Tải bản đầy đủ (.pdf) (184 trang)

GIÁO TRÌNH GIÁO DỤC HỌC NGHỀ NGHIỆP TỔ CHỨC QUẢN LÝ QUÁ TRÌNH ĐÀO TẠO

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.94 MB, 184 trang )

TRUNG TÂM NGHIỆP VỤ SƢ PHẠM QUỐC GIA: 0985 86 86 55 – 043 22 52 677

GIÁO TRÌNH
GIÁO DỤC HỌC NGHỀ NGHIỆP
- TỔ CHỨC & QUẢN LÝ QUÁ TRÌNH
ĐÀO TẠO

ĐC: P301 nhà A - Số 290 – Tây Sơn - Đống Đa – Hà Nội

Page 1


TRUNG TÂM NGHIỆP VỤ SƢ PHẠM QUỐC GIA: 0985 86 86 55 – 043 22 52 677
PHẦN THỨ NHẤT
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG CỦA GIÁO DỤC HỌC
CHƢƠNG 1
GIÁO DỤC HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC VỀ GIÁO DỤC CON NGƢỜI
I. GIÁO DỤC LÀ MỘT HIỆN TƢỢNG ĐẶC TRƢNG CỦA XÃ HỘI
1. Bản chất của giáo dục với tƣ cách là một hiện tƣợng đặc trƣng của xã hội
Để tồn tại và phát triển, loài ngƣời không ngừng tác động vào thế giới khách quan, nhận thức
thế giới khách quan để tích luỹ vốn kinh nghiệm. Những kinh nghiệm mà loài ngƣời tích luỹ
đƣợc trong quá trình phát triển của lịch sử đƣợc lƣu giữ ở nền văn hoá nhân loại, đƣợc tiếp nối
qua các thế hệ. Điều kiện cơ bản để xã hội loài ngƣời tồn tại và phát triển là đảm bảo đƣợc cơ chế
di truyền và cơ chế di sản – chính giáo dục đảm bảo đƣợc cơ chế thứ hai. Nhƣ vậy giáo dục đƣợc
hiểu nhƣ là quá trình thống nhất của sự hình thành tinh thần và thể chất của mỗi cá nhân trong xã
hội. Với cách hiểu này, giáo dục đóng vai trò nhƣ một mặt không thể tách rời của cuộc sống con
ngƣời, của xã hội, nó là một hiện tƣợng của xã hội.
2. Tính chất của giáo dục
Giáo dục đƣợc thể hiện ở một số tính chất, nó là một hiện tƣợng phổ biến và vĩnh hằng, tức
là giáo dục chỉ có ở xã hội loài ngƣời, nó là một phần không thể tách rời của đời sống xã hội, giáo
dục có ở mọi thời đại, mọi thiết chế xã hội khác nhau, nói một cách khác, giáo dục xuất hiện cùng


với sự xuất hiện của xã hội và nó mất đi khi xã hội không tồn tại, là điều kiện không thể thiếu
đƣợc cho sự tồn tại và phát triển của mỗi cá nhân và xã hội loài ngƣời. Nhƣ vậy, giáo dục tồn tại
cùng với sự tồn tại của xã hội loài ngƣời, là con đƣờng đặc trƣng cơ bản để loài ngƣời tồn tại và
phát triển.
Giáo dục là một hoạt động gắn liền với tiến trình đi lên của xã hội, ở mỗi giai đoạn phát triển
của lịch sử đều có nền giáo dục tƣơng ứng, khi xã hội chuyển từ hình thái kinh tế – xã hội này
sang hình thái kinh tế – xã hội khác thì toàn bộ hệ thống giáo dục tƣơng ứng cũng biến đổi theo.
Giáo dục chịu sự quy định của xã hội, nó phản ánh trình độ phát triển kinh tế – xã hội và đáp ứng
các yêu cầu kinh tế – xã hội trong những điều kiện cụ thể. Giáo dục luôn biến đổi trong quá trình
phát triển của lịch sử loài ngƣời, không có một nền giáo dục rập khuôn cho mọi hình thái kinh tế
– xã hội, cho mọi giai đoạn của mỗi hình thái kinh tế – xã hội cũng nhƣ cho mọi quốc gia, chính
vì vậy giáo dục mang tính lịch sử. Ở mỗi thời kì lịch sử khác nhau thì giáo dục khác nhau về
mục đích, nội dung, phƣơng pháp, hình thức tổ chức giáo dục. Các chính sách giáo dục luôn đƣợc
hoàn thiện dƣới ảnh hƣởng của những kinh nghiệm và các kết quả nghiên cứu.
Giáo dục mang tính giai cấp, đó là sự khẳng định của rất nhiều nhà giáo dục hiện nay, tính chất
giai cấp của giáo dục thể hiện trong các chính sách giáo dục chính thống đƣợc xây dựng trên cơ sở
tƣ tƣởng của nhà nƣớc cầm quyền, nó khẳng định giáo dục không đứng ngoài chính sách và quan
điểm của nhà nƣớc, điều đó đƣợc toàn xã hội chấp nhận. Giáo dục đƣợc sử dụng nhƣ một công cụ
của giai cấp cầm quyền nhằm duy trì lợi ích của giai cấp mình, những lợi ích này có thể phù hợp
thiểu số ngƣời trong xã hội hoặc với đa số các tầng lớp trong xã hội hoặc với lợi ích chung của toàn
xã hội. Chính vì vậy mà trong xã hội có giai cấp đối kháng, giáo dục là đặc quyền đặc lợi của giai
cấp thống trị. Trong xã hội không có giai cấp đối kháng, giáo dục hƣớng tới sự công bằng. Tính
giai cấp quy định mục đích giáo dục, nội dung giáo dục, phƣơng pháp và hình thức tổ chức giáo
dục .v.v.
II. GIÁO DỤC HỌC LÀ MỘT KHOA HỌC
1. Đối tƣợng và nhiệm vụ của Giáo dục học
a. Đối tượng của Giáo dục học
Giáo dục học đƣợc coi là khoa học nghiên cứu bản chất, quy luật, các khuynh hƣớng và
tƣơng lai phát triển của quá trình giáo dục, với các nhân tố và phƣơng tiện phát triển con ngƣời
ĐC: P301 nhà A - Số 290 – Tây Sơn - Đống Đa – Hà Nội


Page 2


TRUNG TÂM NGHIỆP VỤ SƢ PHẠM QUỐC GIA: 0985 86 86 55 – 043 22 52 677
nhƣ một nhân cách trong suốt toàn bộ cuộc sống. Trên cơ sở đó, Giáo dục học nghiên cứu lí luận
và cách tổ chức quá trình đó, các phƣơng pháp, hình thức hoàn thiện hoạt động của nhà giáo dục,
các hình thức hoạt động của ngƣời đƣợc giáo dục, đồng thời nghiên cứu sự phối hợp hành động
của nhà giáo dục với ngƣời đƣợc giáo dục.
Đối tƣợng của Giáo dục học là quá trình giáo dục toàn vẹn, hiện thực có mục đích, đƣợc tổ chức
trong một xã hội nhất định. Quá trình giáo dục nhƣ vậy đƣợc hiểu theo nghĩa rộng là quá trình hình
thành nhân cách, đƣợc tổ chức một cách có mục đích, có kế hoạch, căn cứ vào những mục đích,
những điều kiện do xã hội quy định, đƣợc thực hiện thông qua sự phối hợp hành động giữa nhà giáo
dục và ngƣời đƣợc giáo dục nhằm giúp cho ngƣời đƣợc giáo dục chiếm lĩnh những kinh nghiệm xã
hội của loài ngƣời.
Quá trình giáo dục là một loại quá trình xã hội mang đặc trƣng của quá trình xã hội, tức là nó có
tính định hƣớng, diễn ra trong thời gian nhất định, biểu hiện thông qua hoạt động của con ngƣời, vận
động do tác động của các nhân tố bên trong, bên ngoài và tuân theo những quy luật khách quan. Bất
cứ một quá trình nào cũng đều có sự thay đổi liên tục từ trạng thái này sang trạng thái khác, giáo dục
đƣợc xem xét nhƣ một quá trình thì sự thay đổi đó là kết quả của sự phối hợp hành động giáo dục của
nhà giáo dục và ngƣời đƣợc giáo dục.
Quá trình giáo dục bao gồm sự thống nhất của hai quá trình bộ phận là quá trình dạy học và
quá trình giáo dục (theo nghĩa hẹp), các quá trình này đều thực hiện các chức năng chung của
giáo dục trong việc hình thành nhân cách toàn diện. Song, mỗi quá trình đều có chức năng trội
của mình và dựa vào chức năng trội đó để thực hiện các chức năng khác.
Quá trình giáo dục là sự vận động từ mục đích của giáo dục đến các kết quả của nó, tính toàn
vẹn nhƣ là sự thống nhất nội tại của các thành tố trong quá trình giáo dục.
Quá trình giáo dục đƣợc xem nhƣ là một hệ thống bao gồm các thành tố cấu trúc nhƣ: mục
đích giáo dục, nội dung giáo dục, phƣơng pháp, phƣơng tiện giáo dục, hình thức tổ chức giáo
dục, ngƣời giáo dục, ngƣời đƣợc giáo dục, kết quả giáo dục.

Quá trình giáo dục luôn có sự phối hợp hành động giữa ngƣời giáo dục và ngƣời đƣợc giáo
dục, sự phối hợp này trên bình diện cá nhân và tập thể giúp cho ngƣời đƣợc giáo dục chiếm lĩnh
giá trị văn hoá của nhân loại, hình thành nhân cách.
b. Nhiệm vụ của Giáo dục học
Bất cứ một khoa học nào cũng bao gồm một hệ thống các nhiệm vụ cần giải quyết, Giáo dục học
là một khoa học cần thực hiện các nhiệm vụ cơ bản sau:
– Giải thích nguồn gốc phát sinh, phát triển và bản chất của hiện tƣợng giáo dục, phân biệt các
mối quan hệ có tính quy luật và tính ngẫu nhiên. Tìm ra các quy luật chi phối quá trình giáo dục để
tổ chức chúng đạt hiệu quả tối ƣu.
– Giáo dục học nghiên cứu dự báo tƣơng lai gần và tƣơng lai xa của giáo dục, nghiên cứu xu thế
phát triển và mục tiêu chiến lƣợc của giáo dục trong mỗi giai đoạn phát triển của xã hội để xây dựng
chƣơng trình giáo dục và đào tạo.
– Nghiên cứu xây dựng các lí thuyết giáo dục mới, hoàn thiện các mô hình giáo dục, dạy
học, phân tích kinh nghiệm giáo dục, tìm ra con đƣờng ngắn nhất và các phƣơng tiện để áp dụng
chúng vào thực tiễn giáo dục.
– Trên cơ sở các thành tựu của khoa học và công nghệ, Giáo dục học còn nghiên cứu tìm tòi
các phƣơng pháp và phƣơng tiện giáo dục mới nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục.
Ngoài ra còn có nhiều các nhiệm vụ khác ở phạm vi và khía cạnh cụ thể (kích thích tính tích
cực học tập của học sinh, nguyên nhân của việc kém nhận thức, các yếu tố lựa chọn nghề nghiệp
của học sinh, tiêu chuẩn giáo viên .v.v)
2. Một số khái niệm cơ bản của Giáo dục học
Bất cứ một lĩnh vực khoa học nào cũng bao gồm một hệ thống khái niệm, có khái niệm cốt
lõi, các khái niệm còn lại thể hiện sự phân hoá của khái niệm cốt lõi.
ĐC: P301 nhà A - Số 290 – Tây Sơn - Đống Đa – Hà Nội

