Tải bản đầy đủ (.pdf) (212 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về công tác chính trị trong quân đội nhân dân việt nam và vận dụng trong giai đoạn hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.41 MB, 212 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

ĐÀM THẾ VINH

TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ
TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM VÀ VẬN DỤNG
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

Hà Nội - 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

ĐÀM THẾ VINH

TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ
TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM VÀ VẬN DỤNG
TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Chuyên ngành

: Hồ Chí Minh học

Mã số

: 62 31 02 04


LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHÍNH TRỊ HỌC

Người hướng dẫn khoa học:

1. PGS.TS. Trần Minh Trƣởng
2. PGS.TS. Nguyễn Trọng Tuấn

Hà Nội - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học
của riêng tôi trên cơ sở sưu tầm, đọc và phân tích các tài liệu.
Tất cả các tài liệu tham khảo, các tư liệu, số liệu thống kê sử
dụng trong Luận án là trung thực, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2017

Nghiên cứu sinh

Đàm Thế Vinh


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU


1

Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN

5

1.1. Khái quát tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án

5

1.2. Đánh giá khái quát tình hình nghiên cứu và những vấn đề sẽ được luận
án kế thừa, tiếp tục nghiên cứu

24

Chƣơng 2: TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ
TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM

28

2.1. Một số khái niệm

28

2.2. Một số vấn đề cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác chính trị
trong Quân đội nhân dân Việt Nam

36


2.3. Đặc điểm và giá trị của tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác chính trị
trong Quân đội nhân dân Việt Nam

72

Chƣơng 3: THỰC TRẠNG VÀ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆC VẬN
DỤNG TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CÔNG TÁC CHÍNH TRỊ
TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

83

3.1. Thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác chính trị trong
Quân đội nhân dân Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

83

3.2. Những vấn đề đặt ra đối với vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công
tác chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn hiện nay

107

Chƣơng 4: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP VẬN DỤNG TƢ
TƢỞNG HỒ CHÍ MINH NÂNG CAO CHẤT LƢỢNG CÔNG TÁC
CHÍNH TRỊ TRONG QUÂN ĐỘI NHÂN DÂN VIỆT NAM GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY

117

4.1. Phương hướng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác chính trị
trong Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn hiện nay


117

4.2. Một số giải pháp cơ bản vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh nâng cao chất
lượng công tác chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam giai đoạn hiện nay

127

KẾT LUẬN

156

DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

159

TÀI LIỆU THAM KHẢO

160

PHỤ LỤC

170


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CB, CS


:

Cán bộ, chiến sĩ

CNH, HĐH

:

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNXH

:

Chủ nghĩa xã hội

CTDV

:

Công tác dân vận

CTCT

:

Công tác chính trị

ĐCS


:

Đảng Cộng sản

HSQ

:

Hạ sĩ quan

LLVT

:

Lực lượng vũ trang

Nxb

:

Nhà xuất bản

QĐND

:

Quân đội nhân dân

QĐNDVN


:

Quân đội nhân dân Việt Nam

QNCN

:

Quân nhân chuyên nghiệp

XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Hồ Chí Minh là nhà chính trị, nhà quân sự lỗi lạc của cách mạng Việt Nam,
người sáng lập, giáo dục và rèn luyện QĐNDVN. Sinh thời, Người luôn quan tâm
xây dựng quân đội vững mạnh về mọi mặt, trong đó, đã đặc biệt chú trọng chỉ đạo
CTCT để thực hiện xây dựng quân đội về chính trị, làm cơ sở nâng cao sức mạnh
chiến đấu của quân đội.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về CTCT là một bộ phận quan trọng trong di sản
quân sự mà Người để lại cho Đảng và Quân đội. Tư tưởng đó mang tính khoa học
và cách mạng, tính thực tiễn và nhân văn sâu sắc. Thực tiễn xây dựng, chiến đấu và
trưởng thành của Quân đội hơn 70 năm qua đã chứng minh, CTCT theo tư tưởng
Hồ Chí Minh đã phát huy sức mạnh và hiệu quả to lớn trong việc củng cố và tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, góp phần giữ vững trận địa tư tưởng

của quân đội trước sự tấn công của kẻ thù trên mặt trận chính trị, tư tưởng, đảm bảo
cho quân đội thực sự của dân, do dân, vì dân.
Hiện nay, “tình hình thế giới, khu vực có nhiều diễn biến rất phức tạp; kinh
tế thế giới phục hồi chậm; khủng hoảng chính trị ở nhiều nơi, nhiều nước; cạnh
tranh về nhiều mặt ngày càng quyết liệt giữa các nước lớn tại khu vực; diễn biến
phức tạp trên Biển Đông,... đã tác động bất lợi đến nước ta” [17, tr.423-424]. Các
thế lực phản động tiếp tục đẩy mạnh thực hiện âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội
- một thủ đoạn trong chiến lược “diễn biến hòa bình”, nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo
của Đảng đối với quân đội, làm cho quân đội “tự diễn biến”, mất phương hướng,
mục tiêu, lý tưởng chiến đấu, xa rời bản chất giai cấp công nhân, dẫn đến giảm sút ý
chí chiến đấu. Trong nước, cùng với sự tác động mạnh mẽ của toàn cầu hóa trên tất
cả các mặt và mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, mặt trái cơ chế thị trường đang
hằng ngày, hằng giờ thẩm thấu và ảnh hưởng không tốt tới diễn biến tư tưởng và
hành động của mỗi quân nhân, làm nảy sinh những mâu thuẫn, tác động tiêu cực
đến sức mạnh của quân đội.
Trước những biến động đó, CTCT trong QĐNDVN hiện nay đã bộc lộ
những hạn chế, chưa có sự thích ứng kịp thời đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thực tiễn.
1


Ở một số đơn vị, hoạt động này chưa được coi trọng đúng mức, nội dung và hình
thức chưa đa dạng, phong phú, biện pháp tổ chức thực hiện còn mang tính hình
thức, thiếu linh hoạt, nhạy bén v.v… Một bộ phận quân nhân còn mơ hồ, ảo tưởng,
chưa nhận thức đúng về âm mưu, thủ đoạn chống phá của chủ nghĩa đế quốc và các
thế lực phản động, thậm chí có biểu hiện mất cảnh giác, giản đơn trong suy nghĩ và
hành động, dẫn tới vô tình cổ súy cho các luận điệu phản động của các thế lực thù
địch. Bản lĩnh chính trị của một bộ phận CB, CS chưa thật sự vững vàng, chưa thật
sự tin tưởng vào khả năng và sức mạnh của dân tộc, của quân đội. Đặc biệt, ở một
số đơn vị, do nhiều nguyên nhân khác nhau, đã xuất hiện sự rạn nứt trong quan hệ
với nhân dân khu vực đóng quân, làm ảnh hưởng không tốt tới mối quan hệ truyền

