Sức mạnh tiềm tàng của nhân vật Mỵ trong truyện Vợ chồng A Phủ
Mở bài:
Trong truyện ngắn Mùa lạc, nhà văn Nguyễn Khải đã viết: “Sự sống nảy sinh từ cái
chết, hạnh phúc hiện hình từ trong những hi sinh, gian khổ, ở đời này không có con
đường cùng, chỉ có những ranh giới, điều cốt yếu là phải có sức mạnh để bước qua
những ranh giới ấy”. Không chỉ nhân vật Đào trong tác phẩm mà còn có nhân vật
Mỵ trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài là những điển hình tiêu biểu
khẳng định mạnh mẽ chân lí ấy. Sức mạnh phản kháng của nhân vật Mỵ làm nên
sức sống mãnh liệt trong nhân vật.
Thân bài:
Vợ chồng A Phủ là một trong những truyện ngắn xuất sắc của đời văn Tô Hoài và
của nền văn học kháng chiến. Tác phẩm khắc họa thành công số phận khốn khổ và
đề cao sức mạnh phản kháng của người dân vùng cao trước sự áp bức, bóc lột của
tầng lớp thống trị.
Cũng như nhân vật Đào trong Mùa lạc, Mỵ đã được Tô Hoài liên tục đặt vào thử
thách trong việc bước hay không bước qua những “lằn ranh giới” trong những lần
phản kháng. Các lần thử thử thách được sắp đặt khéo léo hết sức tự nhiên, lần sau
cao hơn lần trước.
Ở lần phản kháng đầu tiên, Mỵ định ăn lá ngón quyên sinh để thoát khỏi nỗi nhục
vì bị bắt làm vợ A Sử, một kẻ tàn ác. Quyết định này một mặt để bảo vệ bản thân,
mặt khác quyết liệt thể hiện thái độ không đồng tình.
Tuy nhiên, người ngăn Mỵ lại chính là cha Mỵ. Không ai hiểu con bằng đấng sinh
thành. Người cha cùng khổ ấy đã nói trong nước mắt, van xin Mỵ dừng ngay hành
động dại dột ấy. Ý định của Mỵ đã bị ngăn chặn, cô không vượt qua được áp lực từ
người thân yêu duy nhất của mình. Mỵ không muốn vì sự ích kỉ của bản thân mà
phải làm người cha đau lòng, tiếp tục một mình gánh lấy nỗi đau khổ. Đó là một
quyết định đúng đắn.
Tinh thần phản kháng sau lần thất bại đầu tiên tiếp tục sống trong lòng Mỵ. Cô
chính thức bước vào cuộc đời nô lệ đầy nước mắt. Cô âm thầm phản kháng bằng
cách sống im lặng, sống mờ nhặt như một chiếc bống; sống lầm lũi như con rùa
nuôi trong xó cửa.
Tưởng chừng như công việc vất vả ngày đêm và sự hành hạ khốc liệt của nhà
thống lý Pá Tra đã làm cho tâm hồn Mỵ chìm chết. Nhưng không, tâm hồn ấy vẫn
âm thầm sống, không hẳn để mong một ngày được giải thoát, mà sống vì trách
nhiệm với người cha, sống vì món nợ cần phải trả hết.
Lần thứ hai, tâm hồn ấy cựa mình trỗi dậy. Đêm mùa xuân, nghe tiếng khèn trên
núi cao, sau khi uông mấy chén rượu, người ngà ngàn say, lòng Mỵ rạo rực muốn
đi chơi. Mỵ muốn quên lãng hiện thực, muốn vượt qua cái ranh giới, muốn tìm lại
chính mình ngày xưa.
Nhưng lần này Mỵ cũng tiếp tục thất bại. A Sử xuất hiện như một hung thần và
kèm theo đó là trận đòn roi và lời đe dọa khủng khiếp trút xuống đầu Mỵ, chấm dứt
ý định đi chơi của Mỵ. Và nếu A Sử không bị thương nặng, không cần người chăm
sóc thì Mỵ có thể đã bị bở đói cho đến lúc trở thành con ma bị quên lãng trong nhà
thống lý Pá Tra.
Đây là một chi tiết đắc địa, được nhà văn khéo léo đặt vào tác phẩm. Sự sống và
cái chết của người phụ nữ miền cao hoàn toàn phụ thuộc vào chồng và càng có lí
hơn nữa khi vợ sống như một nô lệ chứ không phải tư cách một người vợ.
