Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

CẬP NHẬT THUẬT NGỮ VÀ PHÂN LOẠI CO GIẬT VÀ ĐỘNG KINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (342.45 KB, 12 trang )

PHÂN LOẠI CO GIẬT VÀ ĐỘNG KINH
ThS. Bs. Phạm Văn Phong
1. ĐẠI CƯƠNG
 Bệnh động kinh (Epilepsy) được định nghĩa là một rối loạn của não đặc trưng bởi một khuynh hướng
lâu dài (enduring predisposition) đối với cơn động kinh (epileptic seizures). Nó là một tình trạng
không đồng nhất được đặc trưng bởi nhiều loại và hội chứng co giật, nguyên nhân đa dạng và tiên
lượng thay đổi. Phân loại chính xác là điều cần thiết vì nhiều lý do [2]:
- Để cung cấp một lưu đồ cho việc hiểu (các) loại co giật của bệnh nhân, các loại khác có khả năng xảy
ra, các yếu khởi kích co giật tiềm tàng và tiên lượng.
- Để đưa ra nguy cơ bệnh đi kèm (như tâm thần, nhận thức) và tử vong, bao gồm đột tử trong bệnh
động kinh.
- Hướng dẫn lựa chọn thuốc điều trị tối ưu và phẫu thuật.
 Qua nhiều thập kỷ, những tiến bộ đáng kể trong hình ảnh thần kinh, công nghệ gen và sinh học phân tử đã
cải thiện hiểu biết về bệnh sinh của co giật và động kinh. Ngoài ra, hội chứng động kinh bổ sung đã được
mô tả. Do đó, hệ thống phân loại của Liên đoàn quốc tế chống động kinh (International League Against
Epilepsy, ILAE) hiện có đối với các cơn co giật và động kinh đã trở nên lỗi thời và không đầy đủ [2].
 Ủy ban ILAE về phân loại và thuật ngữ đã đề xuất những thay đổi đáng kể đối với hệ thống phân loại
năm 1989 vào năm 2010 và tiến hành các sửa đổi thêm vào năm 2017. Lưu đồ hiện tại cho phép chẩn
đoán ở 4 cấp độ (level), tùy thuộc vào thông tin và nguồn có sẵn, và cũng đề cập đến khái niệm rộng về
nguyên nhân và các bệnh kèm theo ở tất cả các level (Lưu đồ 1). Trong các bệnh cảnh ít thông tin với
việc tiếp cận hạn chế về điện não đồ (EEG), hình ảnh thần kinh, hay các nghiên cứu di truyền và chuyển
hóa chuyên biệt, hoặc trong các tình huống có bệnh sử hạn chế, mức chẩn đoán tối đa có thể chỉ giới
hạn ở loại co giật (Seizure type, level 1). Ngược lại, mức độ chẩn đoán cao hơn có thể có với bệnh sử
chi tiết hơn và test sẵn có tốt hơn [2].
 Phân loại động kinh của ILAE đã được cập nhật phản ánh thành quả về hiểu biết về các động kinh và cơ
chế cơ bản của chúng sau các tiến bộ khoa học chính đã diễn ra kể từ lần phân loại cuối cùng năm 1989.
 Như là một công cụ quan trọng đối với các bác sĩ thực hành, phân loại động kinh phải thích hợp và cơ
động để thay đổi tư duy, nhưng thiết thực và có thể áp dụng cho tất cả các nơi trên thế giới. Mục đích
chính là để chẩn đoán bệnh nhân, nhưng cũng rất quan trọng đối với nghiên cứu động kinh, phát triển
các liệu pháp chống động kinh, và truyền đạt/thông báo trên toàn thế giới. Phân loại mới bắt nguồn từ
tài liệu dự thảo được đưa ra cho ý kiến rộng rãi vào năm 2013, được sửa đổi để kết hợp phản hồi sâu


rộng từ cộng đồng động kinh quốc tế qua nhiều vòng tham luận. Phân loại có 3 cấp độ (level), bắt đầu
với loại co giật (seizure type), tức giả định rằng bệnh nhân đang có cơn động kinh và không có nghĩa
phải là một lưu đồ chẩn đoán để phân biệt động kinh với không động kinh. Co giật như xác định bởi
phân loại mới ILAE 2017 về co giật, chia thành khởi phát khu trú, toàn thể và không rõ. Sau khi chẩn
đoán loại co giật, bước tiếp theo là chẩn đoán loại động kinh (epilepsy type), bao gồm động kinh khu
trú, bệnh động kinh toàn thể, kết hợp động kinh toàn thể và khu trú, và cũng như nhóm động kinh
không xác định (unknown). Mức độ thứ ba là hội chứng động kinh (epilepsy syndrome), tức có thể thực
hiện chẩn đoán hội chứng cụ thể. Phân loại mới kết hợp nguyên nhân theo từng giai đoạn, nhấn mạnh
sự cần thiết phải xem xét nguyên nhân ở mỗi bước chẩn đoán, vì nó thường mang lại những liên quan
điều trị đáng kể. Nguyên nhân được chia thành 6 phân nhóm, được chọn vì kết quả điều trị tiềm tàng
của nó. Thuật ngữ mới được đưa ra như bệnh não phát triển và động kinh (developmental and epileptic
encephalopathy). Thuật ngữ lành tính được thay thế bằng các thuật ngữ tự giới hạn và đáp ứng thuốc,
được sử dụng khi thích hợp. Hy vọng rằng lưu đồ mới này sẽ giúp hỗ trợ trong việc cải thiện việc chăm
sóc và nghiên cứu động kinh trong thế kỷ 21 [6].


Lưu đồ 1. Phân loại co giật và động kinh theo ILAE 2017 [3],[6]
2. CÁC THUẬT NGỮ
 Co giật (Seizure) là sự xuất hiện thoáng qua của các dấu hiệu và/hoặc các triệu chứng do hoạt động
thần kinh quá mức hoặc đồng bộ bất thường trong não [3]. Về mặt thuật ngữ chúng ta cần phân biệt rõ
sự khác nhau của các từ dùng để chỉ cơn co giật như: seizure, convulsion và epilepsy [1]:
- Seizure là cơn kịch phát xảy ra đột ngột do hoạt động điện bùng phát không tự ý của não, cơn có thể
là cơn co giật liên quan đến hoạt động không tự ý của các cơ vân, hoặc cơn không liên quan đến co
giật của cơ như cơn vắng ý thức, cơn rối loạn tâm thần, cảm giác hoặc hệ tự chủ.
- Convulsion (convulsive seizure) là một hoặc một chuỗi sự co cơ không tự ý của các cơ vân.
- Epilepsy là nghĩ đến động kinh khi có seizure không có yếu tố kích gợi tái đi tái lại.
Trong phạm vi các bài nói về dùng từ co giật để chỉ seizure, mặc dù không phải seizure nào cũng là
convulsive seizure (tức là cơn giật cơ không tự ý) [1].
 Co giật triệu chứng cấp tính (Acute symptomatic seizures) hay co giật có yếu tố kích gợi (provoked
seizure) xảy ra thứ phát sau một vấn đề cấp tính ảnh hưởng đến kích thích não như rối loạn điện giải.