thống “quân và dân như cá với nước” v.v…
Thực trạng CTCT và những yêu cầu mới đang đặt ra đối với CTCT, đòi hỏi
phải nghiên cứu một cách hệ thống đầy đủ, toàn diện và vận dụng đúng tư tưởng Hồ
Chí Minh phù hợp với điều kiện hiện nay. Trong khi đó, đến nay, chưa có công
trình khoa học nào tiếp cận từ chuyên ngành Hồ Chí Minh đi sâu nghiên cứu về vấn
đề này. Vì vậy, việc nghiên cứu nội dung và vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về
CTCT trong QĐNDVN đặt ra vấn đề trên cả hai phương diện lý luận và khảo sát
thực tiễn, nhằm cung cấp cơ sở đánh giá thực trạng CTCT trong QĐNDVN hiện
nay, đồng thời, đưa ra những giải pháp góp phần nâng cao chất lượng CTCT trong
quân đội, làm cơ sở nâng cao sức mạnh tổng hợp của quân đội, thực hiện thắng lợi
mọi nhiệm vụ được giao phó.
Với những lý do nêu trên, tác giả chọn đề tài: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về
công tác chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam và vận dụng trong giai đoạn
hiện nay” làm luận án tiến sĩ ngành Chính trị học, chuyên ngành Hồ Chí Minh học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Khẳng định tính khoa học, cách mạng của tư tưởng Hồ Chí Minh về CTCT
trong QĐNDVN đối với sự nghiệp xây dựng quân đội cách mạng, góp phần cung
cấp những luận cứ khoa học, nhằm nâng cao nhận thức và giải quyết một số vấn đề
đặt ra về CTCT trong quân đội giai đoạn hiện nay.
2


2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Đánh giá, nhận định những vấn đề các công trình khoa học trước đó đã phân
tích, làm rõ và những vấn đề chưa được làm sáng tỏ về CTCT trong QĐNDVN; từ
đó, xác định những nội dung sẽ được kế thừa và tiếp tục làm rõ trong luận án.
- Đi sâu luận giải nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về CTCT trong
xây dựng QĐNDVN, làm rõ giá trị và đặc điểm của tư tưởng đó.
- Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh để phân tích thực trạng và xác định những

vấn đề đang đặt ra đối với CTCT trong QĐNDVN giai đoạn hiện nay.
- Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao chất lượng CTCT trong
QĐNDVN hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Hệ thống quan điểm của Hồ Chí Minh về CTCT trong QĐNDVN và thực
trạng vận dụng tư tưởng của Người về công tác này trong Quân đội hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về CTCT trong QĐNDVN với góc độ là
hoạt động lãnh đạo của ĐCS Việt Nam đối với QĐNDVN qua các bài nói, bài viết
và thực tiễn lãnh đạo quân đội của Chủ tịch Hồ Chí Minh gắn liền với quá trình ra
đời và trưởng thành của QĐNDVN.
- Nghiên cứu, khảo sát, đánh giá thực trạng CTCT trong QĐNDVN từ năm
2006 - 2015 (đây là thời gian chế độ chính ủy, chính trị viên đang được triển khai
thực hiện cụ thể trong thực tiễn xây dựng quân đội thời kỳ đổi mới).
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đường lối, quan điểm của
ĐCS Việt Nam, Nghị quyết của Quân ủy Trung ương, Chỉ thị của Bộ Quốc phòng
và Tổng cục Chính trị về CTCT trong QĐNDVN.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của triết
học Mác - Lênin, luận án sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phân tích, tổng
3


hợp, hệ thống, liên ngành, so sánh,… để làm sáng tỏ các vấn đề cần được nghiên
cứu trong phạm vi đề tài.
Thứ nhất, phương pháp tiếp cận hệ thống, trong đó chủ yếu là phương pháp
lôgíc - lịch sử, nhằm làm rõ nội dung cơ bản, đặc điểm, giá trị của tư tưởng Hồ Chí

Minh về CTCT trong QĐNDVN.
Thứ hai, phương pháp liên ngành khoa học xã hội nhân văn, trong đó sử
dụng các phương pháp cụ thể như: phân tích, so sánh, điều tra xã hội học, v.v.. để
đánh giá thực tiễn, tổng hợp các tư liệu, các số liệu thống kê của cơ quan chức năng,
làm cơ sở cho việc đánh giá thực trạng, đề xuất các giải pháp cơ bản vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh nhằm nâng cao chất lượng CTCT trong QĐNDVN hiện nay.
5. Đóng góp mới về mặt khoa học của luận án
- Làm rõ hệ thống quan điểm của Hồ Chí Minh về CTCT trong QĐNDVN;
làm rõ giá trị và đặc điểm của tư tưởng đó.
- Đánh giá đúng thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và vấn đề đặt ra đối với
CTCT trong QĐNDVN từ 2006 - 2015.
- Chỉ ra phương hướng và đề xuất giải pháp thiết thực, khả thi nhằm nâng cao
chất lượng CTCT trong QĐNDVN hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận án góp phần làm rõ nội dung, khẳng định tính khoa học và cách mạng
của tư tưởng Hồ Chí Minh về CTCT trong QĐNDVN.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo, nghiên
cứu khoa học, giảng dạy và học tập các chuyên đề về CTCT trong QĐNDVN ở các
nhà trường quân đội.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục các công trình nghiên cứu đã được
công bố của tác giả và danh mục tài liệu tham khảo, phần phụ lục; kết cấu của luận
án gồm 4 chương, 9 tiết.

4


Chƣơng 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN
1.1. Khái quát tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án
Trải qua quá trình xây dựng và trưởng thành, CTCT được xác lập, phát triển
và trở thành linh hồn, mạch sống của quân đội cách mạng. Đến nay, đã có nhiều
công trình khoa học ở những góc độ tiếp cận khác nhau đã nghiên cứu CTCT trong
QĐNDVN nói chung, cũng như tư tưởng Hồ Chí Minh về CTCT trong QĐNDVN
nói riêng ở những nội dung sau:
1.1.1. Khái quát tình hình nghiên cứu về công tác chính trị trong Quân đội
nhân dân Việt Nam
1.1.1.1. Khái quát một số công trình khoa học nghiên cứu về công tác chính
trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam
Cuốn sách Lịch sử công tác đảng, công tác chính trị trong Quân đội nhân
dân Việt Nam (1944 - 2000) (Nxb QĐND, năm 2003), do tập thể các nhà nghiên
cứu trong quân đội biên soạn dưới sự chỉ đạo nội dung của Thủ trưởng Tổng cục
Chính trị, mà trực tiếp là Thượng tướng Đặng Vũ Hiệp. Cuốn sách đã trình bày một
cách chi tiết lịch sử ra đời và phát triển của CTCT gắn liền với sự ra đời và trưởng
thành của quân đội qua các thời kỳ cách mạng. Trên cơ sở thực tiễn, các nhà nghiên
cứu đã rút ra những bài học kinh nghiệm thông qua thực hiện CTCT trong quân đội.
Trong đó, tại chương 1, đã khái quát quá trình hình thành CTCT trong các
đội vũ trang do Đảng tổ chức lãnh đạo (từ tháng 2-1930 - 8-1945) và vai trò của
công tác này đối với bản chất giai cấp, mục tiêu hoạt động của quân đội: “Đảng đã
xác định vai trò lãnh đạo tuyệt đối, từng bước hình thành và phát triển quan niệm,
quan điểm về công tác đảng, công tác chính trị,... Điều đó có tác dụng quyết định
đến bản chất giai cấp và mục tiêu phấn đấu của quân đội” [101, tr.105-108].
Tại chương 8, trên cơ sở tổng kết thực tiễn, đánh giá vai trò của CTCT đối
với quá trình xây dựng quân đội từ 1944 - 2000, các tác giả đã rút ra 5 bài học kinh
nghiệm: phải luôn luôn chăm lo giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực

