Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

Thi hành các hình phạt không tước tự do theo pháp luật việt nam từ thực tiễn tỉnh bắc giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (945.01 KB, 99 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT
NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ
HỘI

TRẦN THỊ NGỌC ANH

THI HÀNH CÁC HÌNH PHẠT KHÔNG TƯỚC TỰ DO
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH BẮC
GIANG

Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình
sự
Mã số: 8.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHẠM MINH TUYÊN

Hà Nội, 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên c ứu khoa học của riêng tôi Các
nội dung nghiên cứu, kết quả trong Luận văn này chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác. Các số liệu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ
ràng, được trích dẫn đúng theo quy định và được ghi rõ trong phần tài liệu tham
khảo



Tác gi ả l uận
văn

Trần Thị Ngọc Anh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.......................................................................................................................1
Chương 1: NHŨNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT THI HÀNH
CÁC
HÌNH PHẠT KHÔNG TƯ ỚC TỰ DO .................................................................7
1.1. Khái niệm và đặc điểm của thi hành hì nh phạt khô ng tước tự do
..................7
1.2. Pháp l uật về t hi hành hình phạt không tước tự do
..........................................18
Chương 2: THỰC TRẠNG THI HÀNH HÌNH PHẠT KHÔNG TƯỚC
TỰ DO TRÊN ĐỊA B ÀN TỈNH B ẮC GIANG
........................................................29
2.1. Khái quát chung về tình hình tội phạm và việc áp dụng hình phạt không
tước
tự do trên địa bàn tỉ nh Bắc Giang
.............................................................................29
2.2. Thực trạng thi hành hình phạt không tước tự do trên địa bàn tỉnh
Bắc
Gi ang............................................................................................................................39
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ
BẢO ĐẢM THI HÀNH CÁC HÌNH PHẠT KHÔNG TƯ ỚC TỰ DO
..................51
3.1. Giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật về thi hành hình phạt

không tước tự do
.....................................................................................................................51
3.2. Các gi ải pháp khác ..............................................................................................61
KẾT LUẬN ................................................................................................................66
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................68


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BLHS:
BLTTHS:
sự HĐND:

Bộ luật hình sự
Bộ luật tố tụng hình
Hội đồng nhân dân

HTHP:

Hệ thống hình phạt

THAHS:

Thi hành án hình sự

UBND:
KTTD:

Ủy ban nhân dân
Không tước tự do



MỞ ĐẦU
1. Tí nh cấp thi ết của đề tài
Trong luật hình sự, hình phạt được coi là phương tiện có vai trò quan
trọng trong công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, nhằm bảo đảm và phát
huy tính dân chủ trong xã hội, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cô ng dân.
Với tính chất là nguyên tắc cơ bản của luật hình sự thì nguyên tắc nhân đạo luôn
được Nhà nước ta đặc biệt quan tâm và thể hiện xuyên suốt trong các quy định
của Bộ luật hình sự (BLHS) đặc biệt được thể hiện rõ trong các quy định về hình
phạt chính không tước tự do. Việc áp dụng các hình phạt chính không tước tự do
đã thể hiện rõ tinh thần phân hóa tội phạm nhằm thực hiện nguyên tắc nhân đạo
của luật hình sự, đồng thời góp phần hoàn thiện chính sách hình sự và thủ tục tố
tụng tư pháp, đề cao hiệu qu ả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý
người phạm tội theo tinh thần Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 02/6/2005 của Bộ
chính trị.
Đối với Thi hành án hình sự (THAHS) là một trong những hoạt động
quan trọng của Nhà nước. Hoạt động THAHS được xem là khâu cuối cùng và có
ý nghĩ a quan trọng đảm bảo hiệu quả thực hiện quyền tư pháp, hiện thực hóa công
lý mà Tò a án đã nhân dân Nhà nước ban hành bản án hay Quyết định; mặt khác,
thi hành án kịp thời, nghiêm chỉnh các phán quyết của Tòa án đối với các hành vi
phạm tội chính là biện pháp khôi phục lại các quyền, lợi ích hợp pháp của Nhà
nước, của tổ chức và cá nhân bị xâm hại, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của
công dân.
Từ trước đến nay, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp
luật làm cơ sở cho tổ chức và hoạt động THAHS. Tuy nhiên, hầu hết đều tập
trung chủ yếu vào các công tác thi hành hình phạt tù, tử hình mà chưa thực sự
quan tâm đúng mức đến các công tác thi hành các hình phạt không tước quyền tự
do. Hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật về thi hành hình phạt không tước
quyền tự do đã được ban hành ở những thời điểm khác nhau nên còn nhiều bất