Hầu hết trẻ bị các loại co giật này đều bình thường. Tuy nhiên, đôi khi các cơn co giật này báo hiệu các
rối loạn về cấu trúc, viêm hoặc chuyển hóa chính của não như viêm màng não, viêm não, đột quỵ cấp
tính hoặc u não. Do đó, tiên lượng phụ thuộc vào rối loạn nền, gồm khả năng hồi phục hay điều trị và
khả năng tiến triển động kinh [4]. Nghiên cứu dựa trên dân số cho thấy rằng 25-30% cơn co giật đầu
tiên là cơn co giật có yếu tố kích gợi [1]. Co giật không có yếu tố kích gợi (unprovoked seizure) là một
trong số đó nhưng không phải là co giật triệu chứng cấp tính [4]. Một co giật không có yếu tố kích gợi,
đặc biệt là khi có cơn tái phát, thường hướng chúng ta đến một chẩn đoán động kinh [1].
 Co giật trong bệnh cảnh có sốt có thể do nhiễm trùng hệ thần kinh trung ương (viêm màng não, viêm
não, abscess não), động kinh chưa phát hiện khởi kích bởi sốt, hoặc co giật do sốt (febrile seizures). Co
giật do sốt được định nghĩa là co giật xảy ra khi đang sốt. Co giật do sốt đơn giản (Simple febrile
seizures) hay sốt co giật lành tính thường khởi phát lan tỏa, toàn thân, ngắn dưới 15 phút và chỉ một
lần trong 24 giờ ở trẻ phát triển tâm thần kinh bình thường. Nếu co giật khu trú, kéo dài trên 15 phút
hoặc tái phát trong vòng 24 giờ, hay trẻ có bất thường thần kinh thì gọi là co giật do sốt không điển
hình hay phức tạp (complex or atypical febrile seizure) .
 Co giật triệu chứng xa (Remote symptomatic seizure) là dạng co giật thứ phát sau một tổn thương não
xa như đột quỵ cũ [4].
 Co giật phản xạ (Reflex seizures) thường bị khởi kích bởi là một kích thích cảm giác như đèn flash [4].
 Rối loạn co giật (Seizure disorder) là một thuật ngữ chung thường dùng để chỉ bất kì rối loạn nào như
động kinh, co gật do sốt, có thể là co giật đơn thuần và co giật triệu chứng thứ phát sau nhiễm trùng, rối
loạn chuyển hóa hay các bệnh nguyên khác (như hạ calci máu, viêm màng não) [4].
 Cơn động kinh (Epileptic seizure) là biểu hiện lâm sàng của sự phóng điện bất thường, kịch phát, quá
mức và đồng bộ của một nhóm các nơron của não bộ. Cơn động kinh thường xảy ra cấp tính, đột ngột,
nhất thời và rất đa dạng, liên quan đến chức năng vùng não phóng điện bất thường với nhiều biểu hiện













lâm sàng khác nhau về vận động, cảm giác, biến đổi ý thức, hành vi, tâm thần, triệu chứng tự động, giác
quan,… Trong cơn, bệnh nhân có thể còn hay mất ý thức. Đặc điểm của triệu chứng trong cơn thì bị
quy định bởi vùng não bộ có nơron cho phóng lực bất thường, ví dụ như co giật cục bộ nửa người nếu ổ
động kinh nằm ở vỏ não vận động đối bên. Cần lưu ý rằng điện não đồ có thể phát hiện những biểu lộ
điện của các phóng lực bất thường ở những người không hề có biểu lộ lâm sàng của động kinh; quan
điểm thống nhất hiện nay không xem các trường hợp đó là có cơn động kinh [3]. Theo phân loại quốc tế
về co giật động kinh (ICES - The International Classification of Epileptic Seizures) chia cơn động kinh
làm 2 nhóm lớn:
- Co giật khu trú (focal seizures), trước đây là co giật cục bộ (partial seizures) là thay đổi lâm sàng và
điện não đồ (EEG) lần đầu cho thấy sự kích hoạt ban đầu của hệ thần kinh chỉ giới hạn ở một phần
của bán cầu não. Thuật ngữ co giật cục bộ đơn giản (simple partial seizures) là một phân loại cũ, để
chỉ co giật khu trú không thay đổi tri giác, trong khi co giật cục bộ phức tạp (complex partial
seizures), hiện vẫn được sử dụng để chỉ rối loạn nhận thức khu trú (focal dyscognitive), tức là co giật
khu trú có thay đổi nhận biết xung quanh [4].
- Co giật toàn thể (generalized seizures), với các thay đổi lâm sàng và EEG đầu tiên chỉ sự tổn thương
đồng bộ cả hai bán cầu não (dù không nhất thiết phải toàn bộ vỏ não). Khoảng 30% bệnh nhân bị co
giật không sốt lần đầu sẽ có động kinh sau này; nguy cơ khoảng 20% nếu khám thần kinh, EEG và
hình ảnh não bình thường [4].
Động kinh (Epilepsy) là một rối loạn của não được đặc trưng bởi khuynh hướng/bẩm chất lâu dài
(enduring predisposition) với tạo ra co giật và bởi các hậu quả thần kinh, nhận thức, tâm lý và xã hội
của tình trạng này. Động kinh là thuật ngữ dùng để chỉ một tình huống trong đó người bệnh dễ bị đi bị
lại nhiều cơn động kinh. Chẩn đoán lâm sàng động kinh thường đòi hỏi sự xuất hiện của ít nhất 1 cơn co
giật động kinh không có yếu tố khởi kích với một giây như co giật hoặc EEG và thông tin lâm sàng đủ
để chứng minh cơ địa nhạy cảm để tiến triển tái phát. Đối với dịch tễ học và thường đối với mục đích
lâm sàng, được coi là động kinh khi có 2 hoặc nhiều cơn co giật không có yếu tố kích gợi xảy ra trong