5



tiếp, về mọi mặt của Đảng đối với quân đội; luôn luôn coi trọng xây dựng quân đội
về chính trị làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp và sức mạnh chiến đấu toàn
diện của quân đội; CTCT phải bám sát cuộc sống xã hội và hoạt động thực tiễn của
quân đội; huy động cả hệ thống chính trị và chủ động phối hợp với cơ quan chức
năng các cấp cả trong và ngoài quân đội để tiến hành CTCT; thường xuyên chăm lo
củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng hệ thống cơ quan chính trị và cán bộ chính
trị các cấp tương xứng với yêu cầu, nhiệm vụ của quân đội trong từng giai đoạn
cách mạng, làm nòng cốt trong hoạt động CTCT và xây dựng quân đội về chính trị.
Trong Báo cáo đề tài tổng kết xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam về
chính trị thời kỳ 1975 - 2006 do Nguyễn Văn Hữu (Chủ nhiệm, năm 2008); qua
thực tiễn khảo sát, các tác giả đã làm rõ: dù ở mỗi giai đoạn cách mạng, nhiệm vụ,
điều kiện có khác nhau, nhưng xây dựng về chính trị luôn là cơ sở để xây dựng sức
mạnh toàn diện của quân đội.
Trong đề tài, ở nội dung xây dựng quân đội về chính trị giai đoạn 1986 2006, được các tác giả xác định là: Tập trung xây dựng Đảng bộ Quân đội trong sạch
vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức; kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện đường lối đổi mới của Đảng; tiến hành công tác giáo
dục, tuyên truyền, vận động quần chúng hành động cách mạng gắn chặt với chăm lo
bảo đảm đời sống vật chất tinh thần của bộ đội; nâng cao chất lượng tổng hợp và kỷ
luật quân đội; nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng, ý thức sẵn sàng chiến đấu và chiến
đấu; kiên định đường lối quốc tế và chính sách đối ngoại của Đảng, làm tròn nhiệm vụ
quốc tế; kiện toàn tổ chức, chăm lo bồi dưỡng nâng cao trình độ và tác phong, hiệu lực
hoạt động của cơ quan chính trị và cán bộ chính trị [118, tr.38].
Trong cuốn sách Tiếp tục xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam vững mạnh
về chính trị đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ thời kỳ mới (Nxb QĐND, năm 2009), Đại
tướng Lê Văn Dũng đã phân tích làm rõ những yếu tố tác động tới xây dựng quân
đội trong giai đoạn hội nhập quốc tế, tổng kết thực tiễn và rút ra bài học, kinh
nghiệm nâng cao chất lượng CTCT, làm cơ sở tiếp tục đẩy mạnh xây dựng quân đội
về chính trị hiện nay. Cụ thể, tác giả trình bày một số bài học, kinh nghiệm nâng cao
chất lượng CTCT, góp phần quan trọng trực tiếp xây dựng quân đội vững mạnh về

6


chính trị, đó là: Một là, phải thường xuyên giáo dục, làm cho chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng thực sự giữa vai trò
thống trị trong đời sống tinh thần của quân đội, nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam
cho mọi hành động của CB, CS; Hai là, thường xuyên củng cố kiện toàn và không
ngừng nâng cao hiệu lực hoạt động của tổ chức bộ máy CTCT trong quân đội; Ba
là, xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng quân
đội trong mọi giai đoạn cách mạng; Bốn là, giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo
tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội [13, tr.42-53].
Tiếp tục khẳng định và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quân đội,
trong cuốn sách Cơ chế lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Quân đội
nhân dân Việt Nam (Nxb QĐND, năm 2010) do Nguyễn Văn Cần chủ biên, tập thể
tác giả đã tập trung làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về cơ chế lãnh đạo của
Đảng đối với QĐNDVN; sự hình thành, phát triển, hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của
Đảng đối với quân đội qua các thời kỳ; khái quát một số kinh nghiệm, xác lập, củng
cố, hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với QĐNDVN.
Nội dung ở phần 3 của cuốn sách đã phân tích, rút ra một số kinh nghiệm xác
lập, củng cố, hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội, các tác giả chỉ
rõ: Lịch sử chiến đấu, xây dựng và trưởng thành của quân đội đã khẳng định, chính
nhờ việc xây dựng, củng cố, hoàn thiện cơ chế lãnh đạo, ĐCS Việt Nam đã không
ngừng củng cố và tăng cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt đối với
quân đội. Từ thực tiễn việc xác lập, bổ sung hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng
đối với quân đội trong các thời kỳ cách mạng, các tác giả đã rút ra một số kinh
nghiệm: Đề cao tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo trong xác lập và hoàn thiện cơ
chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội; xây dựng và bổ sung hoàn thiện các quy
chế, quy định, bảo đảm cho cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội được thực
hiện và vận hành thông suốt, có hiệu lực trong thực tiễn; làm tốt việc tổng kết thực
tiễn thực hiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội; nhận thức và giải quyết
đúng đắn mối quan hệ giữa cơ chế lãnh đạo của Đảng và cơ chế quản lý của nhà

nước đối với quân đội [120, tr.153-219].

7


Nghiên cứu về quá trình ra đời và phát triển của Đảng bộ Quân đội, cuốn
sách Lịch sử Đảng bộ Quân đội, t.3 (Nxb QĐND, năm 2011), do Trung tướng
Nguyễn Tuấn Dũng làm trưởng ban đã phân tích, làm rõ những hoạt động xây dựng
và phát huy vai trò của Đảng bộ Quân đội trong giai đoạn từ năm 1975 đến năm
2010. Tại chương 13: Tập trung phản ánh lịch sử Đảng bộ QĐNDVN trong sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước, xây dựng QĐNDVN cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại (1996 - 2005). Theo các tác giả: để tiếp tục hoàn thiện và
tăng cường cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội trong thời kỳ mới, Đảng bộ
Quân đội đã tích cực, chủ động tham mưu, đề xuất Bộ Chính trị (khóa IX) ra Nghị
quyết 51-NQ/TW ngày 20 tháng 7 năm 2015 về việc “Tiếp tục hoàn thiện cơ chế
lãnh đạo của Đảng, thực hiện chế độ một người chỉ huy gắn với thực hiện chế độ
chính ủy, chính trị viên trong Quân đội nhân dân Việt Nam”, nhằm khôi phục lại
chế độ chính ủy, chính trị viên sau hơn 20 năm thực hiện chế độ phó chỉ huy về
chính trị [14, tr.8-9].
Trong chương 14, nội dung cuốn sách đã tập trung phản ánh lịch sử Đảng bộ
QĐNDVN trong những năm 2006 - 2010. Theo các tác giả, Đảng bộ Quân đội đã
lãnh đạo toàn quân quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội Đảng Toàn quốc lần thứ
X, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Quân đội lần thứ VIII về phương hướng xây dựng
QĐND cách mạng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại. Đảng ủy Quân sự
Trung ương đã kịp thời ra Nghị quyết 513/NQ-ĐUQSTW ngày 17 tháng 11 năm
2005 để lãnh đạo toàn quân thực hiện Nghị quyết 51-NQ/TW của Bộ Chính trị, góp
phần quan trọng củng cố, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tạo nên những chuyển
biến mới, chống lại có hiệu quả chiến lược “diễn biến hòa bình”, “phi chính trị hóa
quân đội” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch, không ngừng chăm lo xây
dựng quân đội vững mạnh về chính trị làm cơ sở nâng cao chất lượng tổng hợp của