cập, nhiều nội dung chưa được quy định cụ thể, dẫn đến việc gặp nhiều khó khăn,
vướng mắc trong thực tiễn thi hành.Bên cạnh đó, qua thực tiễn thi hành cho thấy,
hệ thống các cơ quan có thẩm quyền trong thi hành án các hình phạt không tước
quyền tự do chưa được phân công, phối hợp chặt chẽ, hiệu quả, phát huy đầy đủ
1


vai trò, trách nhiệm trong quản lý, chỉ đạo, tổ chức thực hiện, kiểm tra, giám sát,
nhất là vai trò, trách nhiệm của Tòa án,

2


UBND các cấp, MTTQ và các đoàn thể; Cơ chế giám sát, chế tài cưỡng chế khi
người bị kết án không chấp hành hoặc chấp hành án không nghiêm, có vi phạm
chưa được quy định đầy đủ, kịp thời, bảo đảm tính răn đe, giáo dục, phòng ngừa tội
phạm...... Tất cả những tồn tại và hạn chế kể trên đã góp phần làm giảm hiệu quả thi
hành hình phạt không tước quyền tự do trên địa bàn tỉnh Bắc Giang nói riêng và
ở Việt Nam nói chung.
Do đó, việc tiếp tục nghiên cứu các quy định của pháp luật và thực tiễn để
từ đó làm sáng tỏ về mặt khoa học, đưa ra phương hướng, giải pháp nâng cao hiệu
quả thi hành hình phạt không tước quyền tự do là cần thiết. Điều đó không chỉ có ý
nghĩ a lý luận, thực tiễn và pháp lý quan trọng mà còn là lý do luận chứng cho sự
cần thiết để tôi lựa chọn đề tài “Thi hành các hình phạt không tước tự do theo
pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Giang ”. Trong đề tài tôi lựa chọn chủ
yếu nghiên cứu về các hình phạt: Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ trong
các hình phạt chính được quy định tại điểm a, điểm b, điểm c, Khoản 1, Điều 32
Bộ Luật hình sự năm
2015 làm luận văn thạc sĩ luật
học.

2. Tì nh hì nh nghi ên cứu l i ên quan đến đề tài
Liên quan đến thi hành các hình phạt không tước tự do, đã có nhiều công
trình
khoa học nghiên cứu và được tiếp cận dưới các góc độ khác
nhau;
Trước hết, hình phạt đã được nhiều chuyên gia ở nước ngoài nghiên cứu như:
Punishment and Responsibility, Oxford, 1968; Cragg, Wesley, The Practice
of Punishment: Towards a Theory of Restorative Justice, New York, Routledge,
1992; M. Bellmore, H.J.Greenberg and J.J.Jarvis, Generauzed Penalty - function
concepts in

Mathematical

optization,

Georgia

Institute

of

Technology,

Atlanta, Georgia Received June 17, 1968; v.v… Còn ở Việt Nam, khoa học luật
hình sự là một trong những ngành khoa học pháp lý phát triển nhất so với các
ngành khoa học pháp lý khác, do đó xét riêng về hình phạt, cho thấy có nhiều
công trình nghiên tiêu biểu ở các cấp độ khác nhau. Cấp độ luận văn thạc sĩ thực
hiện ở Viện Nhà nước và Pháp luật (Viện Khoa học Xã hội Việt Nam) có các
đề tài của các tác giả Nguyễn Văn Vĩnh, Hệ thống hình phạt trong luật hình sự
Việt Nam, Hà Nội, 1996; Vũ Lai Bằng, Hình phạt tiền trong luật hình sự Việt Nam,

3


Hà Nội, 1997; Đặng Đức Thạo, Hệ thống hình phạt trong luật hình sự Việt Nam,
Hà Nội, 2001; v.v… Ở Khoa Luật, Đại học