Tô Hoài đã đặt Mỵ vào ranh giới mong manh giữa ước mơ và hiện thực. Ước mơ
tươi đẹp gọi mời còn hiện thực quá tàn nhẫn, phũ phàn. Mỵ đã sai lầm khi thành
thật nói ý định đi chơi với A Sử. Mỵ cũng không lường trước được A Sử sẽ hành
động như vậy bởi được đi chơi xuân là quyền lợi mà ai cũng có, kể cả Mỵ. Thêm
một lần nữa, Mỵ nhận ra sự tàn độc của cha con nhà thống lý Pá Tra, làm sống lại
trong nàng sự căm ghét, thù hận bọn cường quyền không có tính người, giúp nàng
có thêm sức mạnh sống tiếp trên cuộc đời.
Lần thứ ba, khi bất ngờ nhìn thấy ánh mắt của A Phủ, một chàng trai bị trói ngoài
sân, Mỵ đã động lòng. Có lẽ Mỵ cũng không ngờ tới điều này, bởi nguồn sống
trong nàng đã ngụi tắt từ lâu và cả sự sống và cái chết của người khác cũng không
làm nàng bận lòng.
Thế nhưng đêm nay, cái lạnh căm căm cắt da cắt thịt, những vì sao le lói trên bầu
trời mờ mịt làm long lanh nước mắt trên mặt A Phủ khiến nàng trở nên mạnh mẽ
vô cùng. Mỵ nhớ lại cái đêm mình bị trói, lòng yêu thương con người trỗi dậy thôi
thúc nàng cần phải làm gì đó cho người xấu số đang đứng ở ngoài kia. Mỵ nghĩ về
cái chết. Có thể anh ta sẽ chết.
Và Mỵ quyết định cầm con dao cắt từng sợi dây trói để giải thoát cho A Phủ. Mỵ
đã mường tượng rất rõ ràng rằng khi giải thoát cho A Phủ cũng đồng nghĩa nàng sẽ
phải đứng vào chỗ đó. Thoáng chút run sợ nhưng nàng đã trấn tĩnh mình mạnh mẽ
hành động. Và khi sợi dây cuối cùng bị cắt đứt, A Phủ vụt chạy vào trong bóng tối,
Mỵ cũng đã quyết định tự giải thoát chính mình.
Từng bước, nhà văn đã cho nhân vật vượt lên cái ranh giới tưởng chừng như không
thể vượt qua ấy. Cái lằn rang giữa sự vô cảm và tình yêu thương con người, giữa sự
cam chịu vĩnh hằng và sức mạnh giải thoát. Sức mạnh cường quyền và thần quyền
đáng sợ đã trói buộc và giết chết biết bao con người đã bị phá bỏ hoàn toàn.
Vợ chống A Phủ miêu tả chân thực số phận nô lệ cực khổ của người dân lao động
nghèo Tây Bắc dưới ách thống trị của bọn cường quyền phong kiến miền núi.
Truyện phơi bày bản chất tàn bạo của giai cấp phong kiến thống trị ở miền núi
bằng sức mạnh cửa cường quyền và thần quyền; phê phán kịch liệt các thế lực bất
nhân chà đạp lên số phận con người.
Thông qua số phận và vẻ đẹp của nhân vật, tác giả bày tỏ lòng yêu thương, sự đồng
cảm sâu sắc với thân phận đau khổ của người lao động nghèo miền núi, khẳng định
niềm tin vào vẻ đẹp tâm hồn, sức sống mãnh liệt và khát vọng hạnh phúc cháy
bỏng của con người. Dù trong hoàn cảnh khắc nghiệt đến mức nào, con người cũng
không mất đi khát vọng sống tự do và hạnh phúc, cố gắng vượt thoát lên trên số
phận tìm kiếm con đường con đường làm chủ vận mệnh của mình.
Kết bài:
Thành công lớn nhất của Tô Hoài là đã phát hiện nỗi khổ đau và ca ngợi vẻ đẹp
của những con người vốn bị che khuất bởi núi rừng, bị bao vây bởi những tập tục
cổ hủ, bị kìm kẹp bởi sức mạnh của cường quyền và thần quyền. Không những
nhân vật được giải thoát mà còn tìm đến với lý tưởng cách mạng, hăng say lao
đông và chiến đấu vì một cuộc sống công bằng, tự do.