địa
phương do cơ quan quân sự địa phương trực tiếp chỉ huy, cấp ủy Đảng, chính
quyền địa phương lãnh đạo, chỉ đạo.
Tổ chức, biên chế của bộ đội địa phương: Bao gồm cơ quan quân sự và
đơn vị BĐĐP tỉnh, huyện và tương đương - một bộ phận của lực lượng vũ

trang Quân khu, của Quân đội nhân dân Việt Nam, đồng thời, là bộ phận quan
trọng cấu thành hệ thống chính trị của tỉnh, huyện, đặt dưới sự lãnh đạo, chỉ
đạo trực tiếp về mọi mặt của cấp ủy đảng, chính quyền địa phương và sự lãnh
đạo, chỉ đạo của đảng ủy quân sự cấp trên về công tác quốc phòng, quân sự.
BĐĐP được biên chế theo quy định, ở cấp tỉnh có Bộ Chỉ huy quân sự tỉnh
với các phòng chức năng (tham mưu, chính trị, hậu cần, kỹ thuật), trường
quân sự, một trung đoàn thiếu, các tiểu đoàn, đại đội đủ quân. Cấp huyện có
Ban Chỉ huy quân sự huyện với các ban trực thuộc (tham mưu, chính trị, hậu
cần - kỹ thuật), các tiểu đoàn khung thường trực.
Chức năng, nhiệm vụ của bộ đội địa phương: So với bộ đội chủ lực,
BĐĐP cũng là lực lượng thường trực, nhưng do tính chất, đặc điểm, nhiệm vụ
của công tác quốc phòng, quân sự địa phương, nên cơ chế lãnh đạo và hoạt
động trong BĐĐP có những điểm khác so với bộ đội chủ lực. Vì thế, trên cơ
sở quán triệt và thực hiện tốt ba chức năng cơ bản của quân đội là: chiến đấu,
sẵn sàng chiến đấu, lao động sản xuất và công tác, gắn với địa bàn, đặc điểm,
nhiệm vụ của công tác quốc phòng, quân sự địa phương thì BĐĐP còn có các
chức năng, nhiệm vụ chính là.
22


Chức năng: Tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương lãnh đạo,
chỉ đạo toàn bộ công tác quốc phòng, quân sự ở địa phương, tổ chức thực hiện
các mệnh lệnh, chỉ thị về nhiệm vụ quân sự của cơ quan quân sự cấp trên. Chỉ
đạo, chỉ huy và thực hiện mọi mặt xây dựng, hoạt động của khu vực phòng thủ
và các mặt công tác của lực lượng vũ trang địa phương. Giúp cấp ủy, chính
quyền các địa phương hướng dẫn, kiểm tra các tổ chức, các lực lượng tham gia
cùng lực lượng vũ trang thực hiện các nhiệm vụ quân sự, quốc phòng địa
phương. Phối hợp, hiệp đồng với các ngành và các lực lượng khác đứng chân
trên địa bàn thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, quân sự ở địa phương.
Nhiệm vụ: Là một lực lượng nòng cốt trong xây dựng khu vực phòng

thủ vững chắc cả về tiềm lực, lực lượng và thế trận trên các mặt chính trị, tư
tưởng, QP - AN, kinh tế, văn hóa, xã hội và đối ngoại. Triển khai thực hiện
công tác huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu, công tác tuyên truyền,
tuyển sinh quân sự, hoạt động phong trào thi đua quyết thắng trong lực lượng
vũ trang địa phương. Xây dựng quyết tâm, kế hoạch phòng thủ, quyết tâm bảo
vệ chế độ XHCN, kế hoạch xây dựng lực lượng vũ trang địa phương. Tổ
chức, chỉ đạo và chỉ huy lực lượng BĐĐP phối hợp với dân quân tự vệ, công
an, bộ đội biên phòng và các lực lượng khác giữ vững an ninh biên giới, an
ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội địa bàn; tổ chức nhân dân đấu tranh
phòng, chống “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của địch. Thực hiện công
tác giáo dục quốc phòng toàn dân, bồi dưỡng kiến thức quốc phòng cho cán
bộ các cấp và học sinh, sinh viên theo quy định của pháp luật. Thực hiện
nhiệm vụ gắn phát triển kinh tế - xã hội với củng cố QP - AN. Tham gia khắc
phục hậu quả thiên tai, thảm họa ở địa phương. Thực hiện chính sách về quốc
phòng và hậu phương quân đội. Tổng kết và nghiên cứu khoa học về công tác
quốc phòng, quân sự địa phương.
Bộ đội địa phương tỉnh Quảng Ninh ra đời ngày 18 tháng 10 năm 1947,
trải qua hơn 70 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, phát huy bản chất
23