thời gian dài trên 24 giờ. Khoảng 4-10% trẻ có ít nhất 1 cơn co giật (sốt hoặc không sốt) trong 16 năm
đầu đời. Tỉ lệ sống tích lũy của bệnh động kinh là 3%, và hơn 50% trường hợp bắt đầu từ thời thơ ấu. Tỉ
lệ mắc hàng năm là 0,5-1,0%. Vì vậy, sự xuất hiện của một cơn co giật đơn hoặc co giật do sốt không
nhất thiết ngụ ý chẩn đoán động kinh [4].
Hội chứng động kinh (Epileptic syndrome) là một rối loạn biểu hiện một hoặc nhiều loại co giật đặc
trưng, có tuổi khởi phát nhất định và có tiên lượng nhất định. Phân loại này để phân biệt với cơn động
kinh là một biến cố đơn thuần hơn là một hội chứng lâm sàng. Nói chung, loại co giật là yếu tố quyết
định chính của loại thuốc mà bệnh nhân có khả năng đáp ứng và hội chứng động kinh xác định loại tiên
lượng có thể mong đợi [4].
Động kinh vô căn (Idiopathic epilepsy) là thuật ngữ cũ để chỉ hội chứng động kinh do di truyền hoặc
giả định là di truyền và không có rối loạn tiềm ẩn tác động đến sự phát triển hoặc chức năng thần kinh
khác (như động kinh cơn nhỏ). Trong phân loại của ILAE về căn nguyên động kinh, động kinh vô căn
được thay thế bằng thuật ngữ động kinh di truyền (genetic epilepsy) để chỉ hội chứng động kinh là kết
quả trực tiếp của một khiếm khuyết di truyền được biết hoặc được cho là khiếm khuyết di truyền trong
đó khiếm khuyết di truyền không phải là nguyên nhân của một rối loạn cấu trúc hay chuyển hóa của não
ngoài bệnh động kinh [4].
Động kinh triệu chứng (Symptomatic epilepsy) cũng là một thuật ngữ cũ để chỉ hội chứng động kinh
gây ra bởi một rối loạn não tiềm ẩn có thể do di truyền hoặc không do di truyền (như động kinh sau xơ
cứng đa u hoặc một đột quỵ cũ); loại động kinh này được gọi là động kinh do chuyển hóa hay cấu
trúc (structural/metabolic epilepsy) gây ra bởi một tổn thương thực thể về cấu trúc hay chuyển hóa rõ
ràng làm tăng nguy cơ co giật và gây động kinh. Thuật ngữ cũ hơn là động kinh căn nguyên ẩn
(cryptogenic epilepsy) hay được coi là động kinh triệu chứng, là một hội chứng động kinh trong đó có
rối loạn tiềm ẩn của não gây động kinh và gây ảnh hưởng chức năng thần kinh nhưng không biết rối
loạn tiềm ẩn; loại động kinh này được gọi là động kinh không rõ nguyên nhân (unknown epilepsy),
để chỉ nguyên nhân tiềm ẩn của động kinh vẫn chưa biết [4].
Thuật ngữ bệnh lý não động kinh (Epileptic encephalopathy) áp dụng cho các cơn động kinh có các
đặc điểm bệnh lý não có thể xuất hiện hoặc làm nặng hơn sau khi khởi phát động kinh. Điều này có
nghĩa là hoạt động động kinh đang tiếp diễn làm ảnh hưởng xấu đến nhận thức và hành vi, ngoài những
gì có thể được gán cho nguyên nhân tiềm ẩn, nếu có hiện diện (như loạn sản vỏ não). Bản thân khái
niệm này là sự giảm hoạt động dạng động kinh có khả năng cải thiện hậu quả phát triển của rối loạn



này. Tuy nhiên, nhiều nguyên nhân của bệnh não động kinh cũng dẫn đến làm chậm và thoái triển nhận
thức, độc lập với động kinh, và nó có thể là thách thức để xác định mức độ ảnh hưởng phát triển bởi co
giật và xung điện dạng động kinh thường xuyên so với nguyên nhân tiềm ẩn [2].
 Đề xuất năm 2017 cho thấy việc mở rộng thuật ngữ này để bao gồm cả bệnh não phát triển và/hoặc
động kinh (developmental and/or epileptic encephalopathy), để nhấn mạnh rằng cả nguyên nhân tiềm
ẩn và quá trình động kinh có thể ảnh hưởng độc lập đến sự phát triển. Các thuật ngữ có thể chấp nhận
được bao gồm bệnh não động kinh, bệnh não phát triển, hoặc bệnh não động kinh phát triển. Thuật ngữ
bệnh não "tên gen" (như bệnh não KCNQ2) có thể được sử dụng khi đột biến di truyền của tác động
chính được xác định [2].
 Các thuật ngữ lành tính, ác tính và nặng nề/thê thảm (catastrophic) trước đây được sử dụng để mô tả
lịch sử tự nhiên của bệnh động kinh. Đề xuất năm 2010 đề nghị thay thế từ lành tính bằng các thuật ngữ
mô tả hơn, như tự giới hạn/self-limited (đối với động kinh có khả năng thuyên giảm tự nhiên) và đáp
ứng thuốc/pharmacoresponsive (đối với những người có khả năng cao kiểm soát nhanh bằng thuốc).
Kháng thuốc/pharmacoresistent là thuật ngữ được ưa dùng để thay thế ác tính hoặc nặng nề [2].
Bảng 1. Tóm tắt thay đổi thuật ngữ và khái niệm
Thuật ngữ và khái niệm mới
Ví dụ
Thuật ngữ và khái niệm cũ
Căn nguyên (một cá thể có thể phù hợp với hơn một nhóm)
Di truyền (Genetic): Khiếm khuyết di
Bệnh lý kênh
Vô căn (Idiopathic): Nghi do di
truyền góp phần trực tiếp gây co giật và
(Channelopathies
truyền
động kinh là triệu chứng cốt lõi của rối
), thiếu GLUT1
loạn

Xơ cứng đa u, dị
Chuyển hóa - cấu trúc (StructuralTriệu chứng (Symptomatic):
metabolic): Do rối loạn chuyển hóa hoặc dạng vỏ não,
Thứ phát sau một rối loạn não
cấu trúc của não
thiếu pyroxidine,
đã biết hay nghi ngờ
thiếu GLUT1
Không rõ (Unknown): Không rõ nguyên
Tiềm ẩn (Cryptogenic): Nghi
nhân và có thể do di truyền, cấu trúc hay
ngờ động kinh triệu chứng
chuyển hóa
Thuật ngữ
Thuật ngữ không còn khuyến cáo
Petit mal: Cơn nhỏ
Absence seizures
Grand mal: Cơn lớn
Generalized tonic–clonic seizures
Tự giới hạn (Self-limited): Xu hướng tự khỏi theo thời
Benign: Lành tính
gian
Catastrophic: Nặng
Đáp ứng thuốc (Pharmacoresponsive): Có khả năng
cao được kiểm soát bởi thuốc
Co giật khu trú (Focal seizures): Triệu chứng co giật
Cục bộ phức tạp (Complex partial)
mô tả theo đặc điểm chủ quan cụ thể (auras), vận động,
Cục bộ đơn giản (Simple partial)
thực vật và nhận thức