4


Quốc gia Hà Nội có đề tài của Lê Khánh Hưng, Các hình phạt không tước tự do
trong luật hình sự Việt Nam, Hà Nội, 2010; Nguyễn Văn Cảnh, Hình phạt và các
biện pháp tư pháp áp dụng đối với người chưa thành niên phạm tội theo luật hình
sự Việt Nam, Hà Nội, 2010; v.v... Còn ở cấp độ luận án tiến sĩ luật học có các đề
tài của các tác giả Nguyễn Sơn, Các hình phạt chính trong luật hình sự Việt Nam,
Viện Nhà Nước và Pháp luật, Hà Nội, 2003, Phạm Văn Beo, Hình phạt tử hình
trong luật hình sự Việt Nam, Viện Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội 2007; Trịnh
Quốc Toản, Các hình phạt bổ sung trong luật hình sự Việt Nam, Khoa Luật, Đại
học Quốc gia Hà Nội, 2010; v.v... Bên cạnh đó, về giáo trình, sách chuyên khảo,
bình luận có các công trình sau: GS.TSKH. Lê Văn Cảm, Chương thứ 7 - Hình
phạt và biện pháp tư pháp, trong Sác h chuyên khảo sau đại học: Những vấn đề cơ
bản trong luật hình sự (phần chung), Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2005; GS.TS.
Nguyễn Ngọc Hòa (chủ biên), Trách nhiệm hình sự và hình phạt, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội, 2001; Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, Hình phạt trong luật
hình sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1995; v.v... Ngoài ra, một số tác giả cũng đã công bố những bài báo khoa học đề
cập đến hình phạt như: GS.TSKH. Lê Văn Cảm, Hình phạt và các biện pháp tư pháp
trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 8/2000; Một số
vấn đề cơ bản về hình phạt, Tạp chí Công an nhân dân, số 5/2001; Hình phạt và
hệ thống hình phạt, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 7/2007; GS. TSKH. Lê Cảm, TS.
Trịnh Tiến Việt, Thực trạng các quy định pháp luật hình sự Việt Nam về hệ thống

hình phạt và phương hướng hoàn thiện, Tạp chí Khoa học, chuyên san Luật
học, số 1/2009; GS.TS. Nguyễn Ngọc Hòa, Mục đích của hình phạt, Tạp chí
Luật học, số 1/1999; PGS.TS. Trần Văn Độ, Một số vấn đề về hình phạt cải tạo
không giam giữ, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 5/1995; PGS.TS. Nguyễn Mạnh
Kháng, Hình phạt - Một số vấn đề lý luận, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số
10/2000; PGS.TS. Trịnh Quốc Toản, Một số vấn đề về hình phạt quản chế trong
luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Khoa học, chuyê n san Luật học, số 1/2004; Về
hình phạt cấm cư trú trong luật hình sự Việt Nam, Tạp chí Nhà nước và pháp luật,
số 6/2004 và Về hình phạt tiền trong luật hình sự một số nước trên thế giới, Tạp
chí Nhà nước và pháp luật, số 7/2003; TS. Phạm Văn Beo, Một số vấn đề về
khái niệm hình phạt, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 11/2005; v.v... Trên cơ
sở nghiên cứu, khảo sát trên đây cho thấy, ở nước ta đã có một số công trình nghiên
cứu cơ bản và trực diện về hình phạt chính không tước tự do và hình
5


phạt bổ sung nhưng vẫn chưa thực sự được quan tâm nghiên cứu đúng mức, với
tư cách là những hình phạt chính không tước tự do quan trọng trong hệ thống hình
phạt của luật hình sự Việt Nam. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi mà nước
ta đang trong tiến trình hội nhập sâu rộng trên nhiều lĩnh vực trong khu vực cũng
như trên toàn thế giới. Do vậy, tác giả đã lựa chọn đề tài "Thi hành các hình phạt
không tước tự do theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Bắc Giang " là đề tài
luận văn của mình để tiếp nối những nghiên cứu trên, nhằm làm sáng tỏ hơn cơ sở
lý luận và thực tiễn của vấn đề này.
3. Mục đí ch và nhi ệm vụ nghi ên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Mục đích nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu các quy định của pháp
luật về các hình phạt chính không tước tự do (cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không
giam giữ) dưới khía cạnh lập pháp hình sự và áp dụng trong thực tiễn, từ đó đề ra
những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định về hình phạt không tước tự do