LLVT [14, tr.9-10].
Trong bài tham luận “Vai trò vị trí công tác đảng, công tác chính trị trong
quân đội 70 năm qua (1944 - 2014)”, tại cuộc Hội thảo với chủ đề Tổng cục Chính
trị - 70 năm với sự nghiệp xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị (Nxb QĐND,
năm 2014), tác giả Lê Khả Phiêu đã khái quát quá trình ra đời và hoàn thiện cơ chế
8


lãnh đạo của Đảng đối với quân đội qua các thời kì. Trong đó, tác giả nhấn mạnh vị
trí, vai trò của cấp ủy, cơ quan chính trị đội ngũ cán bộ chính trị đối với sức mạnh
của các đơn vị trong toàn quân: “đảng ủy, người chính ủy và chính trị viên là trung
tâm đoàn kết, là trí tuệ và linh hồn, là sức mạnh của toàn đơn vị. Cơ quan chính trị
và đội ngũ cán bộ chính trị có một vị trí rất quan trọng trong việc tiến hành công tác
đảng, công tác chính trị…” [74, tr.20]. Từ thực tiễn xây dựng quân đội, tác giả
khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định sức mạnh của quân đội:
“Sức mạnh của quân đội ta là sức mạnh tổng hợp của đất nước, lịch sử đã khẳng
định, sự lãnh đạo của Đảng là yếu tố quyết định. Vì thế, ngày nay tăng cường sự
lãnh đạo sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội là một nguyên tắc có tầm quan
trọng đặc biệt” [74, tr.23].
1.1.1.2. Khái quát một số công trình khoa học nghiên cứu liên quan đến nội
dung tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam
Nguyễn Văn Trung, “Tìm hiểu sự hình thành tư tưởng về công tác chính trị
của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong thời kỳ đầu tìm đường cứu nước đến Hội nghị
Trung ương VIII (1941)”, Công tác đảng công tác chính trị dưới ánh sáng tư tưởng
Hồ Chí Minh (Nxb QĐND, năm 1995). Đề cập tới công tác và biên chế đảm bảo công
tác lãnh đạo của Đảng trong lực lượng du kích, tác giả chỉ rõ: “… tư tưởng nhất quán
của Người về cấu trúc tổ chức các đơn vị du kích là: bảo đảm Đảng thực hiện quyền
lãnh đạo chính trị và tác chiến; chỉ huy có hai người là đội trưởng và chính trị viên
(chính trị ủy viên)” [109, tr.38].
Trong mối quan hệ quân dân, tác giả phân tích và dẫn giải quá trình phát triển

nhận thức trong tư duy Hồ Chí Minh về vấn đề này. Cụ thể, trong tác phẩm Công tác
quân sự của Đảng trong nông dân, Người xác định: “Chìa khóa dẫn tới những thắng
lợi vững chắc của các toán du kích là sự liên hệ mật thiết với quần chúng nông
dân…” [109, tr.39]. Với hoạt động tuyên truyền, vận động quần chúng trong quá
trình tổ chức hoạt động quân sự của LLVT, “Người chỉ ra bao gồm 5 khâu là điều
tra, huấn luyện, tổ chức, tranh đấu và 5 khâu đó liên quan chặt chẽ với nhau trong
quá trình vận động quần chúng” [109, tr.39-40]. Đây là những bài học, kinh nghiệm

9


mà Hồ Chí Minh đã đúc rút trong thực tiễn hoạt động tuyên truyền, vận động nhân
dân để nâng cao chất lượng hoạt động vận động quần chúng của LLVT.
Đối với hoạt động huấn luyện, giáo dục chính trị, tác giả chỉ ra những hoạt
động nghiên cứu phát triển lý luận của Hồ Chí Minh: ngoài những bài giảng ở các
lớp huấn luyện, Người còn viết Cách dạy làm tướng của Khổng Minh, Kinh nghiệm
du kích Tàu, Kinh nghiệm du kích Nga, tóm tắt Binh pháp Tôn Tử, dịch Tỉnh ủy bí
mật của Phê-đô-rốp (Nga) v.v..; trong đó, đặc biệt là những bài huấn luyện trong
những lớp ngắn ngày vào năm 1940, được biên soạn lại và in thành tập Con đường
giải phóng [109, tr.40-41], làm cơ sở chỉ đạo thực tiễn nâng cao nhận thức cho các
chủ thể trong hoạt động quân sự. Nghiên cứu vấn đề này, tác giả đã tổng kết và
đánh giá: tư tưởng của Người “đến nay đối chiếu lại, ta thấy nó rất gần gũi với khoa
học giáo dục hiện đại như phương pháp gợi mở, phương pháp nêu vấn đề, phát huy
vai trò tự giáo dục…” [109, tr.41].
Qua dẫn giải, tác giả đi tới nhận định: “Tóm lại, những luận điểm, những tư
tưởng về công tác chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được Người nêu ra cách
đây hơn nửa thế kỷ, nhưng đến nay đọc lại chúng ta vẫn thấy nó đúng đắn, sáng sủa,
đầy sức sống, thể hiện sự phát triển nhất quán và sức mạnh của tư tưởng, tư duy Hồ
Chí Minh” [109, tr.42]. Đó là những cơ sở lý luận và thực tiễn quan trọng định
hướng, nâng cao CTCT ở những giai đoạn tiếp theo trong tiến trình lịch sử ra đời và

trưởng thành của quân đội.
Tại bài viết “Chủ tịch Hồ Chí Minh với vấn đề xây dựng lý luận tổ chức
quân sự tiến tới thành lập đội quân chính quy đầu tiên” được in trong cuốn sách Tư
tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng quân đội nhân dân (Nxb QĐND, năm 1996), tác
giả Lê Văn Thái đã phân tích làm rõ quan điểm của Người thông qua “các tác phẩm
“con đường giải phóng”, “cách đánh du kích”, “chính trị viên trong quân đội”,
“công tác chính trị trong quân đội cách mạng”, “chỉ thị thành lập Đội Việt Nam
tuyên truyền giải phóng quân” đã tập trung lý giải, làm sáng tỏ bản chất của lực
lượng vũ trang trong lý luận, để từ đó có sở sở xây dựng bản chất quân đội” [5,
tr.417]. Trên cơ sở đó, tác giả đánh giá và khẳng định những quan điểm của Người,
đóng vai trò nền tảng về lý luận, góp phần chỉ đạo thực tiễn xây dựng quân đội đảm
10