Tiến triển co giật hai bên (Evolving to a bilateral
Toàn thể hóa thứ phát (Secondarily
convulsive seizure): Co cứng (tonic), co giật (clonic), co generalized)
cứng - co giật ( tonic-clonic)
 Trạng thái động kinh (Status epilepticus): Hầu hết các cơn co giật tự giới hạn. Hiếm khi cơn co giật
này tiếp theo một cơn co giật khác trong một chuỗi kín (mà không có hồi phục hoàn toàn giữa các cơn),
hay hoạt động co giật xảy ra tiếp diễn. Trạng thái động kinh được định nghĩa là hoạt động co giật tiếp
diễn trong 30 phút hoặc hơn. Tuy nhiên, đa số các cơn co giật tự giới hạn trong 5 phút hoặc ít hơn. Do
đó, cơn co giật kéo dài trên 5 phút thường phải dùng thuốc chống co giật [5].
 Trạng thái co giật (Convulsive status): Đây là tình trạng cơn co cứng - co giật không hồi phục ý thức
giữa các cơn. Là một tình trạng cấp cứu với tỉ lệ bệnh và tử vong cao. Trạng thái co giật xảy ra
khoảng 3% trong số người mắc động kinh nhưng thường gặp nhất ở bệnh nhân động kinh nặng không
tuân thủ liệu pháp điều trị. Ngoài ra, trạng thái này còn xảy ra ở người cai rượu, viêm màng não hoặc
viêm não cấp, và trong rối loạn chuyển hóa cấp [5].


Trạng thái không co giật (Nonconvulsive status): Thuật ngữ này dùng không chính xác đối với 2
tình huống sau [5]:
- Biểu hiện vận động trong trạng thái co giật không thể ngừng ở một thời điểm nào đó nhưng vỏ não
có thể tiếp tục tạo ra tình trạng thoát giật (ictal discharges - ‘no longer convulsive status
epilepticus’). Loại này đại diện cho dạng nặng nhất của trạng thái động kinh, với quá trình bệnh lý
tiếp tục kích thích quá mức (ongoing excitotoxicity) lên tế bào thần kinh, và có tỉ lệ bệnh và tử vong
cao [5].
- Hoạt động co giật từ lúc khởi phát không liên quan với biểu hiện vận động. Thông thường, triệu
chứng đi trước là một sự thay đổi trạng thái nhận thức của bệnh nhân (lẫn lộn, mất định hướng, sau
đó là quên). Loại trạng thái động kinh này được cho là có nguồn gốc cục bộ, mặc dù nó không có
bằng chứng một khi hoạt động co giật tiếp diễn [5].
 Trạng thái khu trú (Focal status): Hoạt động co giật tiếp diễn xác định trạng thái động kinh có thể bị
giới hạn trong một vùng não hạn hẹp. Trong trường hợp này, hội chứng co giật phản ánh vùng vỏ não
bị ảnh hưởng (như aura continua, aphasia). Một ví dụ cổ điển là trạng thái co giật của Kojevnikov, tức

là sự giật lặp lại của cơ hay một nhóm cơ ở mặt, tay hoặc chân, có nguồn gốc liên quan đến viêm não
ở Nga. Ngày nay, căn nguyên thường gặp nhất là bệnh mạch máu, viêm não Rasmussen và khối u [5].
3. PHÂN LOẠI
2.1. Level 1: Seizure type (Loại co giật)
 Chẩn đoán ở mức độ 1 yêu cầu bác sĩ xác định bệnh nhân có co giật động kinh ngoài một số loại biến
cố kịch phát khác (paroxysmal event), và sau đó thiết lập (các) loại co giật (Bảng 2).
 Loại co giật được phân loại dựa vào biểu hiện ban đầu của cơn co giật là khu trú (focal), toàn thể
(generalized), không rõ (unknown) (nếu khởi phát co giật bị bỏ qua hoặc mơ hồ) (Bảng 2). Đáng chú ý,
các thuật ngữ cục bộ đơn giản (simple partial), cục bộ phức tạp (complex partial), và toàn thể hóa thứ
phát (secondarily generalized) đã được loại bỏ, vì thực tế chúng khó xác định và thường sử dụng không
chính xác [2].
 Các cơn co giật toàn thể được chia thành co giật vận động (motor) và không vận động (nonmotor) (cơn
vắng, absence). Cơn co giật khu trú được chia ra thêm dựa trên mức độ thức tỉnh (tỉnh táo, giảm ý thức,
hay ý thức không rõ). Ngoài ra, co giật khu trú được phân thành co giật vận động và không vận động,
dựa trên các dấu hiệu và triệu chứng lúc khởi phát. Các mô tả bổ sung cho cả co giật toàn thể và khu trú
có thể được thêm vào dựa trên các triệu chứng vận động hoặc không vận động cụ thể. Co giật khu trú
cũng có thể được mô tả rõ hơn dựa vào các đặc điểm cơ bản (bảng 3).
 Thuật ngữ "khu trú lan ra co cứng - co giật hai bên" (Focal to bilateral tonic-clonic) được sử dụng để
mô tả cơn co giật bắt đầu khu trú nhưng sau đó lan ra hai bên [2].
2.2. Level 2: Epilepsy based on seizure type (Động kinh dựa vào loại co giật)
Phân loại năm 1989 phân loại động kinh là khu trú hoặc toàn thể. Phân loại năm 2017 giữ lại các thuật
ngữ này, nhưng thừa nhận rằng không phải tất cả các loại động đều có thể được phân loại thành 2 loại
này. Vì vậy, 2 loại bổ sung đã được thêm vào: động kinh toàn thể và khu trú và không rõ động kinh toàn
thể hay khu trú [2].
 Bệnh động kinh toàn thể: Động kinh được xem là toàn thể nếu cơn co giật khởi đầu tại một số điểm,
hoặc nhanh chóng lan ra hai bên, có thể là cấu trúc dưới vỏ não hoặc vỏ não và thường là cả hai. Tuy
nhiên, động kinh toàn thể không nhất thiết phải bao gồm toàn bộ vỏ não, và chúng có thể không đối
xứng. Bệnh nhân bị động kinh toàn thể thường cho thấy sóng gai lan tỏa hoặc hoạt động nhanh kịch
phát lan tỏa trên điện não đồ (EEG) [2].
 Động kinh khu trú: Thuật ngữ khu trú (focal) đã thay thế cục bộ (partial) để mô tả động kinh có co giật

xuất phát từ lâm sàng hoặc EEG bị giới hạn ở một bán cầu não. Co giật khu trú có thể phát sinh từ cấu
trúc dưới vỏ não hoặc vỏ não mới (neocortex). Hầu hết bệnh nhân động kinh khu trú thấy phóng điện
khu trú hoặc đa điểm trên EEG giữa cơn [2].
 Động kinh toàn thể và khu trú: Thuật ngữ này nên được sử dụng cho các cơn động kinh có cả co giật
toàn thể và khu trú. Phân loại này gồm một số hội chứng động kinh, đặc biệt là những người khởi phát
lúc nhỏ, như hội chứng Dravet hoặc hội chứng Lennox-Gastaut, nhưng cũng có thể liên quan đến động
kinh do các nguyên nhân về cấu trúc, di truyền hoặc chuyển hóa. EEG giữa cơn có thể thấy cả xung
điện lan tỏa và khu trú/đa ổ, hoặc xung điện dạng động kinh có thể không có [2].