trong luật hình sự Việt Nam, cũng như những giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng
các quy định về hình phạt này trong thực tiễn.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Luận văn tập trung giải quyết những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Nghiên cứu làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về thi hành án hình sự,
các hình phạt chính không tước tự do là cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ:
Khái niệm, đặc điểm, chủ thể, nội dung.....;
- Nghiên cứu, đánh giá thực tiễn thi hành các hình phạt chính không tước
tự do là cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ trên cơ sở so sánh, đối chiếu với
tình hình thực tiễn thi hành trên địa bàn tỉnh Bắc Giang;
- Phân tích, làm rõ những kết quả đạt được cũng như những tồn tại, khó
khăn trong các hình phạt chính không tước tự do là cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo
không giam giữ trên dịa bàn tỉnh Bắc Giang từ năm 2012 đến năm 2017;

6


- Trên cơ sở nghiên cứu đề xuất định hướng và giải pháp hoàn thiện quy
định về hình phạt chính không tước tự do trong Bộ luật hình sự Việt Nam cũng
như nâng cao hiệu quả thi hành các hình phạt chính không tước tự do trong thực
tiễn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Thi hành hình phạt không tước tự do theo pháp luật Việt Nam là một vấn
đề có nội dung khái quát cao, nội dung rộng. Do đó, đối tượng nghiên cứu đối với
đề tài thi hành hình phạt không tước tự do theo pháp luật Việt Nam từ thực tiễn
tỉnh Bắc Giang là các quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động thi hành hình
phạt không tước tự do trong các văn bản pháp luật Thi hành án hình sự, văn bản
pháp luật Tố tụng hình sự và thực tiễn áp dụng hình phạt không tước tự do của
Tòa án hai cấp tại địa bàn tỉnh Bắc Giang. Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng
hình phạt chính không tước tự do (cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ) của

Tòa án nhân dân hai cấp tại địa bàn tỉnh Bắc Giang trong 5 năm (2012 - 2017) để
đề ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định về hình phạt
này trong thực tiễn.
5. Cơ sở l ý l uận và phương pháp nghi ên cứu
Đề tài thực hiện trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa duy vật lịch sử và
chủ nghĩa duy vật mác – xít, tư tưởng Hồ Chí Minh về Nhà nước và pháp
luật, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng Nhà nước pháp quyền,
về chính sách hình sự, về cải cách tư pháp được thể hiện trong các Nghị quyết
Đại hội Đảng khóa VII, VIII, IX, X, XI và các Nghị quyết số 08 – NQ/TW
ngày 02/01/2002, Nghị quyết số 49 – NQ/TW ngày 26/5/2005 của Bộ Chính
trị.
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả luận văn đã sử dụng các
phương pháp cụ thể và đặc thù của khoa học luật hình sự như: phương pháp
phân tích và tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch;
phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê, để tổng hợp các tri thức khoa học
và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn.
6. Ý nghĩ a l ý l uận và thực ti ễn

7


Trên cơ sở tổng hợp các quan điểm khoa học về hình phạt, cũng như về
các hình phạt không tước tự do để xây dựng nên khái niệm các hình phạt chính
không tước tự do (cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ), bảo đảm tính chính
xác, kho a

8


học, đồng thời chỉ ra các đặc điểm cơ bản của các hình phạt chính không tước tự

do. Bên cạnh đó việc nghiên cứu, đánh giá làm sáng tỏ bức tranh về thực tiễn thi
hành các hình phạt không tước tự do trên địa bàn tỉnh Bắc Giang cũng chỉ ra các
hạn chế, tồn tại trong thi hành các hình phạt không tước tự do cũng như những
nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế đó. Trên cơ sở này, luận văn đề xuất các
phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật thực định và nâng cao hiệu quả
áp dụng hình phạt chính không tước tự do trong giai đoạn xây dựng Nhà nước
pháp quyền và cải cách tư pháp hiện nay.
7. Kết cấu của l uận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật thi hành các hình phạt
không tước tự do.
Chương 2: Thực trạng thi hành hình phạt không tước tự do trên địa bàn
tỉnh
Bắc Giang và một số tồn tại vướng
mắc.
Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và bảo đảm thi hành các
hình
phạt không tước tự do.

