Căn cứ xác định thu nhập chịu thuế TNDN và thuế TNCN hiện hành So sánh với căn cứ xác định
thu nhập chịu thuế của Luật thuế TNDN năm 2003 và Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có
thu nhập cao ?
a. khái niệm thu nhập chịu thuế:
Do thuế thu nhập có đối tượng đánh thuế là thu nhập phát sinh, vì thế một trong những nội dung quan trọng của
chính sách thu nhập thuế là phải các định được thu nhập chịu thuế. Trong nền kinh tế thị trường thu nhập của các tổ chức,
cá nhân cũng rất rộng và đa dạng. Do đó, thường thì các nhà nghiên cứu kinh tế và pháp luật chỉ liệt kê các khoản thu
được gọi là thu nhập của các tổ chức cá nhân. tùy thuộc vào tiêu chí phân loại:
- Nếu căn cứ vào hoạt động làm phát sinh thu nhập thì thu nhập gồm: thu nhập phát sinh từ hoạt động sản xuất,
kinh doanh; thu nhập từ lao động; thu nhập từ tài sản, tiền vốn; thu nhập từ thừa kế, tặng, cho; trợ cấp xã hội; trợ cấp cho
các đối tượng chính sách, ưu đãi xã hội và các khoản thu nhập khác…
- Nếu căn cứ vào một số tiêu chí khác thì thu nhập gồm:
+ Thu nhập thường xuyên và thu nhập không thường xuyên.
+ Thu nhập hợp pháp và thu nhập bất hợp pháp.
+ Thu nhập thực tế đã phát sinh và thu nhập tiềm năng.
+ Thu nhập nhà nước có thể kiểm soát và thu nhập mà nhà nước chưa thể kiểm soát được.
+ Thu nhập của tổ chức và thu nhập của cá nhân.
+ Thu nhập phát sinh trong nước và thu nhập phát sinh ở nước ngoài.
+…
Chính vì tính chất đa dạng và phức tạp của thu nhập mà dưới góc độ pháp lý, pháp luật xác định thu nhập chịu
thuế là những khoản thu nhập hợp pháp, đã thực tế phát sinh, có tính phổ biến và nằm trong giới hạn nhà nước có thể
kiểm soát được
b. Căn cứ xác định thu nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp
Theo quy định tại Điều 3 về thu nhập chịu thuế thì có thể xác định đối tượng chịu thuế thu
nhập doanh nghiệp là các khoản thu nhập hợp pháp của doanh nghiệp gồm 2 nhóm:
- Thu nhập từ hoạt động sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ của các tổ chức kinh
doanh.
- Thu nhập khác của các tổ chức kinh doanh: bao gồm thu nhập từ chuyển nhượng vốn, chuyển
nhượng bất động sản; thu nhập từ quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản; thu nhập từ chuyển nhượng, cho thuê, thanh lý tài
sản; thu nhập từ lãi tiền gửi, cho vay vốn, bán ngoại tệ; hoàn nhập các khoản dự phòng; thu khoản nợ khó đòi đã xoá nay
đòi được; thu khoản nợ phải trả không xác định được chủ; khoản thu nhập từ kinh doanh của những năm trước bị bỏ sót và
các khoản thu nhập khác, kể cả thu nhập nhận được từ hoạt động sản xuất, kinh doanh ở ngoài Việt Nam.
Đối chiếu với quy định về người nộp thuế, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp năm 2008 xác định thu nhập chịu
thuế dựa trên cả 2 mối quan hệ: mối quan hệ quốc tịch (nhà nước và công dân) và mối quan hệ lãnh thổ (nhà nước và chủ
quyền lãnh thổ quốc gia). Xem thêm khoản 2 điều 3 Luật thuế thu nhập doanh nghệp.
c. Căn cứ xác định thu nhập chịu thuế theo quy định của luật thuế TNCN
Với quan điểm mới yêu cầu cần tạo ra sự bình đẳng giữa các cá nhân trong việc nộp thuế
thu nhập cá nhân, phù hợp với thông lệ quốc tế. Luật thuế thu nhập cá nhân không còn xác định
thu nhập dựa vào nguồn gốc thu nhập nữa mà xác định: thu nhập chịu thuế là tất cả các khoản
thu nhập hợp pháp của cá nhân (Điều 3 Luật TNCN). Với cách quy định như vậy đồng nghĩa với
việc xác định đối tượng chịu thuế thu nhập cá nhân là tất cả các khoản thu nhập tính từ đồng thu
nhập đầu tiên.