Page 3


TRUNG TÂM NGHIỆP VỤ SƢ PHẠM QUỐC GIA: 0985 86 86 55 – 043 22 52 677
Giáo dục (theo nghĩa rộng) là quá trình tác động có mục đích, có tổ chức, có kế hoạch, có

nội dung và bằng phƣơng pháp khoa học của nhà giáo dục tới ngƣời đƣợc giáo dục trong các cơ
quan giáo dục, nhằm hình thành nhân cách cho họ.
Giáo dục (theo nghĩa hẹp) là quá trình hình thành cho ngƣời đƣợc giáo dục lí tƣởng, động
cơ, tình cảm, niềm tin, những nét tính cách của nhân cách, những hành vi, thói quen cƣ xử đúng
đắn trong xã hội thông qua việc tổ chức cho họ các hoạt động và giao lƣu.
Dạy học là quá trình tác động qua lại giữa ngƣời dạy và ngƣời học nhằm giúp cho ngƣời học
lĩnh hội những tri thức khoa học, kĩ năng hoạt động nhận thức và thực tiễn, phát triển các năng
lực hoạt động sáng tạo, trên cơ sở đó hình thành thế giới quan và các phẩm chất nhân cách của
ngƣời học theo mục đích giáo dục.
Với sự phát triển của giáo dục hiện nay đã xuất hiện thêm nhiều khái niệm nhƣ:
Có rất nhiều khái niệm trong hệ thống các khái niệm về giáo dục học sẽ đƣợc trình bày trong
giáo trình này. Tuy nhiên với sự phát triển của thời đại ngày nay, cùng với sự đổi mới và phát
triển tri thức ở nhiều lĩnh vực thì đó cũng là một quá trình hình thành các thuật ngữ khoa học. Do
vậy, không nên cho rằng các thuật ngữ đã có là hoàn thiện và chính xác tuyệt đối, việc nghiên
cứu và hoàn thiện các thuật ngữ cũng là nhiệm vụ cấp bách của Giáo dục học.
4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Giáo dục học
a. Phương pháp luận nghiên cứu Giáo dục học
Trong nghiên cứu khoa học nói chung, có hai vấn đề cơ bản là phƣơng pháp luận và phƣơng
pháp nghiên cứu (cụ thể). Khoa học chỉ phát triển trong trƣờng hợp nó luôn đƣợc bổ sung những
tri thức mới.
Phƣơng pháp luận đƣợc hiểu là lí thuyết về các nguyên tắc để tiến hành các phƣơng pháp,
các hình thức của hoạt động nhận thức khoa học, là hệ thống các quan điểm, các nguyên tắc chỉ
đạo hoạt động của chủ thể. Các quan điểm phƣơng pháp luận mang màu sắc triết học. Phƣơng
pháp luận trong Giáo dục học đƣợc xem xét nhƣ là sự tổng hợp các luận điểm về nhận thức giáo
dục và cải tạo, biến đổi thực tiễn giáo dục
Những quan điểm phƣơng pháp luận là kim chỉ nam hƣớng dẫn các nhà khoa học tìm tòi,
nghiên cứu khoa học, có thể đề cập một số quan điểm phƣơng phƣơng pháp luận nghiên cứu giáo
dục học nhƣ:
– Quan điểm duy vật biện chứng: Khi nghiên cứu, các nhà khoa học phải xem xét sự vật, hiện
tƣợng, quá trình giáo dục trong các mối quan hệ phức tạp của chúng, đồng thời khi nghiên cứu phải

xem xét đối tƣợng trong sự vận động và phát triển.
– Quan điểm lịch sử – lôgic: Yêu cầu khi nghiên cứu phải phát hiện nguồn gốc nảy sinh, quá
trình diễn biến của đối tƣợng nghiên cứu trong không gian, thời gian với những điều kiện và hoàn
cảnh cụ thể.
– Quan điểm thực tiễn: Yêu cầu khi nghiên cứu giáo dục cần phải xuất phát từ thực tiễn, phải
khái quát để tìm ra quy luật phát triển của chúng từ thực tiễn, kết quả nghiên cứu đƣợc kiểm
nghiệm trong thực tiễn và phải đƣợc ứng dụng trong thực tiễn
– Quan điểm hệ thống: Khi nghiên cứu đối tƣợng phải phân tích chúng thành những bộ phận
để xem xét một cách sâu sắc và toàn diện, phải phân tích mối quan hệ giữa các sự vật, hiện
tƣợng, các quá trình cũng nhƣ mối quan hệ giữa các bộ phận trong từng sự vật, hiện tƣợng và quá
trình đó.
b. Các phương pháp nghiên cứu Giáo dục học
Phƣơng pháp nghiên cứu giáo dục học là cách thức, là con đƣờng mà nhà khoa học sử dụng
để khám phá bản chất, quy luật của quá trình giáo dục, nhằm vận dụng chúng vào thực tiễn giáo
dục. Các phƣơng pháp đƣợc sử dụng trong nghiên cứu Giáo dục học bao gồm:
. Các phương pháp nghiên cứu lí thuyết
Các phƣơng pháp nghiên cứu lí thuyết bao gồm:
ĐC: P301 nhà A - Số 290 – Tây Sơn - Đống Đa – Hà Nội

Page 4


TRUNG TÂM NGHIỆP VỤ SƢ PHẠM QUỐC GIA: 0985 86 86 55 – 043 22 52 677
Phương pháp phân tích và tổng hợp lí thuyết
Phân tích lí thuyết: Là thao tác phân chia tài liệu lí thuyết thành các đơn vị kiến thức, cho
phép ta có thể tìm hiểu những dấu hiệu đặc thù, cấu trúc bên trong của lí thuyết.
Tổng hợp lí thuyết: Là sự liên kết các yếu tố, các thành phần để tạo thành một tổng thể.
Trong phân tích cũng cần có sự liên kết các yếu tố nhƣng nó có tính bộ phận hơn là tính toàn thể,
còn trong phạm trù tổng hợp, sự chế biến những yếu tố đã cho thành một tổng thể có nhấn mạnh
hơn đến tính thống nhất và tính sáng tạo.

Phân tích và tổng hợp cho phép xây dựng đƣợc cấu trúc của các vấn đề cần nghiên cứu
Phương pháp mô hình hoá
Là phƣơng pháp nghiên cứu các hiện tƣợng và quá trình giáo dục dựa vào mô hình của
chúng. Mô hình đối tƣợng là hệ thống các yếu tố vật chất và tinh thần. Mô hình tƣơng tự nhƣ đối
tƣợng nghiên cứu và tái hiện những mối liên hệ cơ cấu, chức năng, nhân, quả của đối tƣợng.
Nghiên cứu trên mô hình sẽ giúp cho các nhà khoa học khám phá ra bản chất, quy luật của đối
tƣợng.
. Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Phương pháp quan sát
Quan sát trong nghiên cứu giáo dục là phƣơng pháp thu thập thông tin về sự vật, hiện tƣợng,
quá trình giáo dục trên cơ sở tri giác trực tiếp các hoạt động giáo dục và các điều kiện khách quan
của hoạt động đó. Quan sát trực tiếp đối tƣợng giáo dục nhằm phát hiện ra những biến đổi của
chúng trong những điều kiện cụ thể, từ đó phân tích nguyên nhân và rút ra những kết luận về quy
luật vận động của đối tƣợng. Mục đích quan sát là để phát hiện, thu thập các thông tin về vấn đề
nghiên cứu, phát hiện bản chất vấn đề và xác định giả thuyết nghiên cứu.
Phương pháp trưng cầu ý kiến bằng phiếu hỏi (bảng câu hỏi)
Điều tra bằng bảng câu hỏi là phƣơng pháp đƣợc sử dụng phổ biến trong nghiên cứu khoa
học xã hội nói chung và trong nghiên cứu giáo dục học nói riêng. Thực chất của phƣơng pháp
này là sử dụng bảng câu hỏi đã đƣợc soạn sẵn với một hệ thống câu hỏi đặt ra cho đối tƣợng
nghiên cứu, nhằm thu thập những thông tin phục vụ cho vấn đề nghiên cứu, nó đƣợc sử dụng để
nghiên cứu đối tƣợng trên diện rộng. Vấn đề quan trọng khi sử dụng phƣơng pháp này là xây
dựng có chất lƣợng bảng câu hỏi điều tra. Bảng câu hỏi là một hệ thống các câu hỏi đƣợc xếp đặt
trên cơ sở các nguyên tắc và nội dung nhất định, nhằm tạo điều kiện cho ngƣời đƣợc hỏi thể hiện
quan điểm của mình về vấn đề nghiên cứu, qua đó, nhà nghiên cứu thu nhận đƣợc thông tin đáp
ứng yêu cầu của đề tài và mục tiêu nghiên cứu.
Phương pháp phỏng vấn
Trong nghiên cứu giáo dục học, phƣơng pháp phỏng vấn đƣợc tiến hành thông qua tác động
trực tiếp giữa ngƣời hỏi và ngƣời đƣợc hỏi nhằm thu thập thông tin phù hợp với mục tiêu và
nhiệm vụ của đề tài nghiên cứu. Nguồn thông tin trong phỏng vấn bao gồm toàn bộ những câu trả
lời phản ánh quan điểm, nhận thức của ngƣời đƣợc hỏi, hành vi cử chỉ của ngƣời đƣợc hỏi trong

thời gian phỏng vấn.
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm giáo dục
Kinh nghiệm giáo dục là tổng thể những tri thức kĩ năng, kĩ xảo mà ngƣời làm công tác giáo
dục đã tích luỹ đƣợc trong thực tiễn công tác giáo dục.
Tổng kết kinh nghiệm giáo dục là vận dụng lí luận về khoa học giáo dục để thu thập, phân
tích, đánh giá thực tiễn giáo dục, từ đó rút ra những khái quát có tính chất lí luận. Đó là những
khái quát về nguyên nhân, điều kiện, biện pháp, bƣớc đi dẫn tới thành công hay thất bại, đặc biệt
là tìm ra những quy luật phát triển của các sự kiện giáo dục nhằm tổ chức tốt hơn các quá trình sƣ
phạm tiếp theo.
Những kinh nghiệm rút ra từ phƣơng pháp này cần đƣợc kiểm nghiệm, bổ sung bằng cách:
thông qua các hội thảo khoa học, qua các phƣơng tiện thông tin (tài liệu, báo, tạp chí của trung
ĐC: P301 nhà A - Số 290 – Tây Sơn - Đống Đa – Hà Nội

Page 5


TRUNG TÂM NGHIỆP VỤ SƢ PHẠM QUỐC GIA: 0985 86 86 55 – 043 22 52 677
ƣơng, ngành), vận dụng ở các địa bàn và các phạm vi khác nhau.
Phương pháp thực nghiệm sư phạm
Phƣơng pháp thực nghiệm xuất hiện trong các khoa học đã đánh dấu một bƣớc ngoặt lớn
chuyển từ sự quan sát, mô tả bề ngoài sang sự phân tích về mặt định tính, định lƣợng những mối
quan hệ bản chất, những thuộc tính cơ bản của các sự vật hiện tƣợng. Thực nghiệm sƣ phạm là
phƣơng pháp thu nhận thông tin về sự thay đổi số lƣợng và chất lƣợng trong nhận thức và hành vi
của các đối tƣợng giáo dục do nhà khoa học tác động nên chúng bằng một số tác nhân điều khiển
và đã đƣợc kiểm tra.
Phƣơng pháp thực nghiệm cho phép đi sâu vào bản chất, quy luật, phát hiện ra các thành
phần, cấu trúc, cơ chế của hiện tƣợng giáo dục. Phƣơng pháp này đòi hỏi phải tổ chức cho đối
tƣợng thực nghiệm hoạt động theo một giả thuyết bằng cách đƣa vào đó những yếu tố mới để
xem xét sự diễn biến và phát triển của chúng có phù hợp với giả thuyết hay không, khi giả thuyết
đƣợc khẳng định có thể đƣợc ứng dụng vào thực tiễn.

Phân loại theo môi trƣờng diễn ra thực nghiệm có thực nghiệm tự nhiên và thực nghiệm trong
phòng thí nghiệm, phân loại theo mục đích thực nghiệm có thực nghiệm tác động và thực nghiệm
thăm dò.
Phƣơng pháp thực nghiệm đòi hỏi nhà nghiên cứu chủ động tạo nên các tình huống, sau đó
quan sát các hành vi, các sự kiện trong các tình huống nhân tạo đó. Tuy nhiên, để có đƣợc những
thông tin từ thực nghiệm thì trong quá trình tiến hành thực nghiệm cũng phải sử dụng hàng loạt
các phƣơng pháp khác nhau (quan sát, phỏng vấn, trƣng cầu ý kiến, trắc nghiệm.. ). Với ý nghĩa
này, phƣơng pháp thực nghiệm rộng hơn, phức tạp hơn.
Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động sư phạm
Là phƣơng pháp mà nhà nghiên cứu thông qua các sản phẩm sƣ phạm để tìm hiểu tính chất,
đặc điểm, tâm lí của con ngƣời và của cả hoạt động đã tạo ra sản phẩm ấy nhằm tìm ra giải pháp
nâng cao chất lƣợng của quá trình giáo dục.
Phương pháp chuyên gia
Là phƣơng pháp thu thập thông tin khoa học, đánh giá một sản phẩm khoa học bằng cách sử
dụng trí tuệ một đội ngũ chuyên gia có trình độ cao về một lĩnh vực nhất định, nhằm phân tích
hay tìm ra giải pháp tối ƣu cho sự kiện giáo dục nào đó. Phƣơng pháp này đƣợc thực hiện thông
qua các hình thức hội thảo, đánh giá, nghiệm thu công trình khoa học.
. Phương pháp sử dụng toán thống kê
Phƣơng pháp toán học đƣợc sử dụng để nghiên cứu các số liệu đã nhận đƣợc từ các phƣơng
pháp trƣng cầu ý kiến bằng phiếu hỏi và từ phƣơng pháp thực nghiệm, nó thiết lập sự phụ thuộc
về số lƣợng giữa các hiện tƣợng nghiên cứu. Chúng giúp cho việc đánh giá các kết quả thực
nghiệm, nâng cao độ tin cậy của các kết luận, làm cơ sở cho việc tổng hợp lí thuyết
III. HỆ THỐNG CÁC KHOA HỌC VỀ GIÁO DỤC VÀ MỐI QUAN HỆ CỦA
CHÚNG VỚI CÁC KHOA HỌC KHÁC
1. Hệ thống các khoa học giáo dục học
Quá trình phát triển xã hội luôn đi kèm với sự tích luỹ tri thức ở tất cả các lĩnh vực hoạt động
của con ngƣời, trong đó có lĩnh vực giáo dục. Một loạt các ngành khoa học về giáo dục đã có từ lâu
trong lịch sử, cũng có những ngành còn rất mới. Giáo dục học đƣợc phân chia thành các chuyên
ngành khoa học riêng biệt, tạo thành một hệ thống các khoa học giáo dục, bao gồm:
– Giáo dục học đại cƣơng, nghiên cứu những quy luật cơ bản của Giáo dục học.