9


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT THI HÀNH CÁC
HÌNH PHẠT KHÔNG TƯỚC TỰ DO
1.1. Khái ni ệm và đặc đi ểm của thi hành hì nh phạt không tước tự
do
1.1.1. Khái niệm thi hành hình phạt không tước tự do.
Với ý nghĩa là giai đoạn cuối cùng của quá trình giải quyết một vụ án, thi

hành án hình sự có mối quan hệ hữu cơ với các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố,
xét xử. Trên cả bình diện lý luận và thực tiễn đều cho thấy nếu mục đích của thi
hành án không đạt được thì toàn bộ hoạt động của cơ quan điều tra, truy tố, xét
xử trước đó cũng trở nên vô nghĩa. Khi một bản án, quyết định của Tòa án có hiệu
lực pháp luật không được thi hành hoặc thi hành không nghiêm thì trật tự kỷ
cương xã hội bị vi phạm, quyền lực Nhà nước không được thực hiện, pháp luật bị
buông lỏng. Bởi vậy, việc đảm bảo việc thi hành của các bản án, quyết định của
Tòa án là một yêu cầu tất yếu khách quan.
Mặt khác, quá trình thi hành án hình sự là một hoạt động mang tính quyền
lực Nhà nước nhằm thực hiện bản án, quyết định đã có hiệu lực của Tòa án trong
thực tiễn. Bản án, quyết định của Tòa án được thi hành là lúc công lý được thực
hiện trong cuộc sống. Thi hành án hình sự có vai trò quan trọng nhằm đảm bảo
mục đích của hình phạt là không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn nhằm
giáo dục cải tạo họ trở thành công dân có ích cho xã hội, ngăn ngừa họ phạm tội
mới, đồng thời giáo dục mọi người ý thức tuân thủ pháp luật, đấu tranh phòng
chống tội phạm. Bởi vậy, để thực hiện vai trò đó và đảm bảo pháp chế của hoạt
động này thì việc pháp điển hóa toàn bộ các quy định về quá trình thi hành án
hình sự là yêu cầu cấp thiết, tránh sự tùy tiện, vi phạm pháp luật, xâm phạm lợi
ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền và lợi ích hợp pháp của người bị kết án.
Các hình phạt nói chung và các hình phạt chính không tước tự do nói
riêng (cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ) có vai trò quan trọng không chỉ
bảo đảm nguyên tắc phân hoá trách nhiệm hình sự và cá thể hoá hình phạt mà
còn thể hiện được rõ nguyên tắc nhân đạo của Luật Hình sự. Hoạt động thi hành
án hình sự đối với các hình phạt không tước tự do bên cạnh những đặc điểm
chung còn những đặc
10


thù riêng biệt. Sự khác biệt này xuất phát từ đặc thù của từng loại hình phạt và
mục đích, đối tượng áp dụng. Người bị kết án không bị cách ly khỏi xã hội, họ