 Không rõ động kinh toàn thể hay khu trú: Thuật ngữ này được sử dụng cho động kinh có cơn co giật
không thể xác định rõ ràng khởi phát khu trú hay toàn thể. Chẳng hạn như co thắt động kinh, có thể xuất
hiện toàn thể mặc dù do một tổn thương khu trú. Thuật ngữ không rõ cũng nên được sử dụng cho bệnh
nhân có biểu hiện co giật co cứng - co giật toàn thân và thăm khám bình thường nhưng có EEG và hình
ảnh thần kinh không có thông tin hoặc không có sẵn [2].
Bảng 2. Phân loại ILAE về các loại co giật [2],[3]
Co giật khởi phát toàn thể
Vận động (motor)
Không vận động (nonmotor) (cơn vắng)
 Co cứng - co giật (Tonic-clonic)
 Điển hình (Typical)
 Co giật (Clonic)
 Không điển hình (Atypical)
 Co cứng (Tonic)
 Giật cơ (Myoclonic)
 Giật cơ (Myoclonic)
 Giật mi mắt (Eyelid myoclonia)
 Giật cơ - co cứng - co giật (Myoclonictonic-clonic)
 Giật cơ - mất trương lực (Myoclonicatonic)

 Mất trương lực (Atonic)
 Co thắt động kinh (Epileptic spasms)
Co giật khởi phát khu trú
Khởi phát vận động
Khởi phát không vận động
 Tỉnh táo (Aware)
 Tỉnh táo (Aware)
 Giảm ý thức (Impaired awareness)
 Giảm ý thức (Impaired awareness)
 Ý thức không rõ (Unknown awareness)
 Ý thức không rõ (Unknown awareness)
 Tự động (Automatisms)
 Tự động (Autonomic)
 Mất trương lực (Atonic*)
 Ngừng hành vi (Behavior arrest)
 Co giật (Clonic)
 Nhận thức (Cognitive)
 Co thắt động kinh (Epileptic spasms)*
 Cảm xúc (Emotional)
 Tăng động (Hyperkinetic)
 Cảm giác (Sensory)
 Giật cơ (Myoclonic)
 Co cứng (Tonic)
 Khu trú lan ra co cứng - co giật hai bên
 Khu trú lan ra co cứng - co giật hai bên
Co giật khởi phát không rõ (Unknown onset seizures)
Vận động
Không vận động
 Co cứng - co giật (Tonic-clonic)
 Ngừng hành vi (Behavior arrest)

 Co thắt động kinh (Epileptic spasms)
Co giật không phân loại (Unclassified seizures¶)
* Mức độ thức tỉnh thường không được xác định. ¶ Do thông tin không đầy đủ hoặc không thể đặt trong các phân loại khác.

2.3. Level 3: Epilepsy syndrome (Hội chứng động kinh)
 Hội chứng động kinh bao gồm phức hợp của các đặc điểm, dấu hiệu và triệu chứng lâm sàng cùng xác
định một rối loạn co giật lâm sàng dễ nhận biết, khác biệt. Một số hội chứng có tương quan cao với một
nguyên nhân cụ thể (ví dụ, đột biến SCN1A trong hội chứng Dravet), trong khi loại khác có thể là do
một loạt các nguyên nhân (như hội chứng West hoặc hội chứng Lennox-Gastaut) [2].
 Nhiều hội chứng có thể được xác định dựa vào tuổi lúc khởi phát, (các) loại co giật, điện não đồ,
nguyên nhân và các bệnh kèm theo (bảng 4). Trang web ILAE epilepsydiagnosis.org là nguồn để chẩn
đoán hội chứng động kinh và có các thông số chẩn đoán, cũng như các video về các loại co giật cụ thể
và hình ảnh các dấu hiệu EEG đặc trưng. Cần lưu ý rằng ILAE chưa chính thức phê duyệt hoặc xác định
hội chứng cụ thể [2].
 Các hội chứng động kinh cụ thể thường được xác định ở trẻ em và thanh thiếu niên hơn ở người lớn.
Chẩn đoán có thể cung cấp thông tin cụ thể về bệnh sử, các bệnh kèm theo liên quan, đặc biệt là khiếm
khuyết trí tuệ và các đặc điểm tâm thần, và xử trí [2].


Bảng 3. Các mô tả chung về các hành vi trong các cơn co giật khu trú (theo thứ tự chữ cái) [2],[3]
Nhận thức
Tự động (Automatisms)
 Mất khả năng tính toán (Acalculia)
 Hiếu chiến (Aggression)
 Mất ngôn ngữ (Aphasia)
 Chớp mắt (Eye-blinking)
 Giảm chú ý (Attention impairment)
 Gật đầu (Head-nodding)
 Mất trí nhớ (Déjà vu or jamais vu)
 Tay (Manual)

 Mất đồng bộ (Dissociation)
 Miệng - mặt (Oral-facial)
 Rối loạn ngôn ngữ (Dysphasia)
 Đạp (Pedaling)
 Ảo giác (Hallucinations)
 Đẩy hông (Pelvic thrusting)
 Ảo tưởng (Illusions)
 Perseveration
 Giảm trí nhớ (Memory impairment)
 Running (cursive)
 Lơ đễnh/thờ ơ (Neglect)
 Sexual
 Suy nghĩ cưỡng ép (Forced thinking)
 Cởi quần áo (Undressing)
 Giảm đáp ứng (Responsiveness impairment)
 Giọng nói (Vocalization/speech)
 Bước đi (Walking)
Cảm xúc hay xúc động (Emotional or affective) Vận động
 Kích động (Agitation)
 Rối loạn vận động (Dysarthria)
 Giận dữ (Anger)
 Loạn trương lực (Dystonic)
 Lo lắng (Anxiety)
 Tư thế Fencer (figure-of-4)
 Khóc (Crying/dacrystic)
 Mất phối hợp (Incoordination)
 Sợ (Fear)
 Jacksonian
 Cười (Laughing/gelastic)
 Liệt (Paralysis)

 Hoang tưởng (Paranoia)
 Dãn (Paresis)
 Vui vẻ (Pleasure)
 Versive
Thực vật (Autonomic)
Cảm giác
 Vô tâm thu (Asystole)
 Thính giác (Auditory)
 Nhịp chậm (Bradycardia)
 Vị giác (Gustatory)
 Cương cứng (Erection)
 Cảm giác nóng - lạnh (Hot-cold
sensations)
 Đỏ mặt (Flushing)
 Khứu giác (Olfactory)
 Dạ dày - ruột (Gastrointestinal)
 Xúc giác (Somatosensory)
 Tăng/giảm thông khí
(Hyper/hypoventilation)
 Tiền đình (Vestibular)
 Buồn nôn hoặc nôn (Nausea or vomiting)
 Thị giác (Visual)
 Xanh tái (Pallor)
Laterality
 Hồi hộp (Palpitations)
 Left
 Dựng lông (Piloerection)
 Right
 Thay đổi hô hấp (Respiratory changes)
 Bilateral