bảo đúng hướng: “Nhờ có lý luận soi đường, đường hướng sáng tạo, nguyên tắc xây
dựng đúng, nên tránh được vòng vèo, vấp váp trong thực tiễn. Trên nền tảng lý luận
đó, đội quân chủ lực ngay khi mới ra đời đã mang đầy đủ bản chất cách mạng, tinh
thần quyết chiến, quyết thắng nhanh chóng trưởng thành” [5, tr.419].
Trong thời kỳ đổi mới, tác giả khẳng định giá trị tư tưởng của Người tiếp tục
định hướng xây dựng quân đội chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, trong đó
lấy xây dựng về chính trị làm nền tảng phát huy sức mạnh tổng hợp của quân đội:
“Trên cơ sở nền tảng lý luận tổ chức quân sự Hồ Chí Minh, lực lượng vũ trang mà
nòng cốt là quân chủ lực ra đời... Các quan điểm trong hệ thống lý luận đó mãi sau
này vẫn giữ nguyên giá trị. Nó giúp cho đời sau phương pháp xem xét, và vận dụng
trong những điều kiện mới” [583, tr.422].
Nguyễn Vĩnh Thắng - Nguyễn Mạnh Hưởng, Tư tưởng Hồ Chí Minh về quân
đội nhân dân (Nxb QĐND, năm 2004). Cuốn sách đã luận giải những nội dung cơ
bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về QĐND, đồng thời làm rõ một số vấn đề xây
dựng QĐNDVN theo tư tưởng Hồ Chí Minh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong giai đoạn mới của cách mạng.

Đề cập tới nội dung, tầm quan trọng của CTCT trong Quân đội, các tác giả
đã chỉ rõ: “Muốn đảm bảo cho cái “gốc” chính trị được vững chắc, làm cơ sở cho
việc xây dựng các mặt khác thì nhất thiết phải quan tâm và thực hiện tốt công tác
chính trị trong quá trình xây dựng quân đội” [86, tr.50]. Từ đó, các tác giả đi tới
khẳng định: Theo Hồ Chí Minh, những nội dung: tăng cường giáo dục mục tiêu, lý
tưởng chiến đấu vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội; giáo dục đường
lối, nhiệm vụ cách mạng của Đảng cho quân đội; xác lập hệ tư tưởng Mác - Lênin,
làm cho hệ tư tưởng đó trở thành hệ tư tưởng chủ đạo trong đời sống tinh thần của
quân đội; thực hiện đường lối, nguyên tắc tổ chức của giai cấp công nhân trong tổ
chức xây dựng quân đội; tăng cường vai trò của các tổ chức đảng và đội ngũ cán bộ
chính trị trong quân đội… là những nội dung then chốt nhằm tăng cường sự lãnh
đạo của ĐCS đối với quân đội [86, tr.56].
Trần Ngọc Tuệ, “Công tác đảng, công tác chính trị trong Quân đội nhân dân
Việt Nam theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, Chủ tịch Hồ Chí Minh với sự nghiệp xây
11


dựng Quân đội nhân dân Việt Nam (Nxb QĐND, năm 2007). Tại bài tham luận, từ
góc độ tiếp cận của chuyên ngành xây dựng Đảng, tác giả đã khẳng định: “công tác
chính trị theo tư tưởng Hồ Chí Minh đã phát huy hiệu quả to lớn trong củng cố và
tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội” [113, tr.742], góp phần xây
dựng các tổ chức Đảng trong sạch vững mạnh, không ngừng nâng cao năng lực lãnh
đạo và sức chiến đấu; xây dựng tổ chức chỉ huy, xây dựng đơn vị, cơ quan và các tổ
chức quần chúng vững mạnh, xây dựng bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân
và tính dân tộc, bảo đảm cho quân đội luôn vững vàng về chính trị, hoàn thành xuất
sắc mọi nhiệm vụ.
Hiện nay, nhiệm vụ xây dựng QĐNDVN cách mạng, chính quy, tinh nhuệ,
từng bước hiện đại đặt ra những yêu cầu khách quan, cấp thiết đòi hỏi phải quán
triệt tư tưởng của Người nhằm tăng cường hiệu lực CTCT trong quân đội. Để thực
hiện vấn đề này, tác giả đã phân tích và đề xuất 6 nhóm giải pháp, đó là: Quán triệt

sâu sắc quan điểm xây dựng quân đội về chính trị, tiến hành công tác đảng, CTCT
là một nguyên tắc trong xây dựng LLVT cách mạng của Đảng; Đổi mới, nâng cao
chất lượng hiệu quả công tác tư tưởng trong quân đội; Xây dựng hệ thống tổ chức
Đảng trong quân đội trong sạch, vững mạnh có năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
cao; Xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức và lối
sống cách mạng, có năng lực trí tuệ và tổ chức thực tiễn; Đổi mới, nâng cao chất
lượng, hiệu quả công tác chính sách, thực hiện nghiêm túc chính sách của Đảng,
Nhà nước đối với quân đội và hậu phương quân đội; Xây dựng cơ quan chính trị và
đội ngũ cán bộ chính trị vững mạnh.
Những vấn đề trên là chỉnh thể thống nhất, cơ bản mà Chủ tịch Hồ Chí Minh
đặc biệt quan tâm trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo tiến hành CTCT trong quân đội.
Vì vậy, “Thực hiện tốt các nội dung cơ bản đó sẽ làm cho công tác đảng, công tác
chính trị không ngừng nâng cao hiệu lực, hiệu quả đối với việc giữ vững và tăng
cường sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội” [113,
tr.754], qua đó “xây dựng Đảng bộ Quân đội trong sạch vững mạnh; xây dựng quân
đội vững mạnh về chính trị, luôn kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã

12


hội; có trình độ sẵn sàng chiến đấu và sức chiến đấu ngày càng cao, hoàn thành mọi
nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao cho” [113, tr.754].
1.1.1.3. Khái quát một số công trình khoa học nghiên cứu liên quan đến vận
dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác chính trị trong Quân đội nhân dân Việt Nam
Nguyễn Tấn Phát, “Bản chất và truyền thống Quân đội nhân dân Việt Nam
bắt nguồn từ những tư tưởng cách mạng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh”, Chủ
tịch Hồ Chí Minh với công tác đảng - công tác chính trị trong Quân đội nhân dân
Việt Nam (Học viện Chính trị quân sự, năm 1986). Trong bài viết của mình, tác giả
đã khẳng định vị trí, vai trò tư tưởng của Người trong xây dựng quân đội cách
mạng: “Những tư tưởng cách mạng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trở thành

nền tảng cho việc xây dựng quân đội ta, một quân đội kiểu mới mang bản chất giai
cấp công nhân, gắn bó máu thịt với nhân dân, trung thành vô hạn với Tổ quốc, với
Đảng, với nhân dân, sẵn sàng chiến đấu hy sinh vì độc lập dân tộc, vì chủ nghĩa xã
hội” [29, tr.380-381]. Trong hoạt động thực tiễn, “Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trực
tiếp giáo dục, tổ chức và rèn luyện quân đội ta theo những tư tưởng cách mạng vĩ
đại đó” [29, tr.388]. Cụ thể, “Vấn đề mà Người đặc biệt quan tâm là xây dựng cái
“nền nhân dân” của quân đội ta. Người coi đó là cội nguồn tạo nên sức mạnh vô
địch của quân đội cách mạng.” [29, tr.388].
Bước vào thời kỳ đổi mới, trước những thời cơ và thách thức của xu thế hội
nhập quốc tế đã đặt ra những yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và chiến đấu của Quân đội
trong giai đoạn cách mạng mới. Qua nghiên cứu, phân tích sâu sắc những tác động
của tình hình thế giới và trong nước đối với quân đội, tác giả tiếp tục khẳng định giá
trị “những tư tưởng cách mạng vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn là những tư
tưởng chỉ đạo đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng Việt Nam nói chung và đối với
sự nghiệp xây dựng quân đội ta nói riêng” [29, tr.392].
Tiếp cận từ góc độ chuyên ngành xây dựng Đảng, trong cuốn sách Một số
vấn đề công tác đảng, công tác chính trị trong quân đội dưới ánh sáng tư tưởng Hồ
Chí Minh (Nxb QĐND, năm 1999) do Lê Hồng Quang (chủ biên), các tác giả đã đề
cập những vấn đề vận dụng quan điểm tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về