– Giáo dục học lứa tuổi (bao gồm giáo dục học trƣớc tuổi đi học; giáo dục học nhà trƣờng;
giáo dục học ngƣời lớn tuổi) nghiên cứu những khía cạnh về lứa tuổi của việc dạy học và giáo dục.
– Giáo dục học khuyết tật: Nhiệm vụ chủ yếu là nghiên cứu việc dạy học và giáo dục cho trẻ bị
khuyết tật (trẻ khiếm thính, khiếm thị, kém phát triển về trí tuệ, ngôn ngữ).
– Giáo dục học bộ môn: Nghiên cứu việc áp dụng những quy luật chung của việc dạy học
ĐC: P301 nhà A - Số 290 – Tây Sơn - Đống Đa – Hà Nội

Page 6


TRUNG TÂM NGHIỆP VỤ SƢ PHẠM QUỐC GIA: 0985 86 86 55 – 043 22 52 677
vào
giảng
dạy
các
môn
học
cụ
thể
– Lịch sử giáo dục và Giáo dục học, nghiên cứu sự phát triển của các tƣ tƣởng và thực tiễn giáo
dục trong các thời kì lịch sử khác nhau.
– Giáo dục học theo chuyên ngành (Giáo dục học quân sự, Giáo dục học thể thao, Giáo dục
học đại học…).
Với sự phát triển của khoa học theo hƣớng phân hoá và tích hợp, trong những năm gần đây,
khoa học giáo dục không ngừng phát triển, hình thành nhiều chuyên ngành mới nhƣ: Triết học,
giáo dục, Giáo dục học so sánh, Xã hội học giáo dục, Kinh tế học giáo dục, Quản lí giáo dục .v.v.
2. Mối quan hệ của Giáo dục học với các khoa học khác
Vị trí của Giáo dục học trong hệ thống các khoa học về con ngƣời đƣợc xác định khi xem xét
các mối quan hệ của nó với các khoa học khác. Trong suốt quá trình tồn tại của mình, Giáo dục học
có quan hệ chặt chẽ với nhiều khoa học, những khoa học này có ảnh hƣởng lớn tới sự phát triển của

Giáo dục học.
Ngày nay, Giáo dục học có mối quan hệ với một số ngành khoa học tự nhiên và khoa học xã
hội, đặc biệt là có quan hệ mật thiết một số ngành khoa học nghiên cứu về con ngƣời. Thực hiện
tốt mối quan hệ đó là điều kiện quan trọng để thúc đẩy mạnh việc khám phá những tri thức mới
về Giáo dục học.
Giáo dục học với Triết học
Mối quan hệ này là một quá trình lâu dài và có hiệu quả, các tƣ tƣởng triết học đã hình thành
quan điểm và lí luận giáo dục học, nó làm cơ sở phƣơng pháp luận cho Giáo dục học. Triết học
đƣợc coi là khoa học nghiên cứu về các quy luật chung nhất của tự nhiên, xã hội, tƣ duy con
ngƣời; Triết học luôn đƣợc coi là cơ sở nền tảng khi xem xét các quy luật giáo dục. Một số ngành
của Triết học nhƣ Xã hội học, Đạo đức học, Mĩ học. v.v.. đều có vai trò to lớn trong việc nghiên
cứu các vấn đề giáo dục học.
Giáo dục học với Sinh lí học
Sinh lí học đƣợc coi là cơ sở khoa học tự nhiên của Giáo dục học. Việc nghiên cứu giáo dục
học cần phải dựa vào những dữ kiện của sinh lí học nhƣ: hệ thần kinh cấp cao, đặc điểm các loại
thần kinh, hoạt động của hệ thống tín hiệu thứ nhất, thứ hai, sự vận hành của các cơ quan cảm
giác vận động. Những thành tựu của Sinh lí học giúp cho Giáo dục học phù hợp với đặc điểm
sinh lí của học sinh ở từng lứa luổi.
Giáo dục học với Tâm lí học
Tâm lí học nghiên cứu trạng thái, các quá trình, các phẩm chất tâm lí muôn màu, muôn vẻ
đƣợc hình thành trong quá trình phát triển con ngƣời, quá trình giáo dục, cũng nhƣ quá trình tác
động của con ngƣời tới môi trƣờng. Tâm lí học cung cấp cho Giáo dục học những tri thức về cơ
chế, diễn biến và các điều kiện tổ chức quá trình bên trong của sự hình thành nhân cách con
ngƣời theo từng lứa tuổi, từng giai đoạn.
Giáo dục học với Điều khiển học
Điều khiển học là khoa học về sự điều khiển tối ƣu các hệ thống phức tạp, là khoa học nghiên
cứu lôgíc của những quá trình trong tự nhiên và xã hội, nó xác định những cái chung, quy định sự
vận hành các quá trình đó. Cái chung đó là: sự có mặt của một trung tâm điều khiển; sự có mặt của
khách thể bị điều khiển; sự điều khiển thông qua các kênh thuận nghịch. Quá trình giáo dục là một
quá trình điều khiển đƣợc, có thể vận dụng lí thuyết về Điều khiển học để xây dựng lí thuyết giáo

dục học.
Giáo dục học với Xã hội học
Xã hội học là khoa học nghiên cứu các quy luật hình thành, vận động và phát triển mối quan
hệ của con ngƣời với xã hội, giúp cho con ngƣời hiểu đƣợc cơ cấu tổ chức xã hội (cấu trúc), hiện
tƣợng xã hội, quá trình xã hội trên cơ sở đó hiểu đƣợc các mối quan hệ xã hội, các hiện tƣợng,
quy luật xã hội, thực trạng về văn hoá của các nhóm dân cƣ khác nhau – những nguồn kiến thức
ĐC: P301 nhà A - Số 290 – Tây Sơn - Đống Đa – Hà Nội

Page 7


TRUNG TÂM NGHIỆP VỤ SƢ PHẠM QUỐC GIA: 0985 86 86 55 – 043 22 52 677
đó phục vụ cho việc nghiên cứu giáo dục học.

ĐC: P301 nhà A - Số 290 – Tây Sơn - Đống Đa – Hà Nội

Page 8


TRUNG TÂM NGHIỆP VỤ SƢ PHẠM QUỐC GIA: 0985 86 86 55 – 043 22 52 677

ĐC: P301 nhà A - Số 290 – Tây Sơn - Đống Đa – Hà Nội

Page 9


TRUNG TÂM NGHIỆP VỤ SƢ PHẠM QUỐC GIA: 0985 86 86 55 – 043 22 52 677
CHƢƠNG 2.
GIÁO DỤC VỚI SỰ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI
VÀ PHÁT TRIỂN CÁ NHÂN

I. VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC VỚI SỰ PHÁT TRIỂN XÃ HỘI
1. Các chức năng xã hội của giáo dục
1.1. Chức năng kinh tế - sản xuất
Với chức năng kinh tế- sản xuất, giáo dục tái sản xuất sức lao động xã hội, tạo nên sức
lao động mới có chất lƣợng cao hơn, thay thế sức lao động cũ đã lạc hậu, đã già cỗi hoặc đã mất
đi bằng cách phát triển những năng lực chung và năng lực chuyên biệt của con người, nhằm tạo
ra một năng suất lao động cao hơn, thúc đẩy sản xuất, phát triển kinh tế xã hội.
1.2. Chức năng chính trị - xã hội
Với chức năng chính trị- xã hội, giáo dục tác động đến cấu trúc xã hội, tức là tác động đến
các bộ phận, các thành phần xã hội (các giai cấp, các tầng lớp, các nhóm xã hội...) làm thay đổi tính
chất mối quan hệ giữa các bộ phận, thành phần đó bằng cách nâng cao trình độ văn hóa chung cho
toàn thể xã hội.
1.3. Chức năng tư tưởng- văn hóa
Với chức năng tƣ tƣởng- văn hóa, giáo dục tham gia vào việc xây dựng một hệ tư tưởng chi
phối toàn xã hội, xây dựng một lối sống phổ biến trong xã hội bằng cách phổ cập giáo dục phổ
thông với trình độ ngày càng cao cho mọi tầng lớp xã hội.
2. Xu thế phát triển giáo dục thế giới
2.1. Đặc điểm của xã hội hiện đại
Cuộc cách mạng khoa học - công nghệ
Xu thế toàn cầu hoá
Phát triển nền kinh tế tri thức
Kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó tri thức đóng vai trò then chốt đối vối sự phát triển
kinh tế - xã hội loài
2.2. Xu thế phát triển giáo dục thế giới
2.2.1. Xu thế phát triển giáo dục thế giới
a. Nhận thức mới về giáo dục là sự nghiệp hàng đầu của quốc gia
Từ xƣa cũng đã có những quan điểm, tƣ tƣởng khẳng định giáo dục là một trong những
nhân tố quan trọng xây dựng xã hội an lạc, phú cƣờng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nhấn
mạnh: "Kinh tế tiến bộ thì giáo dục mới tiến bộ đƣợc, nền kinh tế không phát triển thì giáo dục
cũng không phát triển đƣợc, giáo dục không phát triển thì không có đủ cán bộ giúp cho kinh tế

phát triển, hai việc đó liên quan mật thiết vối nhau".
Bƣớc sang thế kỉ XXI, mỗi dân tộc càng nhận thức chính xác và cụ thể hơn vai trò, sức
mạnh to lớn của giáo dục, đã khơi dậy và tạo nên tiềm năng vô tận trong mỗi con ngƣời. Trong
các tài liệu về khoa học giáo dục, các nhà nghiên cứu trên thế giới đều xác định rõ vai trò, vị trí
của giáo dục đối với sự phát triển của xã hội loài ngƣời nói chung, đặc biệt đối với sự phát triển
nền kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Giáo dục - Đào tạo đƣợc coi là quốc: sách hàng đầu, giáo
dục đƣợc coi là chiếc chìa khoá cuối cùng mở cánh cửa đƣa xã hội loài ngƣời đi vào tƣơng lai.
Giáo dục là lực lƣợng sản xuất trực tiếp, đầu tƣ cho giáo dục là đầu tƣ cho phát triển.
Thực tiễn cho thấy, nguyên nhân thành công của nhiều quốc gia là do có sự đầu tƣ và chăm
lo đặc biệt đến sự phát triển giáo dục. Ngày nay, giáo dục đƣợc coi là quốc sách hàng đầu, tức là
phải đƣợc thể hiện trong chính sách của quốc gia, thể hiện trong chiến lƣợc phát triển đất nƣớc.
Ở Việt Nam, quan điểm “Giáo dục là quốc sách hàng đầu” đƣợc đề ra trong Đại hội Đảng
Cộng sản Việt Nam khoá VII (6 - 1991), đƣợc ghi vào Hiến pháp CHXHCN 1992 (điều 35). Nội
ĐC: P301 nhà A - Số 290 – Tây Sơn - Đống Đa – Hà Nội