 Nhịp nhanh (Tachycardia)
2.4. Level 4: Epilepsy with etiology (Động kinh có nguyên nhân)
 Chẩn đoán ở mức này yêu cầu xác định nguyên nhân chính của bệnh động kinh. Những tiến bộ về hình
ảnh thần kinh và di truyền, cũng như cải thiện sự hiểu biết về vai trò của các tự kháng thể đặc hiệu, cho
phép chẩn đoán chính xác hơn đối với nhiều người bị động kinh. Mặc dù bệnh nhân có thể có một chẩn
đoán nguyên nhân thống nhất, nhưng biến đổi kiểu hình vẫn phải để ý, phản ánh khả năng các gen sửa
đổi và các yếu tố môi trường [2].
 Đáng chú ý, không phải tất cả bệnh nhân có thể được phân loại ở Level 4 với một chẩn đoán nguyên
nhân cụ thể sẽ có một hội chứng động kinh có thể nhận biết. Do đó, ở một số bệnh nhân, việc phân loại
có thể được đưa ra ở Level 4, chứ không phải ở Level 3. Ngoài ra, không có mối tương quan hằng định
giữa một nguyên nhân cụ thể và hội chứng động kinh. Ví dụ, đột biến SCN1A có thể liên quan với kiểu
hình nhẹ hơn, như bệnh động kinh di truyền với co giật thêm do sốt (GEFS +) hoặc kiểu hình nặng hơn


như hội chứng Dravet. Tương tự, phức hợp bệnh xơ não đa u (tuberous sclerosis complex) có thể dẫn
đến một loạt các mức độ nặng của bệnh động kinh [2].
Bảng 4. Phân loại hội chứng động kinh và động kinh khác theo tuổi [2]
Giai đoạn sơ sinh
 Cơn co giật sơ sinh lành tính
 Bệnh động kinh sơ sinh gia đình lành tính
 Bệnh não co giật cơ sớm
 Hội chứng Ohtahara
Trẻ nhũ nhi (khởi phát dưới 2 tuổi)
 Co giật do sốt
 Co giật thêm do sốt
 Động kinh co giật khu trú di chuyển nhũ nhi
 Hội chứng West
 Động kinh co giật cơ nhũ nhi
 Động kinh nhũ nhi lành tính
 Bệnh động kinh nhũ nhi gia đình lành tính

 Hội chứng Dravet
 Bệnh não co giật cơ trong các rối loạn không tiến
triển
Trẻ nhỏ
 Co giật do sốt
 Co giật thêm do sốt
 Động kinh chẩm khởi phát sớm ở trẻ nhỏ (loại
Panayiotopoulos)
 Động kinh với co giật cơ mất trương lực (trước
đây là astatic)
 Động kinh lành tính với gai trung tâm thái dương
 Động kinh thùy trước ban đêm ưu thế tự động
 Động kinh chẩm khởi phát sớm ở trẻ nhỏ (loại
Gastaut)
 Động kinh cơn vắng trẻ em
 Động kinh với cơn vắng co giật cơ
 Hội chứng Lennox-Gastaut
 Bệnh não động kinh với gai và sóng liên tục
trong khi ngủ
 Hội chứng Landau-Kleffner
Thanh niên đến người lớn
 Động kinh cơn vắng tuổi thiếu niên
 Động kinh co giật cơ thiếu niên
 Động kinh với co giật co cứng - co giật toàn thân
đơn độc
 Động kinh ưu thế tự động với các đặc điểm thính
giác
 Động kinh thùy thái dương gia đình khác
Hội chứng động kinh gia đình
 Động kinh khu trú gia đình với các ổ thay đổi

 Động kinh di truyền kèm co giật thêm do sốt

Neonatal period
 Benign neonatal seizures
 Benign familial neonatal epilepsy
 Early myoclonic encephalopathy (EME)
 Ohtahara syndrome
Infancy (onset under 2 years)
 Febrile seizures
 Febrile seizures plus (FS+)
 Epilepsy of infancy with migrating focal seizures
 West syndrome
 Myoclonic epilepsy in infancy (MEI)
 Benign infantile epilepsy
 Benign familial infantile epilepsy
 Dravet syndrome
 Myoclonic encephalopathy in non-progressive disorders
Childhood
 Febrile seizures
 Febrile seizures plus (FS+)
 Early onset childhood occipital epilepsy
(Panayiotopoulos type)
 Epilepsy with myoclonic atonic (previously astatic)
seizures
 Benign epilepsy with centrotemporal spikes (BECTS)
 Autosomal-dominant nocturnal frontal lobe epilepsy
(ADNFLE)
 Late onset childhood occipital epilepsy (Gastaut type)
 Childhood absence epilepsy (CAE)
 Epilepsy with myoclonic absences

 Lennox-Gastaut syndrome
 Epileptic encephalopathy with continuous spike-andwave during sleep (CSWS)
 Landau-Kleffner syndrome
Adolescent to adult
 Juvenile absence epilepsy (JAE)
 Juvenile myoclonic epilepsy (JME)
 Epilepsy with generalized tonic-clonic seizures alone
(GTCA)
 Autosomal dominant epilepsy with auditory features
(ADEAF)
 Other familial temporal lobe epilepsies
Familial epilepsy syndromes
 Familial focal epilepsy with variable foci (FFEVF)
 Genetic epilepsy with febrile seizures plus (GEFS+)


3. CÁC BIẾN THỂ PHÂN LOẠI KHÁC
3.1. Nguyên nhân
Phân loại nguyên nhân và thuật ngữ đã phát triển qua nhiều năm. Phân loại ILAE năm 2017 công nhận
6 loại nguyên nhân: di truyền, cấu trúc, chuyển hóa, miễn dịch, nhiễm trùng và không rõ. Các thuật ngữ
vô căn (idiopathic), có triệu chứng (symptomatic), và căn nguyên ẩn (cryptogenic) đã được loại bỏ từ
phân loại sửa đổi năm 2010. Nguyên nhân của bệnh động kinh nên được xem xét ở cả 4 mức độ chẩn
đoán. Một số nguyên nhân được mô tả tốt nhất bằng cách kết hợp các loại. Chẳng hạn, bệnh xơ não đa u
sẽ được mô tả như là nguyên nhân di truyền - cấu trúc, và hội chứng Leigh là nguyên nhân di truyền chuyển hóa [2]. Xem thêm bài Động kinh.
3.2. Các bệnh đi kèm
 Tất cả các động kinh, ở bất kỳ cấp độ của khuôn khổ chẩn đoán, có thể có liên quan đến các bệnh đi
kèm về nhận thức, tâm lý, và hành vi, có thể ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống thậm chí còn nặng nề
hơn so với co giật [2].
 Xác định nguyên nhân và hội chứng cụ thể có thể giúp dự đoán loại và mức độ nặng của bệnh đi kèm.
Ví dụ, hội chứng West dự đoán nguy cơ khiếm khuyết trí tuệ và rối loạn tự kỷ cao hơn đáng kể, và các

trẻ gái có đột biến PCDH19 cũng có nguy cơ cao về các vấn đề hành vi và rối loạn tự kỷ [2].
Bảng 5. Giải thích các thuật ngữ [3]
Thuật ngữ