được cải tạo, giáo dục, thi hành án trong môi trường sống và hoạt động với các
công dân bình thường khác. Tuy nhiên, họ vẫn phải chịu sự giám sát của cơ quan, tổ
chức hoặc chính quyền địa phương nơi họ làm việc hoặc sinh sống. Mô i trường
không giam giữ sẽ có những đặc thù riêng và mỗi hình phạt không tước tự do lại
có thêm những đặc thù riêng. Hiện nay còn có nhiều quan điểm khác nhau về bản
chất của thi hành án hình sự, cũng như bản chất của thi hành các hình phạt không
tước tự do. Có quan điểm cho rằng thi hành án là giai đoạn tiếp theo của quá trình
xét xử [8,tr.8]. Có quan điểm cho rằng, thi hành các hình phạt không tước tự do là
một giai đoạn của quá trình tố tụng và do vậy được điều chỉnh bằng các quy phạm
của luật tố tụng hình sự. Nhưng cũng có ý kiến cho rằng, thi hành các hình phạt
không tước tự do là một hoạt động hành chính – tư pháp hình sự, có những nét đặc
thù riêng khác với hoạt động tố tụng hình sự. Một số khác thì coi thi hành các hình
phạt không tước tự do như là luật hình sự kéo dài. Việc xác định thi hành các hình
phạt không tước tự do là một giai đoạn tố tụng, luật hình sự kéo dài hay là hoạt động
hành chính - tư pháp có ý nghĩa quan trọng để làm sáng tỏ bản chất thi hành án
hình sự, nói chung và thi hành các hình phạt không tước tự do nói riêng, mà xác
định bản chất của thi hành các hình phạt không tước tự do là một trong những
vấn đề quan trọng của thi hành các hình phạt không tước tự do. Bởi lẽ, xác định
đúng bản chất thi hành các hình phạt không tước tự do có ý nghĩa quan trọng trên
nhiều phương diện, đặc biệt là tạo ra cơ chế quản lý, mô hình tổ chức và hoạt động
phù hợp nhằm bảo đảm thi hành các hình phạt không tước tự do.
Như vậy, có thể nêu một cách khái quát định nghĩa về khái niệm thi hành
các hình phạt không tước tự do như sau: Thi hành hình phạt không tước tự do là
hoạt động của cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật
buộc người chấp hành các hình phạt không tước tự do phải tuân thủ, chấp hành
các hình phạt mà Tòa án đã tuyên án đối với họ tại phiên tòa, phù hợp với tính
chất, mức độ nguy hiểm của tội phạm do họ gây ra nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà
nước, tổ chức và công dân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa và ngăn ngừa họ
phạm tội mới, cũng như phòng ngừa tội phạm chung cho toàn xã hội.


11


1.1.2. Đặc điểm của thi hành hình phạt không tước tự do.
Xét về bản chất, tố tụng là việc giải quyết các tranh chấp thông qua thủ
tục xét xử của Tòa án. Điều đó có nghĩa là khi Tòa án đã đưa ra phán quyết về
chân lý của sự việc, về việc phạm tội hay không phạm tội và về hình phạt áp
dụng đối với trường hợp này hay trường hợp khác thì quá trình tố tụng cũng kết
thúc. Nói cách khác là tố tụng hình sự xác định có hay không có quan hệ pháp
luật hình sự trong trường hợp này. Nếu có quan hệ đó thì quá trình tiếp theo là
thực hiện nội dung của pháp luật hình sự: hình phạt hoặc biện pháp tư pháp hình
sự. Thực hiện nội dung này không thể tuân theo trình tự, thủ tục tố tụng, vì không
có tranh chấp cần xét xử. Ở đây, thực chất là hoạt động quản lý hành chính - tư
pháp hình sự. Bởi lẽ pháp luật thi hành án hình sự có đối tượng điều chỉnh là “lĩnh
vực các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thi hành tất cả các loại án hình
sự, trong quá trình giáo dục và cải tạo người bị trách nhiệm hình sự hoặc bị án”
[62,tr.143]. Điều này được thể hiện ở những điểm sau:
Một là, thi hành các hình phạt không tước tự do thực chất là hoạt động
mang tính điều hành và chấp hành. Điều hành và chấp hành là đặc trưng của quản
lý hành chính. Tuy nhiên, đây là hoạt động điều hành và chấp hành để thực hiện bản
án, quyết định của Tòa án, tức là một nội dung có tính chất tư pháp;
Hai là, với tính chất là một hoạt động chấp hành, cho dù căn cứ để thi
hành các hình phạt không tước tự do là các bản án và quyết định của Tòa án,
nhưng quá trình thi hành các hình phạt không tước tự do được thực hiện với
những hoạt động, biện pháp, cách thức không mang tính tố tụng, nghĩa là không
thuần túy là luật hình thức, mà ở đây, có thể thấy sự kết hợp giữa luật nội dung với
luật hình thức;
Ba là, trong quá trình thi hành, các cơ quan thi hành các hình phạt không
tước tự do tác động trực tiếp tới đối tượng phải thi hành các bản án không tước tự
do để họ tự giác thi hành hoặc áp dụng các biện pháp buộc họ phải thi hành

nghĩa vụ đã được xác định trong bản án, quyết định của Tòa án; giáo dục họ ý thức
tôn trọng pháp luật, tôn trọng lợi ích của cá nhân, của Nhà nước và xã hội, giáo
dục họ trở thành người công dân có ích với xã hội. Có thể nói đây là phương
pháp thuyết phục giáo dục và mệnh lệnh hành chính;