1.Thu nhập từ kinh doanh.
2. Thu nhập từ tiền lương, tiền công,
3.Thu nhập từ đầu tư vốn,
4.Thu nhập từ chuyển nhượng vốn,
5.Thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản,
6.Thu nhập từ trúng thưởng,
7.Thu nhập từ bản quyền,
8.Thu nhập từ nhượng quyền thương mại:
9.Thu nhập từ nhận thừa kế
10.Thu nhập từ nhận quà tặng
1.2 So sánh- t ko biết làm, t chỉ tìm được điểm mới thôi
1.3 Điểm mới về thu nhập chịu thuế theo Luật TNDN 2008
Luật TNDN 2003 quy định thu nhập chịu thuế là phù hợp với thực tiễn tại thời điểm ban hành
nhưng trước diễn biến thực tế của đời sống xã hội thì một số quy định không còn phù hợp, cần
phải sửa đổi như sau:
- Về thu nhập chịu thuế từ thu nhập chuyển quyền sử dụng đất chuyển quyền thuê đất: Luật
TNDN 2003 quy định thu nhập chịu thuế từ thu nhập chuyển quyền sử dụng đất ngoài việc nộp
thuế theo thuế suất 25% còn phải nộp thuế theo biểu thuế lũy tiến từng phần từ 0% đến 25%
theo tỷ suất thu nhập còn lại trên chi phí. Là do: trước đây, các doanh nghiệp được giao đất để
kinh doanh nhà, cơ sở hạ tầng theo giá thấp nhưng giá bán nhà, cơ sở hạ tầng cùng với việc
chuyển quyền sử dụng đất theo giá thị trường nên có lợi nhuận siêu ngạch , việc nộp thuế như
vậy là hợp lý. Nhưng từ năm 2005, khi Luật đất đai năm 2003 có hiệu lực, các trường hợp được
giao đất để kinh doanh bất động sản phải thực hiện đấu giá quyền sử dụng đất hoặc đấu thầu dự
án, nộp tiền sử dụng đất cho Nhà nước theo giá đất sát giá thị trường, đồng thời nghiêm cấm việc
phân lô, bán nền, chuyển nhượng đất thô để xây nhà ở nên doanh nghiệp không còn lợi nhuận
siêu ngạch từ chuyển quyền sử dụng đất. Mặt khác, hoạt động kinh doanh bất động sản bao gồm
cả việc bán nhà, tài sản gắn với việc chuyển quyền sử dụng đất nên khó có thể xác định riêng thu
nhập từ chuyển quyền sử dụng đất với thu nhập từ bán tài sản trên đất. Vì vậy, để phù hợp với
thực tế, Luật TNDN 2008 bỏ quy định thu bổ sung đối với chuyển quyền sử dụng đất mà áp dụng
chính sách thuế TNDN đối với thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản (bao gồm cả chuyển
nhượng đất và tài sản trên đất). Tuy nhiên , doanh nghiệp phải kê khai riêng thu nhập từ chuyển
nhượng bất động sản để nộp thuế theo thuế suất chung (25%); nhưng nếu doanh nghiệp được
hưởng ưu đãi đầu tư thì khoản thu nhập này không được ưu đãi thuế và nếu có lỗ thì chỉ được bù
trừ với lãi từ hoạt động này trong 5 năm tiếp theo mà không được bù trừ với lãi từ các hoạt động
kinh doanh khác.