Page 10


TRUNG TÂM NGHIỆP VỤ SƢ PHẠM QUỐC GIA: 0985 86 86 55 – 043 22 52 677
dung của quan điếm “Giáo dục là quốc sách hàng đầu” đã đƣợc Đảng và Nhà nƣớc chỉ đạo thực
hiện bốn điểm chủ yếu sau đây:
- Mục tiêu về giáo dục - đào tạo là mục tiêu ƣu tiên quốc gia.
- Việc tổ chức chỉ đạo thực hiện mục tiêu ở tầm quyền lực quốc gia.
- Chính sách đầu tƣ thuộc hàng ƣu tiên ngân sách mỗi năm một tăng.
- Hệ thống chính sách đối với ngƣời dạy, ngƣời học tập ngày càng thể hiện sự tôn vinh của
xã hội; khuyến khích, phát huy các giá trị đức tài của mọi công dân thông qua giáo dục - đào tạo.
Những nội dung cơ bản của quan điểm “giáo dục là quốc sách hàng đầu” đã thể hiện: giáo
dục là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nƣớc, phải nâng cao chất lƣợng giáo dục; giáo dục
là bộ phận quan trọng hàng đầu của kế hoạch phát triển kinh tế xã hội đối với từng địa phƣơng,
từng khu vực và cả nƣớc: cần có những chính sách ƣu tiên cao nhất cho giáo dục; phát triển giáo

dục gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
b. Xã hội hoá giáo dục
Xã hội hoá giáo dục là một xu hƣớng phát triển hiện nay trên thế giới. Mục tiêu của xã hội hoá
giáo dục là thu hút mọi thành phần, thành viên trong xã hội tham gia đóng góp phát triển sự nghiệp
giáo dục và đƣợc hƣởng quyền lợi giáo dục nhƣ một loại phúc lợi xã hội thể hiện sự dân chủ, tự do,
công bằng nhân quyền tối thiểu của con ngƣời. Hiện nay, xu hƣớng chung của giáo dục các nƣớc
trên thế giới và trong khu vực là đa dạng hoá, dân chủ hoá, xã hội hoá nhằm huy động ngân sách
cho giáo dục từ nhiều nguồn vốn khác nhau.
c. Giáo dục suốt đời
Giáo dục suốt đời là một nguyên tắc chỉ đạo việc tổ chức tổng thể một hệ thống giáo dục
cũng nhƣ chỉ đạo việc tổ chức từng bộ phận của hệ thống giáo dục. Giáo dục suốt đời không phải
là một hệ thống, cũng không phải là một lĩnh vực giáo dục, ý tƣởng cơ bản của nguyên tắc này là
giáo dục toàn diện cho các giai đoạn của cuộc đời con ngƣời. Thời gian học ở nhà trƣờng không
phải là duy nhất để có đƣợc hiểu biết, ngƣời học có thể thu nhận và xử lí thông tin do xã hội cung
cấp trong suốt cuộc đời của mình bằng phƣơng pháp tự học. Chính vì vậy, giáo dục phải thực
hiện đa dạng hoá các loại hình đào tạo nhằm tạo cơ hội học tập cho mọi ngƣời, giáo dục nhà
trƣờng chỉ đƣợc coi là có hiệu quả khi nó tạo đƣợc cơ sở và động lực cho ngƣời học tiếp tục học
tập và rèn luyện. Giáo dục suốt đời đòi hỏi con ngƣời phải học thƣờng xuyên, do đó việc cập
nhật những kiến thức phải trở thành một bộ phận cần thiết của giáo dục. Việc học tập phải đƣợc
tiến hành liên tục, đảm bảo cho mỗi ngƣời tiếp thu đƣợc kiến thức mới trong suốt cuộc đời, sự
truyền bá những tài liệu tự đào tạo cần dựa trên mạng viễn thông để mỗi ngƣời có điều kiện học
tập.
Học tập suốt đời là một định hƣớng mới chuyển từ cách tiếp cận dạy là chính sang học là
chính - tức là ngƣời dạy đóng vai trò hƣớng dẫn, chỉ đạo còn ngƣời học chủ động, tích cực tiếp
nhận tri thức bằng nhiều hình thức, bằng nhiều con đƣờng khác nhau. Muốn vậy giáo dục phải dựa
trên bốn trụ cột chính là:
Học để biết: Học tập là con đƣờng cơ bản nhất, tất yếu mở mang trí tuệ cho con ngƣời. Đặc
biệt thời đại bùng nổ thông tin đã đặt ra cho ngƣời học cần có một trình độ giáo dục chung đủ
rộng, đó là những kiến thức phổ thông ngang tầm thời đại và vốn hiểu biết sâu sắc về một số lĩnh
vực có lựa chọn, đó là những công cụ, phƣơng tiện cần thiết giúp cho ngƣời học cần biết phân

tích, phê phán, có tƣ duy độc lập, phát hiện, phát minh những điều mới mẻ đế nâng cao vị thế
con ngƣòi.
Học để làm: Trong học tập phải chú trọng đến hình thành hệ thống kĩ năng, kĩ xảo tƣơng
ứng, tức là thực hiện nguyên lí học gắn với hành, lí luận gắn với thực tiễn đời sống. Trên cơ sở
đó để hình thành các năng lực của ngƣời lao động đƣợc đào tạo ở trình độ cao, dễ dàng thích
nghi, thích ứng với thị trƣờng lao động, thị trƣờng việc làm của xã hội nhằm đảm bảo cuộc sống
tốt đẹp của cá nhân, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển.
ĐC: P301 nhà A - Số 290 – Tây Sơn - Đống Đa – Hà Nội

Page 11


TRUNG TÂM NGHIỆP VỤ SƢ PHẠM QUỐC GIA: 0985 86 86 55 – 043 22 52 677
Học để chung sống: Ngƣời học tập phải đƣợc tiếp thu một nền giáo dục nhân văn, có nhận
thức, thái độ, tình cảm và hành vi theo các giá trị chuẩn mực đạo đức trong quan hệ, ứng xử...
bảo đảm cuộc sống yên bình, hạnh phúc không chỉ trong gia đình mà còn đối với cộng đồng, với
các dân tộc, các tôn giáo, các quốc gia khác vì mục đích chung bảo vệ hoà bình của nhân loại.
Học để tự khẳng định mình: Giáo dục đóng góp vào sự phát triển toàn diện con ngƣời. Với
sự tác động của giáo dục, mỗi ngƣời học để bộc lộ các tiềm năng của cá nhân bắt đầu từ tuổi thơ
đến suốt cuộc đời của con ngƣòi. Giáo dục thế kỉ XXI là phải mang lại cho con ngƣời tự do suy
nghĩ, phán đoán, tƣởng tƣợng để có thể phát triển tài năng của mình và tự kiểm tra cuộc sống của
mình, vì các tài năng và nhân cách đa dạng là cơ sở để sáng tạo và canh tân kinh tế, xã hội, đƣa
nhân loại vào thế kỉ mới.
d. Áp dụng sáng tạo công nghệ thông tin vào quá trình giáo dục
e. Đổi mới mạnh mẽ quản lí giáo dục
Về tổ chức: Nâng cao hiệu lực chỉ đạo tập trung của Chính phủ trong việc thực hiện Chiến
lƣợc giáo dục; đổi mới cơ chế và phƣơng thức quản lí giáo dục theo hƣớng phân cấp một cách
hợp lí nhằm giải phóng và phát huy mạnh mẽ tiềm năng, sức sáng tạo, tính chủ động và tự chịu
trách nhiệm của mỗi cấp và mỗi cơ sở giáo dục; tăng cƣờng chất lƣợng của công tác lập kế
hoạch.

Về đào tạo và bồi dƣỡng cán bộ quản lí giáo dục: cần có một đội ngũ cán bộ quản lí tinh
thông nghiệp vụ ở tất cả các cấp; các khoá bồi dƣỡng về nghiệp vụ quản lí giáo dục đƣợc tiến
hành định kì; tăng cƣờng những kĩ năng quản lí và lập kế hoạch, thực hiện kế hoạch, năng lực
phối hợp dọc - ngang.
Về thông tin trong quản lí giáo dục: Củng cố, tăng cƣờng hệ thống thông tin quản lí giáo dục ở
các cấp; hiện đại hoá hệ thống thông tin, đảm bảo việc truy nhập dữ liệu nhanh chóng, kịp thời, tạo
điều kiện hỗ trợ tích cực cho công tác ra quyết định điều hành hệ thống giáo dục; quan tâm đào tạo,
bồi dƣỡng, nâng cao trình độ của cán bộ làm công tác thông tin về phƣơng pháp thu thập số liệu và
thông tin khoa học phƣơng pháp nghiên cứu, phân tích, tổng hợp, xử lí thông tin, trình độ biên tập,
soạn thảo văn bản, lập báo cáo. v.v.
Đánh giá là một căn cứ hết sức quan trọng để quản lí giáo dục. Do vậy, đòi hỏi phải quan
tâm xây dựng những phƣơng tiện thu thập thông tin phù hợp, cập nhật và tin cậy. Điều này đòi
hỏi phải có những chiến lƣợc nhằm điều chỉnh mục tiêu và hành động cho phù hợp trên cơ sở
những thông tin thu lƣợm đƣợc.,
Về giáo dục đại học tăng cƣờng dự báo nhu cầu, tăng cƣờng những mối quan hệ giữa giáo dục
với thị trƣờng lao động, phân tích và tiên đoán những nhu cầu của xã hội, tăng cƣòng vai trò bồi
dƣỡng, đào tạo lại, thƣờng xuyên, ngăn chặn sự thất thoát những tài năng, tăng cƣờng quyền tự chủ
và chịu trách nhiệm xã hội của trƣờng đại học, có những biện pháp quản lí hƣớng về tƣơng lai.
f. Phát triển giáo dục đại học
2.2.3. Chiến lược phát triển giáo dục của UNESCO
UNESCO đã chủ trƣơng đẩy mạnh phát triển giáo dục khi bƣớc vào thế kỉ XXI, với chiến
lƣợc bao gồm 21 điểm và tƣ tƣởng chính của nó nhƣ sau:
- Giáo dục thƣờng xuyên là điểm chủ đạo của mọi chính sách giáo dục; hƣớng tới nền giáo
dục suốt đời, giáo dục bằng mọi cách, xây dựng một xã hội học tập. Giáo dục phải làm cho mỗi
ngƣời trở thành ngƣời dạy và ngƣời kiến tạo nên sự tiến bộ văn hoá của bản thân mình.
- Giáo dục không chỉ dạy để cho có học vấn mà phải thực hành, thực nghiệm để có tay
nghề, để vào đời có thể lao động đƣợc ngay, không bỡ ngỡ.
- Phát triển giáo dục gắn liền với phát triển kinh tế xã hội. đặc biệt chú ý đến giáo dục
hƣớng nghiệp để giúp ngƣời học lập thân, lập nghiệp.
- Giáo dục trẻ em trƣớc tuổi đến trƣờng phải là mục tiêu lớn trong chiến lƣợc giáo dục.

- Giáo viên đƣợc đào tạo để trở thành những nhà giáo dục hơn là những chuyên gia truvền
ĐC: P301 nhà A - Số 290 – Tây Sơn - Đống Đa – Hà Nội

Page 12


TRUNG TÂM NGHIỆP VỤ SƢ PHẠM QUỐC GIA: 0985 86 86 55 – 043 22 52 677
đạt kiến thức. Việc giảng dạy phải phù hợp với ngƣời học chứ không phải là sự áp đặt máy móc
buộc ngƣời học phải tuân theo.
Uỷ ban quốc tế về giáo dục cho thế kỉ XXI do Đại hội đồng lần thứ 26 của UNESCO thành
lập năm 1991 đã tập trung giải đáp rất nhiều vấn đề về giáo dục cho thế kỉ XXI nhƣ: cần loại
hình giáo dục nào để phục vụ cho xã hội tƣơng lai; vai trò mới của giáo dục trong thế giới tăng
trƣởng nhanh về kinh tế; những xu thế chủ yếu để phát triển giáo dục trong xã hội hiện đại; đánh
giá trình độ kiến thức, kinh nghiệm của các nền giáo dục đã đạt kết quả tốt nhất trong các điều
kiện kinh tế, chính trị, văn hoá khác nhau; nghiên cứu ngƣời học, ngƣời dạy; nghiên cứu tất cả
các cấp học, các phƣơng thức giáo dục. uỷ ban đã đề ra sáu nguyên tắc cơ bản cho các nhà quản
lí giáo dục, các lực lƣợng giáo dục nhƣ sau:
- Giáo dục là quyền cơ bản của con ngƣời và cũng là giá trị chung nhất của nhân loại.
- Giáo dục chính quy và không chính quy đều phải phục vụ xã hội, giáo dục là công cụ để
sáng tạo, tăng tiến và phổ biến tri thức khoa học, đƣa tri thức khoa học đến với mọi ngƣời.
- Các chính sách giáo dục phải chú ý phối hợp hài hoà cả ba mục đích là: công bằng, thích
hợp và chất lƣợng.
- Muốn tiến hành cải cách giáo dục cần phải xem xét kĩ lƣỡng và hiểu biết sâu sắc về thực
tiễn, chính sách và các điều kiện cũng nhƣ những yêu cầu của từng vùng.
- Cần phải có cách tiếp cận phát triển giáo dục thích hợp với từng vùng, vì mỗi vùng có sự
khác nhau về kinh tế, xã hội và văn hoá. Tuy nhiên các cách tiếp cận đó cần phải chú ý đến các
giá trị chung, các mối quan tâm của cộng đồng quốc tế (quyền con ngƣời, sự khoan dung, hiểu
biết lẫn nhau, dân chủ, trách nhiệm, bản sắc dân tộc, môi trƣờng, chia sẻ tri thức, giảm đói
nghèo, dân số, sức khoẻ).
- Giáo dục là trách nhiệm của toàn xã hội, của tất cả mọi ngƣời.