13


CTCT, làm sáng tỏ nhận thức về chức năng, nhiệm vụ, tìm tòi biện pháp giải quyết
có hiệu quả một số vấn đề cơ bản, cấp bách về CTCT trong giai đoạn hiện nay.
Trong phần thứ nhất, các tác giả đã nêu lên những yêu cầu cấp thiết từ thực
tiễn xây dựng quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại đòi hỏi
nâng cao hơn nữa chất lượng hiệu quả CTCT. Để thực hiện điều đó, trong quá trình
lịch sử Quân đội, Đảng đã có những suy nghĩ tìm tòi cải tiến cơ chế lãnh đạo của
Đảng, cơ chế tổ chức CTCT; theo đó, “tư tưởng cơ bản, xuyên suốt vẫn là tư tưởng

của Chủ tịch Hồ Chí Minh về tổ chức, xây dựng, rèn luyện người chính trị viên,
chuyên trách công tác xây dựng Đảng và công tác vận động quần chúng của Đảng
trong quân đội” [75, tr.48-49]. Nghiên cứu vấn đề này, các tác giả chỉ rõ: phải dựa
trên nền tảng những tư tưởng định hướng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, làm cơ sở chỉ
đạo nhận thức và hoạt động cụ thể, tiến hành “tổng kết kinh nghiệm, phát triển lý
luận khoa học công tác đảng, công tác chính trị phải thực sự trở thành nền nếp, thói
quen, tác phong của mọi cấp, nhất là của những tổ chức, con người chuyên trách về
công đảng, công tác chính trị” [75, tr.53].
Ở phần 3, trước những vấn đề cơ bản và cấp bách về công tác tư tưởng, công
tác tổ chức trong quân đội, tác giả kiến nghị giải pháp mang tính tổng quát: Tích cực
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên tất cả các ngành, các cấp trong quân đội về
CTCT; Tiếp tục hoàn thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với quân đội trong tình hình
hiện nay làm cơ sở nâng cao chất lượng hiệu quả CTCT trước mắt và cơ bản lâu dài.
Đề cập tới xây dựng quân đội về chính trị, trong cuốn sách Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và những
bài học thực tiễn xây dựng quân đội về chính trị trong giai đoạn mới (Nxb QĐND,
năm 2000), đã làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn, phân tích, đánh giá những yếu tố
tác động, yêu cầu và nội dung, đề xuất một số giải pháp cơ bản thực hiện xây dựng
QĐNDVN về chính trị trong tình hình mới.
Tại phần 3, trong các giải pháp cơ bản, tác giả đã xác định một trong những
giải pháp quan trọng là nâng cao hiệu lực CTCT, xây dựng cơ quan chính trị và đội
ngũ cán bộ chính trị các cấp đủ mạnh. Theo tác giả, công tác này có vị trí, vai trò
quan trọng “quyết định trực tiếp đến việc củng cố, tăng cường sự lãnh đạo của
14


Đảng, phát huy bản chất, truyền thống cách mạng của quân đội, sự vững mạnh về
chính trị và việc nâng cao sức mạnh chiến đấu toàn diện của các đơn vị và toàn
quân” [95, tr.180]. Do đó, phải tổ chức nghiên cứu, tiếp tục đổi mới phương thức
làm CTCT sao cho nhạy bén, kịp thời, “bám sát thực tiễn của đất nước, thực tiễn
xây dựng chủ nghĩa xã hội và đi sâu vào mọi mặt hoạt động của quân đội, phản ánh

đúng thực tiễn, nắm vững nhiệm vụ cơ bản, chức năng chủ yếu của quân đội là nâng
cao khả năng và sức mạnh chiến đấu toàn diện, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu
thắng lợi” [95, tr.185]. Tiến hành “xây dựng đội ngũ cán bộ chính trị và cơ quan
chính trị đáp ứng với yêu cầu mới” [95, tr.189], không chỉ về chất lượng mà còn
phải có số lượng hợp lý, đủ sức hoàn thành những nhiệm vụ đặt ra, đáp ứng những
yêu cầu của sự nghiệp xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị hiện nay.
Vận dụng tư tưởng của Hồ Chí Minh trong xây dựng quân đội về chính trị,
trong cuốn sách Xây dựng quân đội về chính trị trong tình hình mới theo tư tưởng
Hồ Chí Minh (Nxb QĐND, năm 2011), tác giả Nguyễn Mạnh Hưởng đã trình bày
những nội dung cơ bản trong tư tưởng xây dựng quân đội về chính trị của Chủ tịch
Hồ Chí Minh một cách có hệ thống. Trên cơ sở phân tích những nhân tố chủ yếu tác
động của tình hình mới, cuốn sách tập trung làm rõ những vấn đề cơ bản của việc
vận dụng tư tưởng xây dựng quân đội về chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng quân đội, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc
trong tình hình mới; đồng thời, phê phán một số quan điểm sai trái, thù địch xung
quanh vấn đề này.
Đề cập tới vận dụng tư tưởng của Người trong thời kỳ đổi mới, tác giả đã tập
trung làm rõ yêu cầu nâng cao chất lượng, hiệu quả CTCT để xây dựng quân đội
vững mạnh về chính trị. Trong đó, tác giả nhấn mạnh cần tập trung thực hiện tăng
cường bản chất giai cấp công nhân, nâng cao giác ngộ mục tiêu, lý tưởng chiến đấu
của quân đội; đẩy mạnh việc giáo dục chính trị tư tưởng; xây dựng đội ngũ cán bộ
quân đội nói chung, đội ngũ chính ủy, chính trị viên nói riêng vững mạnh; tăng
cường mối quan hệ mật thiết giữa quân đội với nhân dân; chủ động đấu tranh làm
thất bại âm mưu “phi chính trị hóa” quân đội của các thế lực thù địch; tăng cường
sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội, để quân đội
15


đủ sức mạnh hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ trong mọi tình huống, đáp ứng yêu
cầu xây dựng quân đội chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại.