Định nghĩa

Cơn vắng, điển hình
(Absence, typical)

Khởi phát đột ngột, gián đoạn các hoạt động đang diễn ra, nhìn trống rỗng (blank stare),
có thể là đưa mắt lên ngắn. Thường bệnh nhân không phản ứng khi nói chuyện. Thời
gian từ vài giây đến nửa phút và hồi phục rất nhanh. Mặc dù không phải luôn luôn có,
nhưng EEG có phóng điện dạng động kinh toàn thể trong biến cố này. Cơn vắng được
xác định là cơn co giật khởi phát toàn thể. Từ này không đồng nghĩa với nhìn trống rỗng
(cũng có thể gặp trong cơn co giật khởi phát khu trú).
Co giật cơn vắng với những thay đổi về trương lực rõ hơn trong trường hợp cơn vắng
điển hình hoặc khởi phát và/hoặc dừng không đột ngột, thường liên quan đến hoạt động
sóng nhọn gai chậm, không đều, lan tỏa.
See behavior arrest.
Mất hoặc giảm trương lực cơ đột ngột mà không có biến cố co giật cơ hay co cứng trước
đó rõ ràng kéo dài ~ 1-2 giây, liên quan đến cơ đầu, thân, hàm hoặc chi

Cơn vắng, không
điển hình (Absence,
atypical)
Ngừng (Arrest)
Mất trương lực
(Atonic)
Tự động
(Automatism)


Co giật thực vật
(Autonomic seizure)
Tiền triệu (Aura)
Ý thức (Awareness)
Hai bên (Bilateral)
Giật cơ (Clonic)
Nhận thức
(Cognitive)
Tri giác
(Consciousness)
Khóc òa
(Dacrystic)
Rối loạn trương lực

Hoạt động vận động phối hợp nhiều hoặc ít hơn thường xảy ra khi nhận thức bị suy giảm
và đối tượng đó thường là (chứ không phải luôn luôn) mất trí nhớ sau đó. Nó thường
giống như cử động tự ý và có thể bao gồm sự tiếp nối hoạt động vận động trước cơn
không thích hợp.
Sự thay đổi khác biệt của chức năng hệ thần kinh thực vật liên quan đến chức năng tim
mạch, đồng tử, tiêu hóa, tiết mồ hôi, vận mạch và điều nhiệt.
Một hiện tượng co giật chủ quan, ở bệnh nhân nhất định, có thể báo trước một cơn co
giật có thể quan sát được (sử dụng phổ biến).
Nhận biết về bản thân hay môi trường.
Cả hai bên trái và bên phải, mặc dù biểu hiện co giật hai bên có thể là đối xứng hoặc
không đối xứng.
Giật lặp đi lặp lại đều đặn, đối xứng hoặc không đối xứng và liên quan đến cùng nhóm
cơ.
Liên quan đến suy nghĩ và các chức năng vỏ não cao hơn, chẳng hạn như ngôn ngữ, nhận
thức về không gian, trí nhớ và thói quen. Thuật ngữ trước đây được sử dụng tương tự

như một loại co giật là tâm lý.
Trạng thái tâm trí với cả hai khía cạnh chủ quan và khách quan, gồm cảm giác tự thân
như một thực thể duy nhất, nhận biết, phản ứng và trí nhớ.
Khóc òa (bursts of crying), có thể có hoặc không liên quan đến nỗi buồn.
Cơn co thắt kéo dài của cả hai cơ chủ vận và đối kháng tạo ra các cử động múa vờn hoặc


(Dystonic)
Co giật xúc cảm
(Emotional seizures)
Co thắt động kinh
(Epileptic spasms)

Động kinh
(Epilepsy)

Giật cơ mí mắt
(Eyelid myoclonia)
Co giật tư thế Fencer
(Fencer’s posture
seizure)
Co giật hình số 4
(Figure-of-4 seizure)
Khu trú (Focal)

Cơn co cứng-co giật
hai bên khởi phát
khu trú (Focal onset
bilateral tonic-clonic
seizure)

Cười (Gelastic)
Toàn thể
(Generalized)
Cơn co cứng-co giật
toàn thể
(Generalized tonic clonic)
Ảo giác
(Hallucination)
Ngừng hành vi
(Behavior arrest)
Bất động
(Immobility)
Giảm ý thức
(Impaired
awareness)
Impairment of
consciousness
Cơn Jackson
(Jacksonian seizure)

vặn xoắn, có thể tạo ra những tư thế bất thường.
Co giật biểu lộ cảm xúc hoặc sự xuất hiện của cảm xúc như một đặc điểm nổi bật sớm
như sợ hãi, vui vẻ hay hưng phấn tự phát, cười (gelastic), hoặc khóc (dacrystic).
Gấp, duỗi, hay phối hợp gấp - duỗi đột ngột của chủ yếu các cơ gần và thân thường kéo
dài hơn cử động co giật cơ nhưng không kéo dài như cơn tăng trương lực. Các dạng giới
hạn có thể xảy ra: Nhăn mặt, gật đầu hoặc cử động mắt kín đáo. Co thắt động kinh
thường xảy ra ở dạng chùm. Co thắt trẻ nhũ nhi là dạng được biết rõ nhất, nhưng co thắt
có thể xảy ra ở mọi lứa tuổi.
Bệnh lý não được xác định bởi một trong các tình trạng sau: (1) Ít nhất hai cơn co giật
(hay phản xạ) không có yếu tố kích gợi xảy ra cách nhau >24 giờ; (2) một cơn co giật