• Thế giới hiện đại đã khẳng định vai trò lớn lao của giáo dục: Giáo dục đƣợc coi là chiếc
chìa khoá tiến tới một thế giới tốt đẹp hơn; vai trò của giáo dục là phát triển tiềm nãng của con
ngýời; giáo dục là ðòn bẩy mạnh mẽ nhất để tiến vào tƣơng lai; giáo dục cũng là điều kiện cơ
bản nhất để thực hiện nhân quyền, hợp tác, dân chủ, bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau.
3. Các quan điểm chỉ đạo phát triển giáo dục ở Việt Nam
Trên cơ sở đánh giá thực trạng giáo dục nƣớc ta trong thời gian qua, phân tích bối cảnh trong
và ngoài nƣớc, nhận định về thời cơ và thách thức đối với giáo dục trong thời kì mới, Đảng ta đã
đƣa ra các quan điểm chỉ đạo thực tiễn giáo dục Việt Nam trong giai đoạn mới - công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nƣớc. Hiến pháp nƣớc Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam (1992), Luật
Giáo dục (2005), Chiến lƣợc phát triển giáo dục 20011-2020 đã thể hiện những quan điểm chỉ
đạo phát triển giáo dục ở nƣớc ta nhƣ sau:
- Giáo dục là quốc sách hàng đầu, phát triển giáo dục là nền tảng, nguồn nhân lực chất
lƣợng cao, là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, là yếu tố cơ bản phát triển xã hội, tăng trƣởng kinh tế nhanh và bền vững.
- Xây dựng nền giáo dục có tính nhân dân, dân tộc, khoa học, hiện đại theo định hƣớng xã
hội chủ nghĩa, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tƣ tƣởng Hồ Chí Minh làm nền tảng. Thực hiện
công bằng xã hội trong giáo dục, tạo cơ hội bình đẳng để ai cũng đƣợc học hành. Nhà nƣớc và xã
hội có cơ chế, chính sách giúp đỡ ngƣời nghèo học tập, khuyến khích những ngƣời học giỏi phát
triển tài năng.
- Giáo dục con ngƣời Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khoẻ và thẩm
mĩ, phát triển đƣợc năng lực của cá nhân, đào tạo những ngƣời lao động có kĩ năng nghề nghiệp,
năng động, sáng tạo, trung thành với lí tƣởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có ý chí vƣơn
lên lập thân, lập nghiệp, có ý thức công dân, góp phần làm cho dân giàu nƣớc mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- Phát triển giáo dục phải gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xà hội, tiến bộ khoa học ĐC: P301 nhà A - Số 290 – Tây Sơn - Đống Đa – Hà Nội

Page 13


TRUNG TÂM NGHIỆP VỤ SƢ PHẠM QUỐC GIA: 0985 86 86 55 – 043 22 52 677

công nghệ, củng cố quốc phòng, an ninh; đảm bảo sự hợp lí về cơ cấu trình độ, cơ cấu ngành
nghề, cơ cấu vùng miền; mở rộng quy mô trên cơ sở đảm bảo chất lƣợng và hiệu quả; kết hợp
giữa đào tạo và sử dụng. Thực hiện nguyên lí học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động
sản xuất, lí luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trƣờng kết hợp với giáo dục gia đình và giáo
dục xã hội.
- Giáo dục là sự nghiệp của Đảng, Nhà nƣớc và của toàn dân, xây dựng xã hội học tập, tạo
điều kiện cho mọi ngƣời, ở mọi lứa tuổi, mọi trình độ đƣợc học thƣờng xuyên, học suốt đời.
- Nhà nƣớc giữ vai trò chủ đạo trong phát triển giáo dục. Đẩy mạnh xã hội hoá; khuyến
khích, huy động và tạo điều kiện để toàn xã hội tham gia phát triển giáo dục.
- Khắc phục tình trạng bất cập trên nhiều lĩnh vực, tiếp tục đổi mới một cách hệ thống và
đồng bộ; tạo cơ sở để nâng cao rõ rệt chất lƣợng và hiệu quả giáo dục; phục vụ đắc lực sự nghiệp
công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chấn hƣng đất nƣớc, đƣa đất nƣớc phát triển nhanh và bền vững,
nhanh chóng sánh vai cùng các nƣớc phát triển trong khu vực và trên thế giới.
II. GIÁO DỤC VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CÁ NHÂN
1. Sự phát triển cá nhân
1.1. Cá nhân và nhân cách
Các khái niệm "cá nhân", "nhân cách" có mối liên hệ mật thiết với khái niệm "con ngƣời", "cá
thể", "cá tính", giữa chúng có sự đan xen lẫn nhau nhƣng không phải là những khái niệm đồng nhất. Để
làm rõ khái niệm cá nhân, nhân cách, cần phải phân biệt nội dung cơ bản của những khái niệm đó.
Khái niệm "con ngƣời" (Person): dùng để chỉ một chỉnh thể sinh học- xã hội. Cơ thể con ngƣời là
một thực thể sinh vật, ở bậc thang cao nhất của sự tiến hóa vật chất. Bộ não ngƣời là tổ chức vật chất
cao nhất, có khả năng phản ánh thế giới, có khả năng tiếp thu và truyền đạt cho ngƣời khác những kinh
nghiệm lịch sử xã hội.
Khái niệm "cá nhân" dùng để chỉ một con ngƣời với tƣ cách là sản phẩm của sự phát triển xã hội,
là chủ thể của hoạt động, của mọi quan hệ xã hội và của nhận thức do những điều kiện lịch sử cụ thể
của đời sống xã hội qui định. Cá nhân là chủ thể mang nhân cách.
Cá nhân là một thực thể sinh vật- xã hội- văn hóa với các đặc điểm về sinh lý, tâm lý và xã hội trong
sự liên hệ thống nhất với các chức năng xã hội chung của giống loài người. Nhƣ vậy, cần xem xét cá
nhân trong các mối quan hệ:
- Cá nhân là phƣơng thức tồn tại của giống loài ngƣời, là sự tồn tại cảm tính, cụ thể của

giống loài, là phần tử đơn nhất tạo thành cộng đồng xã hội;
- Cá nhân là chủ thể của hoạt động thực tiễn, chủ thể của lao động sáng tạo nhằm cải tạo thế
giới tự nhiên và xã hội;
- Cá nhân đƣợc hình thành và phát triển chỉ trong quan hệ xã hội. Xã hội thay đổi theo tiến
trình lịch sử, nên cá nhân là một hiện tƣợng có tính lịch sử. Mỗi thời đại sản sinh ra một kiểu cá
nhân đặc trƣng, do điều kiện cụ thể của đời sống xã hội qui định
Khi nói đến cá nhân, cần có sự phân biệt với khái niệm cá thể, cá tính:
- Cá thể là một đơn vị hoàn chỉnh đại diện cho giống loài nhƣng mang những nét đặc thù
riêng. Khái niệm cá thể không thể dùng riêng cho một giống loài nào, nó có ý nghĩa
phân biệt một cái riêng có tính độc lập trong một tập hợp chung
- Cá tính dùng để chỉ cái đơn nhất, không lặp lại trong tâm lý của cá thể ngƣời, mang tính
đặc thù của mỗi cá nhân. Nhƣ vậy, thông thƣờng chúng ta hiểu cá tính là tính cách của cá nhân
- Khái niệm "Nhân cách" dùng để chỉ nội dung, trạng thái, tính chất, xu hƣớng bên trong riêng
biệt của mỗi cá nhân, là đặc trƣng bản chất cá nhân trong mỗi giai đoạn phát triển nhất định của lịch
sử, là toàn thể những thuộc tính đặc biệt mà cá nhân có đƣợc trong hệ thống các quan hệ xã hội trên
cơ sở hoạt động và giao lƣu nhằm chiếm lĩnh các giá trị văn hoá vật chất và tinh thần. Vì vậy, nhân
cách làm nên sự khác biệt giữa cá nhân này với cá nhân khác.
ĐC: P301 nhà A - Số 290 – Tây Sơn - Đống Đa – Hà Nội

Page 14


TRUNG TÂM NGHIỆP VỤ SƢ PHẠM QUỐC GIA: 0985 86 86 55 – 043 22 52 677
Do cấu trúc nhân cách rất phức hợp nên một số nhà nghiên cứu giáo dục thƣờng nhấn mạnh
đến các thuộc tính liên cá nhân (phản ánh mối quan hệ đa dạng, phong phú của cá nhân với cộng
đồng, xã hội) các thuộc tính nội cá nhân (phản ánh những nét tính cách riêng, độc đáo của cuộc
sống nội tâm); các thuộc tính siêu cá nhân (phản ánh những phẩm chất, năng lực sáng chói có ý
nghĩa xã hội, trở thành một nhân cách bất tử).
Mặc dù các quan điểm, định nghĩa trên có khác nhau, xuất phát từ mục đích nghiên cứu riêng, nhƣng
nhìn chung có sự thống nhất khi xem xét nhân cách, đó là:

- Những phẩm chất và năng lực có giá trị đối với cá nhân và xã hội đƣợc hình thành và phát
triển bằng hai con đƣờng chủ yếu là hoạt động và giao lƣu.
- Mỗi cá nhân có một nhân cách riêng bao gồm hai mặt: Mặt tự nhiên và mặt xã hội, trong
đó mặt xã hội có ý nghĩa quan trọng đặc biệt, thể hiện đặc thù về nhân cách của mỗi con ngƣời.
- Nhân cách là tổng hợp những phẩm chất, năng lực không thành bất biến của cá nhân mà
nó thƣờng xuyên vận động, biến đổi theo chuẩn mực, giá trị xã hội. Vì vậy, mọi cá nhân không
chỉ phải thƣờng xuyên giữ gìn, bảo vệ mà còn phải rèn luyện, bồi dƣỡng để nhân cách ngày càng
hoàn thiện hơn.
Nhƣ vậy, nhân cách là hệ thống giá trị làm người mà cá nhân đạt được với sự trưởng
thành về phẩm chất và năng lực trong quá trình thực hiện các chức năng xã hội của mình, được
xã hội đánh giá và thừa nhận.
1.2. Sự phát triển cá nhân
Trong quá trình vận động và phát triển của lịch sử xã hội loài ngƣời, con ngƣời với tƣ cách cá
nhân, luôn luôn vận động, phát triển trong mối quan hệ thống nhất biện chứng: cá nhân- xă hội. Mối
quan hệ đó thể hiện: cá nhân vừa là sản phẩm của sự phát triển lịch sử- xã hội, vừa là chủ thể của các
hoạt động và các mối quan hệ xã hội. Xem xét sự phát triển cá nhân là xem xét quá trình tƣơng tác
giữa cá nhân và xã hội trong những điều kiện lịch sử- xã hội cụ thể.
Theo quan điểm Triết học, tự nhiên là nguồn gốc vật chất sinh ra con ngƣời, đồng thời, con
ngƣời là cũng là sản phẩm của lịch sử- xã hội. Trong sự phát triển của lịch sử, mỗi cá nhân tồn
tại và phát triển trong những quan hệ xã hội nhất định. Môi trƣờng xã hội đóng vai trò là điều
kiện, là phƣơng tiện để phát triển cá nhân. Không có môi trƣờng xã hội thì không có cá nhân
phát triển. Môi trƣờng xã hội cũng đƣợc đặt ra trong từng giai đoạn phát triển nhất định của lịch
sử, với những tiền đề kinh tế- xã hội cụ thể. Do đó, không có cá nhân chung chung trừu tƣợng
cho mọi chế độ xã hội, mọi giai đoạn lịch sử. Cá nhân bao giờ cũng có tính lịch sử- xã hội cụ thể.
Bởi vậy xã hội tiến bộ là ở chỗ phải tạo điều kiện, môi trƣờng thuận lợi cho sự phát triển toàn
diện cá nhân. Sự phát triển cá nhân là tiêu chuẩn rất cơ bản để đánh giá sự tiến bộ xã hội.
Cũng chính trong quá trình cá nhân tham gia vào cuộc sống xã hội, cá nhân khẳng định vai trò
chủ thể của mình thông qua việc biến đổi và cải tạo môi trƣờng. Ngƣợc lại, biến đổi và cải tạo môi
trƣờng lại là điều kiện để phát triển cá nhân. Chỉ trong những hoạt động xã hội, cá nhân mới làm
giàu thêm tri thức và kinh nghiệm cho mình, khi đó nhân cách cá nhân mới đƣợc hình thành và

phát triển. Nhƣ vậy, nhân cách cá nhân, về bản chất là mang ý nghĩa xã hội và phải đƣợc xã hội
thừa nhận, đánh giá. Với ý nghĩa đó, phát triển cá nhân thực chất là khẳng định bản chất xã hội
của con người, khẳng định trình độ phát triển nhân cách của chính cá nhân.
Sự phát triển nhân cách cá nhân đƣợc biểu hiện qua những dấu hiệu sau:
Sự phát triển về mặt tâm lý: Thể hiện sự biến đổi cơ bản trong đời sống tâm lý của cá nhân:
trình độ nhận thức, khả năng tƣ duy, quan điểm, lập trƣờng, thói quen, xúc cảm, tình cảm, tâm tƣ,
nguyện vọng, nhu cầu, ý chí, v.v...
Sự phát triển về mặt xã hội: Thể hiện ở thái độ, hành vi ứng xử trong các mối quan hệ với
những ngƣời xung quanh, ở tính tích cực nhận thức tham gia vào các hoạt động cải biến, phát
triển xã hội.
ĐC: P301 nhà A - Số 290 – Tây Sơn - Đống Đa – Hà Nội