Nguyễn Mạnh Hưởng, Tư tưởng Hồ Chí Minh về quân đội nhân dân và việc
vận dụng hiện nay, (Nxb Chính trị quốc gia, năm 2012). Cuốn sách đã trình bày những
nội dung cơ bản, những nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về QĐND, phân tích
những nhân tố chủ yếu tác động, những vấn đề cơ bản của việc vận dụng tư tưởng Hồ
Chí Minh về QĐND vào sự nghiệp xây dựng QĐND cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại, củng cố quốc phòng, bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Tại chương 1, khi đề cập tới nét đặc sắc trong tư tưởng Hồ Chí Minh về
QĐND, tác giả đã tập trung làm rõ luận điểm của Hồ Chí Minh về lập trường của
quân đội. Trên cơ sở phân tích, tác giả khẳng định: “Như vậy, theo tư tưởng Hồ Chí
Minh, bản chất giai cấp của Quân đội nhân dân Việt Nam là bản chất giai cấp công
nhân” [34, tr.22], đặc biệt “Quân đội ấy là quân đội của giai cấp công nhân, của nhân
dân và dân tộc Việt Nam, mang bản chất giai cấp công nhân Việt Nam” [34, tr.23].
Khẳng định luận điểm của Hồ Chí Minh trong xây dựng quân đội về chính
trị, đồng thời, phân tích, làm rõ vị trí, vai trò của CTCT là nhân tố quan trọng góp
phần nâng cao sức mạnh của QĐND nói chung, xây dựng QĐND về chính trị nói
riêng, tác giả chỉ rõ: “Theo Hồ Chí Minh, công tác chính trị không những đóng vai
trò trực tiếp quyết định sự vững mạnh về chính trị của quân đội, mà còn thể hiện
trong tất cả các nội dung, tất cả các mặt công tác quân sự, kỹ thuật, hậu cần, định
hướng chính trị và nâng cao hiệu quả tất cả các mặt công tác khác trong quân đội”
[34, tr.45]; do đó, “chất lượng chính trị của quân đội nói riêng, sức mạnh tổng hợp
của quân đội nói chung là kết quả tổng hợp của toàn bộ các mặt công tác, trong đó
công tác chính trị có vai trò đặc biệt quan trọng” [34, tr.45].
Tại chương 3, tác giả đã làm rõ một số vấn đề vận dụng tư tưởng Hồ Chí
Minh về QĐND trong tình hình mới; trong đó, cần chú trọng tăng cường tiềm lực
sức mạnh chính trị - tinh thần, thực hiện xây dựng quân đội về chính trị, tăng cường
sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với quân đội, “phải chăm
lo xây dựng Đảng bộ Quân đội, xây dựng hệ thống tổ chức đảng trong quân đội
trong sạch, vững mạnh, đủ sức lãnh đạo toàn quân; tăng cường rèn luyện đội ngũ
16



cán bộ, đảng viên trong quân đội thực sự là “hạt nhân”, là “nòng cốt” trong xây
dựng quân đội” [34, tr.281].
1.1.2. Khái quát tình hình nghiên cứu về công tác chính trị trong Quân đội
Liên Xô và Quân đội Trung Quốc
1.1.2.1. Khái quát một số công trình khoa học nghiên cứu về công tác chính
trị trong Quân đội Liên Xô
Nghiên cứu về quá trình xây dựng và thực hiện CTCT trong Quân đội Liên
Xô, cuốn sách Một số vấn đề về công tác chính trị trong Quân đội Xô-Viết (ký hiệu
số T12774, Thư viện Quân đội, năm 1969), đã khái quát những nguyên tắc chung
trong xây dựng, tổ chức sự lãnh đạo của Đảng đối với quân đội và những bài học
kinh nghiệm trong tiến hành CTCT, tổ chức thực hiện chế độ chính ủy và chế độ
một thủ trưởng trong LLVT Liên Xô.
Thông qua nghiên cứu các nghị quyết của Đảng và vai trò lãnh đạo của ĐCS
Liên Xô đối với Quân đội Liên Xô ở các thời kỳ, nội dung của cuốn sách đã khẳng
định: “Sự lãnh đạo của Đảng được coi là vấn đề chủ yếu quyết định việc thực hiện
nguyên tắc giai cấp trong quân đội. Sự lãnh đạo của Đảng là điều quyết định bản
chất của quân đội” [1, tr.12]. Vì vậy, để xây dựng quân đội mang bản chất giai cấp
công nhân, cuốn sách đã xác định: “Công tác chính trị là một chế độ, là một nguyên
tắc xây dựng quân đội kiểu mới. Công tác chính trị có một vị trí đặc biệt quan
trọng” [1, tr.30]. Do đó, “nói đến công tác chính trị là nói đến: sự thực hiện sự lãnh
đạo của Đảng trong lực lượng vũ trang” [1, tr.30].
Cuốn sách đề cập về chế độ chính ủy và chế độ một trưởng trong Quân đội
Liên Xô, “là sự rút kinh nghiệm công tác thời kỳ trước cách mạng” [1, tr.33]. Từ đó,
trong quá trình tiếp theo, “chế độ một thủ trưởng được coi là một nguyên tắc xây
dựng quân đội Xô - viết” [1, tr.39]. Cuốn sách đã luận giải vấn đề “Tập trung vào
một người không mâu thuẫn gì với chủ nghĩa tập thể” [1, tr.40], bởi trong hoạt động
quân sự, bên cạnh phát huy dân chủ của tập thể cần có tính quyết đoán của người
chỉ huy; đồng thời, “khi đòi hỏi phải phục tùng ý chí của một người là muốn nói đến


17


tập thể phải đi đôi với trách nhiệm cá nhân” [1, tr.42], nhằm ngăn chặn những biểu
hiện “viện cớ vào tập thể mà trốn tránh nhiệm vụ cá nhân” [1, tr.42].
Cuốn sách Một số vấn đề công tác đảng - công tác chính trị trong các lực
lượng vũ trang Liên Xô của Đại tướng A.A.Ê-pi-sép - Chủ nhiệm Tổng cục Chính
trị Quân đội và Hải quân Liên Xô (Nxb QĐND, năm 1978). Đây là công trình
nghiên cứu, tổng kết khá sâu sắc, toàn diện về lịch sử, quá trình hình thành và phát
triển của CTCT trong sự nghiệp xây dựng các LLVT Liên Xô từ năm 1918 - 1976.
Với cương vị là một nhà lãnh đạo chủ chốt về CTCT của Quân đội Liên Xô, tác giả
đã bàn sâu những vấn đề cơ bản như: Nên tăng cường sức mạnh của LLVT; tổ chức
và nội dung của cơ quan chính trị và các tổ chức đảng; vấn đề trọng điểm của
CTCT, công tác tư tưởng, rèn luyện tư tưởng và bồi dưỡng lý luận cho đội ngũ sỹ
quan nói chung và nhất là đội ngũ cán bộ chính trị trong Quân đội và Hải quân Liên
Xô nói riêng.
Bàn về vai trò lãnh đạo của ĐCS Liên Xô đối với các LLVT Liên Xô, tại
chương 1, tác giả đề cập: “việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với các LLVT
là một quy luật khách quan chi phối công cuộc xây dựng quân đội, đồng thời vai trò
và ảnh hưởng của các tổ chức Đảng trong quân đội và hải đội đã tăng lên. Điều đó
được chứng minh là đúng đắn” [22, tr.98]. ĐCS và Ban Chấp hành Trung ương
Đảng kiểm tra việc thực hiện một loạt biện pháp thực tiễn trong lĩnh vực quân sự
“từ việc xây dựng những nguyên tắc về lý luận và phương pháp luận quyết định
phương hướng xây dựng quân đội đến việc hoàn thành thực tế các nhiệm vụ cụ thể
có liên quan đến công tác huấn luyện và giáo dục cán bộ và chiến sĩ” [22, tr.99].
Ở chương 3, tác giả đề cập khá rõ đến vị trí, tầm quan trọng của CTCT đối
với các LLVT: “công tác đảng, công tác chính trị là một loại vũ khí bổ trợ mới,
đáng sợ đối với quân thù. Định nghĩa đúng đắn ấy ngày nay vẫn còn giá trị của nó.
Công tác đảng, công tác chính trị tích cực, có mục đích, thấm sâu vào tất cả mọi
mặt của đời sống và hoạt động của các lực lượng vũ trang” [22, tr.214-215]. Về vấn