12


Bốn là, việc thi hành các hình phạt không tước tự do, như cải tạo không
giam giữ, phạt tiền, cảnh cáo, được giao cho cơ quan thi hành án dân sự hay cơ
quan, tổ chức, chính quyền địa phương thực hiện theo thủ tục quản lý hành chính.
Như vậy, có thể nói trong quá trình thi hành án hình sự, pháp luật được áp dụng
chủ yếu không phải là pháp luật tố tụng, mà là các quy định pháp luật về hành
chính – tư pháp;
Năm là, thi hành các hình phạt không tước tự do trước hết là hoạt động của
cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của xã hội, quá trình xã hội
hóa hoạt động thi hành các hình phạt không tước tự do cũng đang được tiến
hành với nhiều triển vọng khả quan. Đây là điểm khác biệt so với hoạt động tố
tụng, hoàn toàn mang tính quyền lực tư pháp chặt chẽ.
Tóm lại, thi hành các hình phạt không tước tự do tuy có quan hệ chặt chẽ
với các giai đoạn tố tụng trước đó nhưng vẫn là một hoạt động có tính đặc thù, và
có mục đích trực tiếp riêng biệt. Mọi hoạt động tố tụng hình sự đều dừng lại ở việc
phán quyết của Tòa án, còn thi hành án lại được triển khai bắt đầu từ một phán
quyết của Tòa án có hiệu lực thi hành nhằm thực hiện các nội dung trong phán
quyết của Tòa án. Hơn nữa, các mối quan hệ phát sinh trong quá trình thi hành các
hình phạt không tước tự do tuân theo các nguyên tắc mang đậm tính hành chính
hơn là tính tố tụng. Nhưng mặt khác, không thể không thấy mối quan hệ biện
chứng giữa quá trình tố tụng hình sự và thi hành các hình phạt không tước tự do:
tố tụng là tiền đề, khởi đầu của thi hành các hình phạt không tước tự do; ngược lại,
thi hành các hình phạt không tước tự do là thực hiện kết quả tố tụng trong thực tế.

Không có tố tụng thì không có thi hành các hình phạt không tước tự do, nhưng
không có thi hành án thì tố tụng trở nên vô nghĩa. Từ những phân tích trên, có thể
thấy: thi hành các hình phạt không tước tự do là hoạt động có tính hành chính – tư
pháp.
1.1.3. Các nguyên tắc của thi hành hình phạt không tước tự do
Nguyên tắc được hiểu là tư tưởng, quan điểm cơ bản, đóng vai trò chỉ đạo
các hành động cụ thể. Nguyên tắc thường được thể hiện dưới hình thức các luận
điểm, các nguyên lý có tính chất xuất phát điểm, định hướng và nhất thiết phải
được tôn trọng, quán triệt trong một loạt việc làm. Nguyên tắc vừa mang tính
khách quan lại vừa mang tính chủ quan. Nguyên tắc, trước hết là sự phản ánh
13


khách quan, phản ánh thực tế vận động và tồn tại của xã hội, phản ánh bản chất
của chế độ, của cơ sở kinh

14


tế-xã hội, của trình độ, điều kiện phát triển lịch sử của đất nước, của xã hội.
Đồng thời nguyên tắc cũng mang đậm dấu ấn chủ quan, vì thực tế khách quan phản
ánh qua nhận thức của con người mà được nâng lên thành quan điểm, thông qua
khả năng, trình độ, nhận thức nhu cầu khách quan của đời sống xã hội. Vì vậy,
khi nói đến nguyên tắc thì vừa phải nói đến cái phổ biến, vừa phải nói đến đặc thù
của sự ra đời, hình thành ở một thời đại hay một chế độ xã hội khác nhau.
Nguyên tắc cơ bản của việc tổ chức và hoạt động thi hành án hình phạt
không tước tự do chính là những tư tưởng, quan điểm, nguyên lý có tính chỉ đạo cho
việc tổ chức và hoạt động thi hành án hình sự trong khi thực hiện các bản án, quyết
định hình sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật đối với các hình phạt không tước tự
do trên thực tế; giáo dục, cải tạo người bị kết án, phòng ngừa để họ không phạm tội