Page 15


TRUNG TÂM NGHIỆP VỤ SƢ PHẠM QUỐC GIA: 0985 86 86 55 – 043 22 52 677
Để có đƣợc sự phát triển Tâm lý- xã hội, cá nhân phải trải qua quá trình phát triển về mặt
Sinh lý- đó là tiền đề cho sự phát triển nhân cách cá nhân. Quá trình này đƣợc đánh dấu bởi các
giai đoạn phát triển về Tâm- sinh lý lứa tuổi. Quá trình phát triển nhân cách là một quá trình cải
biến toàn bộ các sức mạnh về thế chất và tinh thần cả về lƣợng và chất; có tính đến đặc điểm của
mỗi lứa tuổi. Đó là quá trình diễn ra lâu dài, khó khăn và phức hợp với tác động của nhiều yếu
tố: Bẩm sinh di truyền, môi trƣờng, giáo dục và hoạt động cá nhân.
2. Giáo dục với sự phát triển cá nhân
Giáo dục là quá trình hoạt động phối hợp thống nhất giữa chủ thể (nhà giáo dục) và đối
tƣợng (ngƣời đƣợc giáo dục) nhằm hình thành và phát triển nhân cách theo những yêu cầu của xã
hội. Đây là quá trình tác động tự giác có mục đích, có nội dung, phƣơng pháp, phƣơng tiện v.v...
đƣợc lựa chọn, tổ chức một cách khoa học giúp cho mọi cá nhân chiếm lĩnh đƣợc những kinh
nghiệm, những giá trị xã hội của nhân loại bằng con đƣờng ngắn nhất. Nhƣ vậy, đặc trƣng của
quá trình giáo dục là:
- Tác động tự giác đƣợc điều khiển bởi cơ quan, lực lƣợng chuyên trách, khác với tác động

tự phát tản mạn của môi trƣờng.
- Có mục đích, nội dung, phƣơng pháp, phƣơng tiện, chƣơng trình v.v... đƣợc tổ chức, lựa
chọn khoa học phù hợp với mọi đối tƣợng, giúp họ chiếm lĩnh đƣợc những kinh nghiệm, giá trị xã
hội của nhân loại bằng con đƣờng ngắn nhất.
Nói tới vai trò của giáo dục, ngay từ thời Trung Hoa cổ đại, Khổng Tử (551 - 479 TCN)
cũng đã có quan điểm đánh giá về vai trò của giáo dục “Viên ngọc không đƣợc mài dũa thì
không thành đồ dùng đƣợc. Con ngƣời không đƣợc học thì không biết gì về đạo lí”, hoặc “Ăn no,
mặc ấm, ngồi dƣng không đƣợc giáo dục thì con ngƣời gần nhƣ cầm thú”. Bác Hồ cũng đã nói:
“Hiền, dữ phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên"
Giáo dục giữ vai trò chủ đạo đối với quá trình hình thành và phát triển nhân cách, bởi vì nó
đƣợc thực hiện theo định hƣớng thống nhất vì mục đích nhân cách lí tƣởng mà xã hội đang yêu
cầu. Ba lực lƣợng giáo dục là gia đình, nhà trƣờng và các đoàn thể xã hội, trong đó nhà trƣờng có
vai trò, vị trí vô cùng quan trọng trong việc thực hiện mục đích, nội dung giáo dục bằng các
phƣơng pháp khoa học có tác động mạnh nhất giúp cho học sinh hình thành năng lực ngăn ngừa,
đấu tranh với những ảnh hƣởng tiêu cực từ môi trƣờng hoặc di truyền bẩm sinh. Giáo dục gia
đình đƣợc tiến hành sớm nhất từ khi đứa trẻ cất tiếng khóc chào đời, tạo nên những phẩm chất
nhân cách đầu tiên rất quan trọng làm nền tảng cho giáo dục nhà trƣờng. Giáo dục xã hội thông
qua các đoàn thể, các tổ chức nhà nƣớc với thể chế chính trị, pháp luật, văn hoá đạo đức, góp
phần thúc đẩy quá trình phát triển nhân cách toàn diện theo sự phát triển xã hội.
Giáo dục không chỉ vạch ra chiều hƣớng, mục tiêu hình thành và phát triển nhân cách của
học sinh mà còn tổ chức, chỉ đạo, dẫn dắt học sinh thực hiện quá trình đó đến kết quả mong
muốn.
Giáo dục là những tác động tự giác có điều khiển, có thể mang lại những tiến bộ mà các yếu
tố di truyền bẩm sinh hoặc môi trƣờng, hoàn cảnh không thể tạo ra đƣợc do tác động tự phát.
Giáo dục có sức mạnh cải biến những nét tính cách, hành thành phẩm chất lệch lạc không
phù hợp vối yêu cầu, chuẩn mực của xã hội. Đó chính là kết quả quan trọng của giáo dục lại đối
với trẻ em hƣ hoặc ngƣời phạm pháp.
Giáo dục có tầm quan trọng đặc biệt đối với những ngƣời khuyết tật hoặc thiểu năng do
bệnh tật, tai nạn hoặc bẩm sinh, di truyền tạo ra. Nhờ có sự can thiệp sớm, nhờ có phƣơng pháp

giáo dục, rèn luyện đặc biệt cùng với sự hỗ trợ của các phƣơng tiện khoa học có thể giúp cho
ngƣời khuyết tật, thiểu năng phục hồi một phần chức năng đã mất hoặc phát triển các chức năng
khác nhằm bù trừ những chức năng bị khiếm khuyết, giúp cho họ hoà nhập vào cuộc sống cộng
đồng.
ĐC: P301 nhà A - Số 290 – Tây Sơn - Đống Đa – Hà Nội

Page 16


TRUNG TÂM NGHIỆP VỤ SƢ PHẠM QUỐC GIA: 0985 86 86 55 – 043 22 52 677
Giáo dục là những tác động có điều khiển và điều chỉnh cho nên không những thích ứng với
các yếu tố di truyền, bẩm sinh, môi trƣờng, hoàn cảnh trong quá trình hình thành và phát triển
nhân cách mà nó còn có khả năng kìm hãm hoặc thúc đẩy các yếu tố ảnh hƣởng đến quá trình đó
theo một gia tốc phù hợp mã di truyền và môi trƣờng không thể thực hiện đƣợc.
Để phát huy vai trò chủ đạo của mình, giáo dục cần tích cực góp phần cải tạo môi trƣờng
sống (gia đình, nhà trƣờng, xã hội) làm cho nó ngày càng lành mạnh, văn minh, tạo thành định
hƣớng thống nhất vì mục tiêu nhân cách.
Giáo dục phải diễn ra trong một quá trình có sự tác động đồng bộ của những thành tố nhƣ mục
đích, nội dung, phƣơng pháp, hình thức tổ chức quá trình giáo dục. Giáo dục phải bao gồm hoạt động
tích cực, đa dạng của ngƣời giáo dục và ngƣời đƣợc giáo dục trong mối quan hệ thống nhất; phải phát
hiện và phát húy triệt để những điều kiện bên trong (bẩm sinh, di truyền vốn có ở ngƣời đƣợc giáo
dục) để những tiềm năng trở thành hiện thực. Không nên coi "giáo dục là vạn năng", thậm chí còn ảo
tƣởng dùng giáo dục để thay đổi xã hội.

Giáo dục có vai trò quan trọng đối với sự phát triển xã hội và cá nhân. Thông
qua việc thực hiện các chức năng xã hội của mình, giáo dục tác động đến mọi
mặt của đời sống xã hội: kinh tế, chính trị, văn hóa- xã hội...thúc đẩy xã hội
phát triển.
Xã hội hiện đại đặt raBÀI
những

đối với giáo dục và đưa giáo
TẬP thách
TÌNH thức
HUỐNG
TRƢỜNG HỌC

dục sang một bước phát triển mới.(Thƣ
Xu thế
của phát
bố) triển giáo dục được thể hiện rõ
Đúng thế, con trai yêu dấu của bố, việc học quả là khó nhọc đối với con,
trong..."
Chiến
lược phát triển giáo dục của UNESCO. Với xu thế đó, giáo dục lại

càng có vị trí quan trọng đối với sự phát triển con người và phát triển xã hội
trong thế kỷ 21 này.
Cá nhân với tư cách là một thành viên của xã hội mang những nét nhân
cách riêng, phản ánh những đặc trưng của từng giai đoạn phát triển lịch sử- xã
hôi. Nhân cách của mỗi cá nhân là sản phẩm của xã hội và được đánh giá
thông qua xã hội. Sự phát triển cá nhân về bản chất là sự phát triển nhân cáchlà tiêu chuẩn rất cơ bản để đánh giá sự tiến bộ xã hội. Giáo dục luôn có vai trò
chủ đạo đối với sự phát triển nhân cách cá nhân, vì vậy ở mọi thời đại, giáo dục
luôn vừa là điều kiện, vừa là động lực của sự phát triển xã hội và cá nhân.

ĐC: P301 nhà A - Số 290 – Tây Sơn - Đống Đa – Hà Nội

Page 17


TRUNG TÂM NGHIỆP VỤ SƢ PHẠM QUỐC GIA: 0985 86 86 55 – 043 22 52 677


ĐC: P301 nhà A - Số 290 – Tây Sơn - Đống Đa – Hà Nội

Page 18


TRUNG TÂM NGHIỆP VỤ SƢ PHẠM QUỐC GIA: 0985 86 86 55 – 043 22 52 677
CHƢƠNG 3: MỤC ĐÍCH VÀ NGUYÊN LÝ GIÁO DỤC
I. KHÁI NIỆM MỤC ĐÍCH, MỤC TIÊU GIÁO DỤC
1. Mục đích giáo dục
Mục đích giáo dục chính là mô hình lý tƣởng về sản phẩm giáo dục. Đó là mô hình khách
quan về nhân cách ngƣời học sinh mà nhà trƣờng và xã hội phải đào tạo, trong đó nêu lên những
thuộc tính cơ bản, những nét đặc trƣng cơ bản về một kiểu ngƣời phù hợp với yêu cầu của xã hội
trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Những yêu cầu thể hiện trong mục đích giáo dục chính là các
chuẩn mực, bao hàm các hệ thống giá trị về văn hóa, khoa học, kỹ thuật, về đạo đức, thẩm mỹ mà
xã hội cũng nhƣ thời đại đặt ra cho ngành giáo dục.
Mục đích giáo dục phản ánh kết quả mong muốn trong tƣơng lai của quá trình giáo dục. Vì
vậy, mục đích giáo dục còn là sản phẩm dự kiến của giáo dục, đƣợc xây dựng theo “đơn đặt
hàng‟ của xã hội về một kiểu ngƣời (kiểu nhân cách). Mục đích giáo dục phải đƣợc xây dựng
trƣớc khi tiến hành các hoạt động giáo dục cụ thể.
2. Mục tiêu giáo dục
Mục tiêu giáo dục là những tiêu chí, chỉ tiêu, những yêu cầu cụ thể đối với từng khâu,
từng nhiệm vụ, từng nội dung của quá trình giáo dục phải đạt đƣợc sau một hoạt động giáo dục.
Mục tiêu giáo dục là biểu hiện cụ thể của mục đích giáo dục (xét.trong hệ thống cấu trúc tầng
bậc: Mục đích giáo dục – mục tiêu giáo dục – yêu cầu – nhiệm vụ - mục tiêu môn học – mục
tiêu bài học). Mục tiêu giáo dục là những bậc thang nối tiếp nhau dẫn đến mục đích giáo dục,
khi các mục tiêu giáo dục đạt đƣợc có nghĩa là chúng ta đã tiệm cận tới mục đích giáo dục.
3. Mối quan hệ giữa mục đích và mục tiêu giáo dục
Mục đích giáo dục và mục tiêu giáo dục có mối quan hệ chặt chẽ, gắn bó, chi phối lẫn nhau.
“Hai khái niệm này đƣợc dùng trong lĩnh vực giáo dục, đồng thời nó cùng dùng trong một chu