(hay phản xạ) không có yếu tố kích gợi và khả năng xảy ra thêm các cơn co giật tương tự
như nguy cơ tái phát chung (ít nhất 60%) sau 2 cơn co giật không có yếu tố kích gợi, xảy
ra trong 10 năm tới; (3) chẩn đoán hội chứng động kinh. Bệnh động kinh được xem là hết
đối với những người có hội chứng động kinh phụ thuộc tuổi nhưng nay đã qua tuổi áp
dụng hoặc không còn co giật trong 10 năm, không dùng thuốc chống co giật trong 5 năm.
Giật mí mắt với tần số ít nhất 3 lần mỗi giây, thường kèm lệch mắt lên, kéo dài <10 giây,
thường thúc đẩy khi nhắm mắt. Có thể có hoặc không liên quan đến mất nhận thức ngắn
Một loại động kinh khu trú với duỗi một cánh tay và gập khuỷu và cổ tay đối bên, tạo
hình ảnh giống chơi kiếm. Đây cũng được gọi là co giật vùng vận động bổ sung.
Duỗi cánh tay (thường đối bên với vùng sinh động kinh) với gập khuỷu tay của cánh tay
đối bên, tạo thành hình số 4.
Có nguồn gốc trong mạng lưới giới hạn ở một bán cầu não. Chúng có thể được khu trú
một cách rời rạc hoặc phân bố rộng hơn. Co giật khu trú có thể bắt nguồn ở cấu trúc dưới
vỏ não
Loại co giật khởi phát khu trú, với tỉnh táo hoặc giảm ý thức, vận động hoặc không vận
động, tiến triển hoạt động co cứng-co giật hai bên. Thuật ngữ trước đó là co giật khởi
phát cục bộ kèm toàn thể hóa thứ phát (seizure with partial onset with secondary
generalization).
Cười ồ (Bursts of laughter) hoặc cười khúc khích (giggling), thường không có sắc thái
tình cảm thích hợp (appropriate affective tone).
Xuất phát tại một số điểm bên trong và nhanh chóng kết nối, phân bố lan tỏa hai bên.
Co thắt co cứng đối xứng hai bên hoặc đôi khi không đối xứng và sau đó co thắt co giật
của cơ vân, thường liên quan đến hiện tượng thực vật và mất ý thức. Những cơn co giật
này kết nối mạng lưới cả hai bán cầu khi bắt đầu cơn co giật.
Tạo nhận thức hỗn hợp nhưng không tương ứng với các kích thích bên ngoài liên quan
đến hiện tượng thị giác, thính giác, xúc giác, khứu giác, và/hoặc vị giác. Ví dụ: “Nghe”
và “nhìn thấy” mọi người đang nói chuyện.
Ngừng (arrest/pause) các hoạt động, cứng đờ (freezing), bất động (immobilization), như
trong behavior arrest seizure.
Xem activity arrest.

Xem awareness. Suy giảm hoặc mất ý thức là một đặc điểm của cơn co giật khu trú giảm
ý thức (focal impaired awareness seizures), trước đây được gọi là co giật cục bộ phức tạp
(complex partial seizures)
Xem impaired awareness.
Thuật ngữ kinh điển chỉ sự lan truyền của các cử động co giật qua các bộ phận kề nhau ở
một bên cơ thể.


Vận động (Motor)
Cơn co giật cơ
(Myoclonic)
Cơn co giật cơ - mất
trương lực
(Myoclonic - atonic)
Cơn co giật cơ - co
cứng - co giật
(Myoclonic-tonicclonic)
Không vận động
(Nonmotor)
Lan truyền
(Propagation)
Đáp ứng
(Responsiveness)
Co giật (Seizure)
Co giật cảm giác
(Sensory seizure)
Co thắt (Spasm)
Cơn co cứng (Tonic)
Co cứng - co giật
(Tonic-clonic)

Không tỉnh
(Unaware)
Không phân loại
(Unclassified)

Không đáp ứng
(Unresponsive)
Versive

Liên quan đến cơ bắp ở bất kỳ dạng nào. Biến cố vận động có thể bao gồm tăng (dương
tính) hoặc giảm (âm tính) trong co thắt cơ để tạo ra cử động
Co thắt đơn lẻ hay nhiều cơ hoặc nhóm cơ (thân trục, chi gần, xa) đột ngột, ngắn (<100
msec). Cơn co giật cơ ít lặp lại đều đặn và ngắn hơn cơn giật cơ (clonus)
Loại co giật toàn thể với giật cơ (myoclonic jerk) dẫn đến hợp thành vận động cơ mất
trương lực. Loại này trước đây được gọi là myoclonic - astatic.
Giật một hoặc vài chi hai bên, sau đó là cơn co cứng - co giật. Giật ban đầu có thể được
xem như một thời gian ngắn của giật cơ hoặc co giật cơ. Co giật có đặc điểm này phổ
biến trong bệnh động kinh co giật cơ thiếu niên (juvenile myoclonic epilepsy).
Các loại co giật khu trú hoặc toàn thể trong đó hoạt động vận động không nổi trội.
Lây rộng hoạt động co giật từ một nơi trong não này sang não kia, hoặc kết nối các mạng
lưới não bộ thêm.
Khả năng phản ứng thích hợp bằng cử động hoặc lời nói khi tiếp xúc với một kích thích.
Sự xuất hiện thoáng qua của các dấu hiệu và/hoặc triệu chứng do hoạt động thần kinh
quá mức hoặc đồng bộ bất thường trong não.
Trải nghiệm cảm giác không phải do kích thích thích hợp ở thế giới bên ngoài.
Xem epileptic spasm.
Tăng co thắt cơ liên tục kéo dài từ vài giây đến vài phút.
Một chuỗi bao gồm pha co cứng sau đó là co giật
Dùng như viết nhanh đối với impaired awareness.
Đề cập đến loại co giật không thể mô tả bởi phân loại ILAE 2017 hoặc do thông tin

không đầy đủ hoặc các đặc điểm lâm sàng không thường gặp. Nếu co giật không phân
loại vì loại khởi phát không rõ/không xác định, một phân loại hạn chế vẫn có thể xuất
phát từ các đặc điểm đã quan sát.
Không thể phản ứng thích hợp bằng cử động hoặc lời nói khi tiếp xúc với kích thích.
Xoay trục mắt, đầu, và/hoặc thân kéo dài hoặc lệch sang 1 bên khỏi đường giữa.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Diệp Tuấn & Phùng Nguyễn Thế Nguyên (2006), Co giật trẻ em, Nhi khoa - Chương trình đại
học, Tập I, Nhà xuất bản Y học, Tp. Hồ Chí Minh, pp. 398-410.
2. Christian M Korff & Elaine Wirrell (Feb 2018), "ILAE classification of seizures and epilepsy", from:
.
3. Fisher R. S., J. H. Cross, C. D'Souza, J. A. French, S. R. Haut, N. Higurashi, et al. (2017), "Instruction
manual for the ILAE 2017 operational classification of seizure types", Epilepsia, 58(4), pp. 531-542.
4. Mohamad A. Mikati & Abeer J. Hani (2015), Chapter 593 - Seizures in Childhood, Nelson Textbook of
Pediatrics, 20th edition, Saunders Elsevier, Philadelphia, pp. 2823-2856.
5. Richardson Mark P, David W Chadwick & Tim Wehner (2015), "Classification and terminology to
organise seizures and epilepsies", Epilepsy Soc, pp. 1-6.
6. Scheffer I. E., S. Berkovic, G. Capovilla, M. B. Connolly, J. French, L. Guilhoto, et al. (2017), "ILAE
classification of the epilepsies: Position paper of the ILAE Commission for Classification and
Terminology", Epilepsia, 58(4), pp. 512-521.




×