đề quyết định nội dung của CTCT, tác giả chỉ rõ: “Nội dung của công tác đảng,
công tác chính trị được quyết định bởi nhiệm vụ cụ thể của quân đội và bởi sự cần

18


thiết phải thường xuyên tăng cường sức mạnh chiến đấu của các lực lượng vũ
trang” [22, tr.215].
Cùng nghiên cứu về vấn đề này, cuốn sách Công tác đảng - công tác chính
trị trong các lực lượng vũ trang Xô - viết, của tập thể nhiều tác giả biên soạn, do
Phó Tiến sĩ sử học, Phó Giáo sư, thiếu tướng P. I. Các-pen-cô làm chủ biên (Nxb
QĐND, năm 1981), đã đề cập về CTCT ở đơn vị cơ sở. Các tác giả đã tập trung
nghiên cứu về vai trò lãnh đạo của ĐCS, về cơ cấu tổ chức của cán bộ và cơ quan
chính trị, về các hoạt động cụ thể của CTCT trong các LLVT. Trên cơ sở đó, các tác
giả làm rõ kinh nghiệm cụ thể của CTCT, tổng kết một cách khoa học toàn bộ thực
tiễn của những cán bộ chỉ huy, chính trị, kỹ sư và kỹ thuật tiên tiến, sự phát triển
những phương pháp sáng tạo trong việc giải quyết những nhiệm vụ giáo dục cộng
sản chủ nghĩa và huấn luyện chiến đấu. Đây là cuốn sách tham khảo tốt đối với cơ
quan chính trị, cán bộ chỉ huy, cán bộ chính trị, chính ủy, chính trị viên và các
trường, lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Cuốn sách đề cập nhiều đến công tác đào
tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, nhất là đối với đội ngũ cán bộ chính trị, chính ủy,
chính trị viên: “Các cơ quan chính trị nghiên cứu, lựa chọn, giáo dục đội ngũ cán bộ
chính trị, chăm lo phát triển khả năng nghiệp cụ của họ, đặc biệt chú ý đến số lượng
rất lớn cán bộ chính trị ở đại đội và các phân đội tương đương” [7, tr.70].
Cuốn sách Một số kinh nghiệm công tác đảng, công tác chính trị trong các
đơn vị của Quân đội Xô viết trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, do Nguyễn Đức
Mạnh lược dịch, (tài liệu số 9128, Thư viện Quân đội, năm 1982). Đây là tập hợp một
số bài viết có giá trị ý nghĩa lý luận và thực tiễn của tập thể tác giả như: Đại tướng E.
Malisev, Thiếu tướng Kôlesnichenko, Trung tá Vozhzhov,… về đánh giá, nhận định
tình hình và rút ra bài học kinh nghiệm đối với CTCT trong Quân đội Xô viết trong

Chiến tranh Thế giới thứ hai. Cuốn sách đã tổng kết những quyết sách đúng đắn, sáng
suốt, kịp thời của cấp ủy, chỉ huy các cấp về CTCT góp phần tạo nên thắng lợi mang
tính điển hình trong các trận then chốt, khẳng định vai trò to lớn và đánh dấu sự
trưởng thành của hoạt động này trong quân đội.

19


Qua thực tiễn thắng lợi ở những trận đánh phòng ngự ở Smôlenscô, chiến
dịch phòng ngự bảo vệ Mátxcơva, giai đoạn phòng thủ Stalingrat, vòng cung
Cuốcxơ… bài học CTCT rút ra, đó là: “công tác tuyên truyền - đại chúng giữ vai trò
quan trọng” [52, tr.3], vì vậy, phải phát huy vai trò và phải đa dạng hóa “các hình
thức tuyên truyền giáo dục như mệnh lệnh của cấp trên, những lời kêu gọi, khẩu
hiệu, truyền đơn, bài giảng,…” [52, tr.4], kiện toàn và phát huy vai trò của tổ chức
Đảng “xây dựng lại cơ cấu tổ chức của Đảng trong quân đội của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng là hoàn toàn đúng đán và phù hợp với tình huống hiện tại” [52,
tr.6] … do đó, “đã nâng cao được tinh thần kiên cường phòng ngự của các chiến sĩ
và sĩ quan, nâng cao được tình cảm trách nhiệm của họ đối với tuyến phòng thủ mà
họ được đảm nhiệm” [52, tr.13]; Qua đó “Công tác đảng - chính trị đã trở thành chỗ
dựa tin cậy vững chắc cho các cấp chỉ huy trong chiến đấu” [52, tr.22] và khẳng
định vị trí, vai trò rất quan trọng không thể thiếu trong hoạt động của Hồng quân.
Đề cập tới lý luận mác xít trong lĩnh vực hoạt động quân sự, cuốn sách Học
thuyết Mác - Lênin về chiến tranh và quân đội do Đ.A. Vôn-cô-gô-nốp (Chủ biên),
(Nxb QĐND, năm 1987), nhân dịp kỷ niệm lần thứ 70 Cách mạng Tháng Mười thành
công, đã phân tích và làm rõ đối tượng, cấu trúc, nội dung của học thuyết Mác - Lênin
về chiến tranh và quân đội.
Ở phần 3: Những nhân tố của chiến tranh và của công cuộc xây dựng quân
sự; các tác giả đã làm rõ vai trò và phát huy nhân tố tinh thần trong chiến tranh.
Trong đó, tính năng động và hiệu quả của CTCT có vai trò to lớn tạo nên sức mạnh
tổng hợp của quân đội, “Nhờ có công tác đảng - chính trị, nên đã phát huy được

hiệu lực cao của nhân tố tinh thần… giúp con người tập trung được ý chí, suy nghĩ
và tình cảm của mình, chế ngự được những phản ứng tiêu cực bột phát, làm cho
người ta hăng hái chiến đấu và giữ vững tinh thần” [122, tr.290].
Khẳng định ĐCS - người tổ chức công cuộc bảo vệ Tổ quốc XHCN, các tác
giả đã phân tích, làm rõ “sự lãnh đạo của đảng Mác - Lênin đối với công cuộc xây
dựng quân sự là điều kiện hết sức quan trọng bảo đảm những yêu cầu của sự nghiệp
quốc phòng của nhà nước xã hội chủ nghĩa, bảo vệ vững chắc công cuộc lao động

20


×