trình, đều nói đến kết quả mong muốn đạt đƣợc của hoạt động giáo dục, giảng dạy, học tập”. Mục
đích giáo dục chủ yếu nói về sự hƣớng tới nơi muốn đến, kết quả mong muốn đạt đƣợc. Mục tiêu
giáo dục nói về kết quả cụ thể cần phải đạt đƣợc trong thực tế, cho nên mục tiêu phải cụ thể hơn
mục đích, Mục tiêu giáo dục phải đƣợc thiết kế sao cho đảm bảo chức năng chỉ đạo việc tổ chức
thực hiện các quá trình giáo dục, đồng thời đảm bảo chức năng đánh giá kết quả giáo dục một
cách chuẩn xác
Xét tổng quát, hai khái niệm này có nội hàm tƣơng tự, nhƣng khác nhau ở mức độ rộng,
hẹp và phạm vi, cấp độ vận dụng. Xuất phát từ mục đích giáo dục để xác định mục tiêu giáo dục,
nhƣng mục đích giáo dục sẽ đƣợc hoàn thiện ở sự thực hiện hệ thống các mục tiêu giáo dục.
Mục đích giáo dục có cấu trúc phức tạp do nhiều mục tiêu giáo dục tạo thành. Tuy nhiên,
mục đích giáo dục không phải là tổng số các mục tiêu giáo dục, không phải là phép cộng giản
đơn mà là một sự kết hợp có quy luật. Nhƣ vậy, vấn đề quan hệ giữa mục đích giáo dục và mục
tiêu giáo dục trong lý thuyết cũng nhƣ trong thực tiễn giáo dục có ý nghĩa hết sức quan trọng.
Cũng nhƣ nghiên cứu thiết kế các công trình là công việc trọng yếu của ngành xây dựng, trong
ngành giáo dục việc nghiên cứu cấu trúc mục đích, mục tiêu giáo dục và quy luật chuyển hóa
mục tiêu thành mục đích. Sự tác động của xã hội hiện đại tới mục đích, mục tiêu giáo dục giáo
dục có ý nghĩa hết sức quan trọng vì nó ảnh hƣởng rất lớn tới kết quả giáo dục và đào tạo.
II. MỤC TIÊU GIÁO DỤC VIỆT NAM
Những căn cứ để xác định mục tiêu giáo dục
Xác định mục tiêu giáo dục cần dựa trên những căn cứ sau:
- Xu thế phát triển của thời đại, xu thế phát triển giáo dục của các quốc gia trên thế giới và trong
khu vực.
- Chiến lƣợc phát triển kinh tế, văn hóa, khoa học và công nghệ quốc gia những yêu cầu về phát
triển nguồn nhân lực phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc hiện nay và
đủ sức cạnh tranh với nguồn nhân lực toàn cầu.
ĐC: P301 nhà A - Số 290 – Tây Sơn - Đống Đa – Hà Nội

Page 19



TRUNG TÂM NGHIỆP VỤ SƢ PHẠM QUỐC GIA: 0985 86 86 55 – 043 22 52 677
- Những điều kiện, tiềm năng kinh tế, văn hóa, khoa học, công nghệ cụ thể của đất nƣớc hiện nay
- Truyền thống văn hóa và bản sắc dân tộc Việt Nam, những tinh hoa, kinh nghiệm giáo dục đã
đạt đƣợc trong giai đoạn cách mạng và hai cuộc kháng chiến; đồng thời phải tiếp cận các giá trị
xã hội hiện đại
- Khả năng hiện có của hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam để biến những mong muốn lý
tƣởng thành hiện thực của nền giáo dục
- Nhu cầu và khả năng thực hiện của các đối tƣợng giáo dục, hay nói cách khác là nhu cầu, năng
lực hiện có của ngƣời đƣợc giáo dục theo các lứa tuổi khác nhau trong các ngành học, cấp học,
bậc học, trình độ đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân.
3. Mục tiêu giáo dục Việt Nam
Mục tiêu giáo dục là phạm trù phức tạp, có nhiều cấp độ, tạo thành một
“cây mục tiêu” và chúng phát triển liên tục, có thể phân tích mục tiêu giáo dục theo từng cấp độ.
3.1. Mục tiêu ở cấp độ tổng quát( Luật giáo dục)
3.2. Mục tiêu nhân cách
Trong lịch sử phát triển giáo dục nhân loại, tƣ tƣởng về mục đích, mục tiêu giáo dục đã
đƣợc các nhà giáo dục đề cập đến. Tƣ tƣởng này đƣợc phát triển qua các thời kỳ khác nhau của
lịch sử loài ngƣời, từ tƣ tƣởng của Arixtốt, Khổng tử đến các nhà xã hội không tƣởng thời kỳ văn
hóa Phục hƣng…Tuy vậy, phải đến giữa thế kỷ XIX, Các Mác và Ăngghen mới đƣa ra đƣợc
những cơ sở khoa học thực sự của giáo dục phát triển nhân cách toàn diện và từ đó trở thành mục
tiêu lý tƣởng của nền giáo dục xã hội chủ nghĩa.
Nền giáo dục Việt Nam luôn luôn coi trọng việc xây dựng con ngƣời phát triển toàn diện,
con ngƣời vừa có đức, vừa có tài, hồng thắm chuyên sâu. Tháng 9 năm 1945 trong thƣ gửi học
sinh nhân ngày khai trƣờng đầu tiên của nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã tuyên bố: Các thế hệ thanh thiếu niên của chúng ta từ nay sẽ đƣợc hƣởng một nền giáo
dục của một nƣớc độc lập, một nền giáo dục sẽ đào tạo các cháu nên những ngƣời công dân có
ích cho nƣớc Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của
các cháu”
Từ đó đến nay, mục tiêu giáo dục nhân cách của nƣớc ta qua các thời kỳ lịch sử khác nhau đã
đƣợc xác định rõ trong các Văn kiện của Đảng, từ Cƣơng lĩnh của Đảng năm 1930 đến Văn kiện

Đại hội Đảng lần thứ IX năm 2001.
Trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc, mô hình nhân
cách con ngƣời Việt nam đã đƣợc xác định trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ Hai Ban chấp hành
Trung ƣơng Đảng khóa VIII là: “… xây dựng những con ngƣời và thế hệ thiết tha, gắn bó với lý
tƣởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cƣờng xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nƣớc, gìn giữ và phát huy các giá trị văn
hóa dân tộc, có năng lực hấp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; phát huy tiềm năng của dân tộc và
con ngƣời Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ. Có tri
thức khoa học và công nghệ hiện đại, có tƣ duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong
công nghiệp, có tính tổ chức kỷ luật, có sức khỏe, là những ngƣời thừa kế xây dựng chủ nghĩa xã
hội vừa “hồng” vừa “chuyên” nhƣ lời căn dặn của Bác Hồ”.
3.3. Mục tiêu ở cấp độ hệ thống giáo dục
Chúng ta biết rằng xuất phát từ mục đích giáo dục để xác định mục tiêu giáo dục cho từng bậc
học, cấp học, ngành học. Mục đích sẽ đƣợc thực hiện nếu các cấp học, bậc học, ngành học, trình
độ đào tạo thực hiện tốt mục tiêu giáo dục. Mục tiêu ở các cấp độ hệ thống giáo dục đƣợc cụ thể
hóa nhƣ sau:
3.3.1. Mục tiêu giáo dục mầm non (Điều 22, Luật giáo dục)
3.3.2. Mục tiêu của giáo dục phổ thông( Điều 27, Luật giáo dục )
3.3.3. Mục tiêu của giáo dục nghề nghiệp( Điều 33, Luật giáo dục)
ĐC: P301 nhà A - Số 290 – Tây Sơn - Đống Đa – Hà Nội

Page 20


TRUNG TÂM NGHIỆP VỤ SƢ PHẠM QUỐC GIA: 0985 86 86 55 – 043 22 52 677
3.3.4. Mục tiêu của giáo dục đại học: (Điều 39, Luật giáo dục
III. NGUYÊN LÝ GIÁO DỤC
1. Khái niệm về nguyên lý giáo dục
Khái niệm nguyên lý giáo dục sẽ dễ dàng đƣợc tiếp cận nếu chúng ta hiểu rõ khái niệm
nguyên lý nói chung

Nguyên lý là những luận điểm chung nhất, có tính quy luật của một lý thuyết khoa học, có
vai trò chỉ đạo hoạt động thực tiễn trong lĩnh vực đó. Ví dụ nhƣ nguyên lý vận hành hệ thống
thiết bị, nguyên lý tổ chức xã hội hay nguyên lý giáo dục. Nên khi nói nguyên lý đó chính là
những luận điểm chung có tính quy luật của lý thuyết cơ học, lý thuyết xã hội học hay lý thuyết
giáo dục…; nắm vững các nguyên lý đó ta sẽ tổ chức các hoạt động thực tiễn một cách thuận
lợi và đạt hiệu quả.
Nguyên lý giáo dục là những luận điểm chung nhất, có tính quy luật của lý thuyết giáo
dục, có vai trò định hƣớng, chỉ đạo các hoạt động giáo dục trong nhà trƣờng.
Theo Từ điển Giáo dục học: Nguyên lý giáo dục là nguyên tắc cơ bản nhất chi phối toàn
bộ hoạt động giáo dục, chỉ đạo việc xác định những nhiệm vụ giáo dục cụ thể, việc lựa chọn nội
dung, hình thức, phƣơng pháp, tổ chức giáo dục và dạy học nhằm đảm bảo thực hiện tốt mục
tiêu của giáo dục là đào tạo có chất lƣợng những ngƣời lao động xã hội chủ nghĩa và bồi dƣỡng
thế hệ cách mạng cho đời sau…
3. Nội dung nguyên lý giáo dục
Điều 3, Luật giáo dục (2005) của nƣớc Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam đã ghi: “Hoạt
động giáo dục phải đƣợc thực hiện theo nguyên lý học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao
động sản xuất, lý luận gắn liền với thực tiễn, giáo dục nhà trƣờng kết hợp với giáo dục gia đình
và giáo dục xã hội”.
Đây chính là luận điểm giáo dục quan trọng của Đảng và Nhà nƣớc ta, là kim chỉ nam
hƣớng dẫn toàn bộ các hoạt động thực tiễn giáo dục trong nhà trƣờng và trong xã hội.

ĐC: P301 nhà A - Số 290 – Tây Sơn - Đống Đa – Hà Nội

Page 21


TRUNG TÂM NGHIỆP VỤ SƢ PHẠM QUỐC GIA: 0985 86 86 55 – 043 22 52 677
PHẦN 2
LÝ LUẬN VÀ TỔ CHỨC QUÁ TRÌNH DẠY HỌC
CHƢƠNG 4

QUÁ TRÌNH DẠY HỌC
I. KHÁI QUÁT VỀ QUÁ TRÌNH DẠY HỌC
1. Khái niệm quá trình dạy học
Quá trình dạy học là một quá trình dƣới sự lãnh đạo, tổ chức, điều khiển của ngƣời
giáo viên, ngƣời học tự giác, tích cực, chủ động, sáng tạo tự tổ chức, tự điều khiển hoạt
động nhận thức – học tập của mình nhằm thực hiện tối ƣu những nhiệm vụ dạy học.
2. Đặc điểm của quá trình dạy học
- Hoạt động học tập của học sinh được tích cực hoá trên cơ sở nội dung dạy học ngày càng được
hiện đại hoá.
- Học sinh hiện nay có vốn sống và năng lực nhận thức phát triển hơn so với học sinh cùng độ
tuổi trước kia
- Trong quá trình học tập hiện nay, nhu cầu hiểu biết của học sinh có xu hướng vượt ra khỏi nội
dung tri thức, kỹ năng do chương trình quy định
- Quá trình dạy học hiện nay được tiến hành trong điều kiện cơ sở vật chất, phương tiện dạy học
ngày càng hiện đại
II. BẢN CHẤT CỦA QUÁ TRÌNH DẠY HỌC
1. Cơ sở xác định bản chất của quá trình dạy học
- Căn cứ vào các lý thuyết học tập- cơ sở tâm lý của việc dạy học;
- Dựa vào hai mối quan hệ cơ bản để xác định bản chất của quá trình dạy học:
+ Mối quan hệ giữa hoạt động nhận thức có tính chất lịch sử xã hội loài ngƣời (thể hiện ở hoạt động
nghiên cứu của các nhà khoa học) với hoạt động dạy học.
Trong quá trình phát triển của lịch sử xã hội thì hoạt động nhận thức có trƣớc, hoạt
động dạy học có sau. Hoạt động học tập của học sinh chính là hoạt động nhận thức trong môi
trƣờng dạy học (môi trƣờng sƣ phạm).
+ Mối quan hệ giữa dạy và học, giữa giáo viên và học sinh.
Quá trình dạy học là quá trình tác động qua lại giữa giáo viên và học sinh. Xét cho
cùng thì mọi tác động giữa giáo viên và học sinh đều nhằm thúc đẩy hoạt động nhận thức
của học sinh. Kết quả dạy học phản ánh tập trung ở kết quả nhận thức của học sinh, cụ thể ở
sự chiếm lĩnh hệ thống tri thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo, phát triển trí tuệ, qua đó mà
hoàn thiện nhân cách bản thân ngƣời học.