truyền thống tốt đẹp “Bộ đội Cụ Hồ”, truyền thống “Kỷ luật và Đồng tâm”
của giai cấp công nhân “Vùng Mỏ bất khuất”, Bộ đội địa phương tỉnh Quảng
Ninh đã viết lên truyền thống “Đoàn kết - Sáng tạo - Bất khuất - Kiên trung Chiến thắng”, góp phần tô thắm truyền thống “Đoàn kết - Tiến công - Hy
sinh - Chiến thắng” của lực lượng vũ trang Quân khu 3, góp phần vào sự
nghiệp đấu tranh cách mạng trước đây, cũng như sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa hiện nay, xây dựng tỉnh Quảng Ninh văn minh, giàu mạnh.
Đóng quân trên địa bàn được ví như một Việt Nam thu nhỏ với đầy đủ
các biểu hiện sinh động về điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị, văn hóa - xã
hội... và đặc biệt là về thành phần dân tộc với đông đồng bào các DTTS sinh

sống, Bộ đội địa phương tỉnh Quảng Ninh đã không ngừng xây dựng, củng cố
và hoàn thiện về tổ chức biên chế, thực hiện nhiệm vụ, chức năng được giao
và tích cực tham gia xây dựng ĐKDT trên địa bàn của tỉnh.
Về tổ chức biên chế: Bộ đội địa phương tỉnh Quảng Ninh bao gồm: Bộ
Chỉ huy quân sự tỉnh với 04 cơ quan (Tham mưu, Chính trị, Hậu cần, Kỹ
thuật) và 02 bộ phận (Ban Tài chính và Văn phòng); 14 Ban Chỉ huy quân sự
huyện, thị xã, thành phố; 01 Trường quân sự tỉnh; 01 Khung Trung đoàn huấn
luyện DBĐV; 01 Đại đội bộ đội đảo Vĩnh Thực; Các đơn vị tự vệ ngành than.
Về nhiệm vụ, chức năng: Bộ đội địa phương tỉnh Quảng Ninh nói riêng
là một lực lượng, một thành phần của lực lượng vũ trang Quân khu 3, của
Quân đội nhân dân Việt Nam; là một lực lượng chính trị tin cậy của Đảng,
Nhà nước, Quân khu 3 và của Đảng bộ, chính quyền, nhân dân tỉnh Quảng
Ninh. Nhiệm vụ trọng tâm của Bộ đội địa phương tỉnh Quảng Ninh là thực
hiện chức năng bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh, trật tự biên giới,
biển đảo trên địa bàn được phân công phụ trách và là lực lượng nòng cốt
trong khu vực phòng thủ tỉnh, huyện. Có nhiệm vụ phối hợp với các lực lượng
khác huấn luyện sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi bảo vệ địa bàn
được phân công và bảo vệ Tổ quốc, tham gia giữ vững ổn định chính trị, QP 24


AN ở khu vực biên giới, biển đảo; tham gia xây dựng ĐKDT, thực hiện các
chương trình phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, xây dựng nền quốc
phòng toàn dân gắn với thế trận quốc phòng toàn dân, xây dựng nền an ninh
nhân dân gắn với thế trận an ninh nhân dân trên vùng Đông Bắc của Tổ quốc.
* Quan niệm bộ đội địa phương tham gia xây dựng đoàn kết dân tộc
ở tỉnh Quảng Ninh hiện nay
Từ những phân tích xây dựng ĐKDT và những khái quát về Bộ đội địa
phương tỉnh Quảng Ninh, có thể quan niệm:
Bộ đội địa phương tham gia xây dựng đoàn kết dân tộc ở tỉnh Quảng
Ninh là tổng thể các hoạt động được tổ chức chặt chẽ, theo chức năng, nhiệm

vụ, đặt dưới sự lãnh đạo, quản lý, chỉ huy của cấp ủy đảng, chính quyền và sự
phối hợp với các đoàn thể, lực lượng khác nhằm tăng cường sự bình đẳng,
đoàn kết, gắn bó giữa các dân tộc, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, giữ
vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng - an ninh trên địa bàn.
Như vậy, BĐĐP tham gia xây dựng ĐKDT ở tỉnh Quảng Ninh là hoạt
động có mục đích, chủ động và tích cực. Bởi vì, xuất phát từ yêu cầu, chức
năng, nhiệm vụ, vai trò của BĐĐP, căn cứ vào đường lối, quan điểm của
Đảng, chính sách và pháp luật của nhà nước liên quan đến vấn đề dân tộc, căn
cứ vào Nghị quyết số 07/NQ-TU ngày 29/5/2013 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy
“Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng về công tác dân tộc trong sự nghiệp phát
triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững gắn với bảo vệ vững chắc quốc phòng an ninh tỉnh Quảng Ninh đến năm 2020, định hướng đến năm 2030”.
Xây dựng khối ĐĐKTDT là nhiệm vụ chung của toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân, của các cấp, các ngành, các đoàn thể xã hội, trong đó BĐĐP giữ
vai trò quan trọng. Bộ đội địa phương tỉnh Quảng Ninh là lực lượng tham gia
trực tiếp, làm nòng cốt trong tham mưu, phối hợp cùng với các lực lượng khác
xây dựng ĐKDT trên địa bàn tỉnh. Nghị quyết số 07/NQ-TU của Ban Thường
vụ Tỉnh ủy đã chỉ rõ: “Công tác dân tộc là nhiệm vụ của cả hệ thống chính
25


×