2. Bản chất của quá trình dạy học
Từ trƣớc tới nay, đã có các quan niệm khác nhau về bản chất của quá trình dạy học. Các
quan niệm này xuất phát từ các cách lý giải về cơ chế của việc học tập. Có thể khái quát bản chất
của quá trình dạy học theo cách tiếp cận của ba lý thuyết học tập chính: Thuyết hành vi, thuyết
nhận thức và thuyết kiến tạo.
2.1. Theo thuyết hành vi (Behavorism): Dạy học là quá trình thay đổi hành vi của người học
Dựa trên lý thuyết phản xạ có điều kiện của Pavlov, năm 1913, nhà Tâm lý học ngƣời Mỹ
Watson đã xây dựng lý thuyết hành vi (Behavorism), giải thích cơ chế tâm lý của việc học tập.
Thorndike (1864- 1949), Skinner (1904- 1990) và nhiều tác giả khác đã tiếp tục phát triển các mô
hình khác nhau của thuyết hành vi.
Quan niệm cơ bản của thuyết hành vi:
- Các lý thuyết hành vi giới hạn việc nghiên cứu cơ chế học tập vào các hành vi bên ngoài có thể
quan sát khách quan bằng thực nghiệm;
- Không quan tâm tới các quá trình tâm lý bên trong nhƣ cảm giác, tri giác, tƣ duy vì không thể
ĐC: P301 nhà A - Số 290 – Tây Sơn - Đống Đa – Hà Nội

Page 22


TRUNG TÂM NGHIỆP VỤ SƢ PHẠM QUỐC GIA: 0985 86 86 55 – 043 22 52 677
quan sát đƣợc. Bộ não đƣợc coi là một hộp đen;
- Thuyết hành vi cổ điển (Watson): Học tập là tác động qua lại giữa kích thích và phản ứng (S-R)
nhằm thay đổi hành vi. Vì vậy, dạy học cần tạo ra những kích thích nhằm tạo ra những hứng
phấn, từ đó có các phản ứng học tập và thông qua đó thay đổi hành vi ở ngƣời học.
- Thuyết hành vi Skinner: Khác với thuyết hành vi cổ điển, thuyết hành vi của Skinner không chỉ
quan tâm đến kích thích- phản ứng mà đặc biệt nhấn mạnh mối liên hệ giữa hành vi và hệ quả của
chúng (S-R-C). Những hệ quả của hành vi này có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh hành vi
học tập của học sinh.

Mô hình dạy học theo thuyết hành vi:


GV đưa thông tin

Học sinh

đầu vào

GV kiểm tra kết quả
đầu ra ( phản ứng
của HS)

Từ quan niệm cơ bản của thuyết hành vi, có thể tóm tắt bản chất của việc dạy học như sau:
- Dạy học đƣợc định hƣớng theo các hành vi đặc trƣng có thể quan sát đƣợc;
- Các quá trình học tập phức tạp đƣợc chia thành một chuỗi các bƣớc học tập đơn giản, trong đó
bao gồm các hành vi cụ thể. Những hành vi phức tạp đƣợc xây dựng thông qua sự kết hợp các
bƣớc học tập đơn giản;
- Giáo viên hỗ trợ và khuyến khích những hành vi đúng của ngƣời học, tức là sẽ sắp xếp giảng
dạy sao cho ngƣời học đạt đƣợc hành vi mong muốn mà sẽ đƣợc đáp lại trực tiếp (khen thƣởng và
công nhận);
- Giáo viên thƣờng xuyên điều chỉnh và giám sát quá trình học tập để kiểm soát tiến bộ học tập và
kiểm soát sai lầm.
Thuyết hành vi đƣợc ứng dụng đặc biệt trong dạy học chƣơng trình hóa, dạy học đƣợc hỗ
trợ bằng máy vi tính, trong dạy học thông báo tri thức và huấn luyện thao tác. Tuy nhiên, thuyết
hành vi cũng bộc lộ những hạn chế sau:
- Thuyết hành vi chỉ chú ý đến các kích thích từ bên ngoài, tuy nhiên, hoạt động học tập thực ra
không chỉ do các kích thích từ bên ngoài mà còn là sự chủ động bên trong của chủ thể nhận thức;
- Quá trình nhận thức bên trong của chủ thể nhận thức, đặc biệt là tƣ duy đóng vai trò quan trọng
trong học tập thì thuyết hành vi chƣa chú ý đến;
- Việc chia quá trình học tập thành chuỗi các hành vi đơn giản chƣa tạo ra hiểu biết đầy đủ đối
với các mối quan hệ tổng thể.

2.2. Thuyết nhận thức (Cognitivism): Dạy học là quá trình giúp người học phát triển khả
năng nhận thức, đặc biệt là phát triển tư duy
Thuyết nhận thức ra đời nửa đầu thế kỷ 20 và phát triển mạnh trong nửa sau thế kỷ 20.
Các đại diện lớn của thuyết này là nhà Tâm lý học ngƣời Áo Piagie cũng nhƣ các nhà Tâm lý học
Xô Viết nhƣ Vƣgoxki, Leonchep...
Quan điểm cơ bản của các tác giả theo thuyết nhận thức là:
- Các lý thuyết nhận thức nghiên cứu quá trình nhận thức bên trong với tƣ cách là một quá trình
xử lý thông tin. Bộ não xử lý các thông tin tƣơng tự nhƣ một hệ thống kỹ thuật;
- Quá trình nhận thức là quá trình có cấu trúc và có ảnh hƣởng đến hành vi. Con ngƣời tiếp thu
các thông tin bên ngoài, xử lý và đánh giá chúng, từ đó quyết định các hành vi ứng xử;
- Trung tâm của lý thuyết nhận thức là các hoạt động trí tuệ: xác định, phân tích và hệ thống hóa
các sự kiện và hiện tƣợng, nhớ lại những kiến thức đã học, giải quyết các vấn đề, hình thành ý
tƣởng mới;
ĐC: P301 nhà A - Số 290 – Tây Sơn - Đống Đa – Hà Nội

Page 23


TRUNG TÂM NGHIỆP VỤ SƢ PHẠM QUỐC GIA: 0985 86 86 55 – 043 22 52 677
- Cấu trúc nhận thức của con ngƣời không phải bẩm sinh mà hình thành qua kinh nghiệm;
- Mỗi ngƣời có cấu trúc nhận thức riêng. Vì vậy, muốn có sự thay đổi với một ngƣời thì cần có
tác động phù hợp nhằm thay đổi nhận thức của ngƣời đó;
- Con ngƣời có thể tự điều chỉnh quá trình nhận thức: tự đặt mục đích, xây dựng kế hoạch và thực
hiện. Trong đó có thể tự quan sát, tự đánh giá, tự hƣng phấn, không cần kích thích từ bên ngoài.
Mô hình dạy học theo thuyết nhận thức:

Thông tin
đầu vào

Học sinh


Kết quả đầu ra

(Quá trình nhận thức:
Phân tích, tổng hợp,

Từ quan niệm cơ bản của thuyết nhận thức,có
tóm hóa…)
tắt bản chất việc dạy học như sau:
kháithể
quát
- Dạy học không chỉ hƣớng tới kết quả học tập cuối cùng mà quá trình học tập và tƣ duy của
ngƣời học cũng là điều quan trọng;
- Nhiệm vụ của ngƣời dạy là tạo ra môi trƣờng học tập thuận lợi, thƣờng xuyên khuyến khích các
quá trình tƣ duy của ngƣời học;
- Các quá trình tƣ duy không thực hiện thông qua các vấn đề nhỏ mà thông qua việc đƣa ra các
nội dung học tập phức hợp;
- Các phƣơng pháp học tập có vai trò quan trọng;
- Việc học tập thực hiện trong nhóm có ý nghĩa quan trọng, giúp tăng cƣờng những khả năng về
mặt xã hội;
- Cần có sự cân bằng giữa những nội dung do giáo viên truyền đạt và những nhiệm vụ tự lực của
ngƣời học.
Thuyết nhận thức đƣợc thừa nhận và ứng dụng rộng rãi trong dạy học, đặc biệt là trong
việc đổi mới phƣơng pháp dạy học theo hƣớng phát huy tính tích cực của ngƣời học. Tuy nhiên,
việc vận dụng thuyết nhận thức cũng có những giới hạn: việc dạy học nhằm phát triển tƣ duy cho
ngƣời học đòi hỏi nhiều thời gian và đòi hỏi cao ở sự chuẩn bị cũng nhƣ năng lực của giáo viên.
Ngoài ra, cấu trúc tƣ duy không quan sát trực tiếp đƣợc nên những mô hình dạy học tối ƣu hóa
quá trình nhận thức cũng mang tính giả thuyết.
2.3. Thuyết kiến tạo (Constructionalism): Dạy học là quá trình tạo cơ hội, điều kiện cho người
học trải nghiệm để tự tìm hiểu, tự kiến tạo nên tri thức

Tƣ tƣởng dạy học kiến tạo đã có từ lâu, nhƣng lý thuyết kiến tạo đƣợc phát triển từ những
năm 60 của thế kỷ 20, đƣợc đặc biệt chú ý từ cuối thế kỷ 20. J. Piagie, Vƣgoxki cũng đồng thời là đại
diện tiên phong của thuyết kiến tạo. Thuyết kiến tạo có thể coi là bƣớc phát triển tiếp theo của thuyết
nhận thức.
Quan niệm cơ bản của thuyết kiến tạo là:
- Tri thức đƣợc xuất hiện thông qua việc chủ thể nhận thức tự cấu trúc vào bên trong của mình, tri
thức mang tính chủ quan;
- Với việc nhấn mạnh vai trò chủ thể nhận thức trong việc giải thích và kiến tạo tri thức, thuyết
kiến tạo thuộc lý thuyết chủ thể;
- Cần tổ chức sự tƣơng tác giữa ngƣời học và đối tƣợng học tập để giúp ngƣời học xây dựng
thông tin mới vào cấu trúc tƣ duy của chính mình, đã đƣợc chủ thể điều chỉnh. Học không chỉ là
khám phá, mà còn là sự giải thích, cấu trúc mới tri thức.
Mô hình dạy học theo thuyết kiến tạo:

ĐC: P301 nhà A - Số 290 – Tây Sơn - Đống Đa – Hà Nội

Page 24


TRUNG TÂM NGHIỆP VỤ SƢ PHẠM QUỐC GIA: 0985 86 86 55 – 043 22 52 677

GV tạo môi trường và nội dung
học tập phức hợp

Học sinh

Nội dung
học tập

Học sinh


Theo thuyết kiến tạo, việc dạy Môi
học cótrường
các đặc điểm
họcsau:
tập
- Không có kiến thức khách quan tuyệt đối, kiến thức là một quá trình và sản phẩm đƣợc kiến tạo
theo từng cá nhân;
Môi
tập
- Về mặt nội dung, dạy học phải
địnhtrường
hƣớng theohọc
những
lĩnh vực và vấn đề phức hợp, gần với cuộc
sống và nghề nghiệp, đƣợc khảo sát một cách tổng thể;
- Việc học tập chỉ có thể đƣợc thực hiện trong một quá trình tích cực, vì chỉ từ những kinh
nghiệm và kiến thức mới của bản thân thì mới có thể thay đổi và cá nhân hóa những kiến thức và
khả năng đã có;
- Học tập trong nhóm có ý nghĩa quan trọng, góp phần cho ngƣời học tự điều chỉnh sự học tập của
bản thân mình;
- Học qua sai lầm là điều rất có ý nghĩa;
- Các lĩnh vực học tập cần định hƣớng vào hứng thú ngƣời học, vì có thể học hỏi dễ nhất từ
những kinh nghiệm mà ngƣời ta thấy hứng thú hoặc có tính thử thách;
- Thuyết kiến tạo không chỉ giới hạn ở những khía cạnh nhận thức của việc dạy và học. Sự học
tập hợp tác đòi hỏi và khuyến khích phát triển không chỉ có lý trí, mà cả về mặt tình cảm, giao
tiếp;
- Mục đích học tập là xây dựng kiến thức của bản thân, nên khi đánh giá các kết quả học tập
không chỉ định hƣớng theo các sản phẩm học tập, mà cần kiểm tra những tiến bộ trong quá trình
học tập và trong những tình huống học tập phức tạp.

Thuyết kiến tạo ngày càng đƣợc chú ý trong thời gian gần đây. Thuyết kiến tạo thách thức
một cách cơ bản tƣ duy truyền thống về dạy học. Không phải ngƣời dạy, mà ngƣời học trong sự
tƣơng tác với các nội dung học tập sẽ nằm trong tâm điểm của quá trình dạy học. Nhiều quan
điểm dạy học mới bắt nguồn từ thuyết kiến tạo: Học tập tự điều khiển, học theo tình huống, học
nhóm, học tƣơng tác, học từ sai lầm...
Tuy nhiên, thuyết kiến tạo cũng bộ lộ những hạn chế, đó là:
- Quan điểm cực đoan trong thuyết kiến tạo phủ nhận sự tồn tại của tri thức khách quan;
- Một số tác giả nhấn mạnh rằng chỉ có thể học tập có ý nghĩa những gì ta quan tâm. Tuy nhiên,
ĐC: P301 nhà A - Số 290 – Tây Sơn - Đống Đa – Hà Nội

Page 25


×