mới, tạo điều kiện để họ tái hòa nhập cộng đồng và giáo dục người khác tôn trọng
pháp luật, đấu tranh phòng, chống tội phạm. Do đó hệ thống các nguyên tắc tổ chức
và hoạt đ ộng thi hành án hình phạt không tước tự do ở Việt Nam hiện nay vừa
phải thể hiện bản chất của hoạt động thi hành hình phạt không tước tự do ở nước ta,
vừa phải tính đến hướng phát triển xã hội ta trong những năm tới dưới tác động của
cải cách tư pháp và cải cách hành chính, vừa phải phản ánh tính đặc thù của thi
hành hình phạt không tước tự do trong những điều kiện kinh tế - chính trị - xã hội ở
giai đoạn hiện nay.
Tại Điều 4 Luật thi hành án hình sự đã quy định tám nguyên tắc cơ bản là
tư tưởng chỉ đạo, thể hiện xuyên suốt trong các quy định về pháp luật thi hành án
hình phạt không tước tự do cũng như trong hoạt động thi hành án hình phạt không
tước tự do, bao gồm:
1) Tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân: Đây là một trong những nguyên tắc cơ bản
đối với tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta hiện nay, nguyên tắc này cũng
được ghi nhận tại Điều 8 Hiến pháp năm 2013. Tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, bảo
đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân là yêu
cầu hàng đầu trong tổ chức và hoạt động thi hành án. Trong việc thi hành các hình
phạt không tước tự do, nội dung chủ yếu của nguyên tắc đó là việc thi hành các
hình phạt này hợp pháp theo đúng quy định của pháp luật. Các cơ quan thi hành các
hình phạt không tước tự do, cá nhân có thẩm quyền trong thi hành các hình phạt
không tước tự do có
15


trách nhiệm tuân thủ theo đúng Hiến pháp, pháp luật nhằm đảm bảo quyền và lợi
ích hợp pháp của người bị kết án. Để đảm bảo nguyên tắc tuân thủ Hiến pháp, pháp
luật, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân
trong hoạt động thi hành các hình phạt không tước tự do cần có các điều kiện sau:
- Trong quan hệ tổ chức và hoạt động thi hành các hình phạt không tước tự

do thì pháp luật thi hành án hình sự luôn phải giữ vị trí thượng tôn. Toàn bộ quá
trình thi hành các hình phạt không tước tự do, từ khâu tổ chức đến việc triển khai
công tác thi hành án thì đều phải được đặt trong những khuôn khổ pháp lý chặt
chẽ. Các văn bản pháp luật phải là cơ sở cho việc trật tự hóa và bảo đảm ổn định
các quan hệ tổ chức và hoạt động thi hành các hình phạt không tước tự do, là cơ sở
của việc xây dựng và giải quyết các mối quan hệ nảy sinh giữa các chủ thể tham
gia các quan hệ thi hành án, là cơ sở đảm bảo mục đích và hiệu quả của hoạt động
thi hành các hình phạt không tước tự do.
- Hệ thống các văn bản pháp luật điều chỉnh tổ chức và hoạt động thi hành
các hình phạt không tước tự do phải tương đối đầy đủ và phù hợp. Các văn bản quy
phạm pháp luật phải được xây dựng trên cơ sở nhận thức đúng đắn các quy luật
khách quan của sự phát triển xã hội, thể hiện đầy đủ các đặc thù riêng biệt của các
quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình thi hành án, bảo đảm lợi ích của Nhà
nước, quyền, lợi ích hợp pháp của cộng động cũng như của từng tổ chức, cá nhân
có liên quan, đủ khả năng điều chỉnh có hiệu quả tổ chức và hoạt động thi hành
các hình phạt không tước tự do.
- Pháp luật về thi hành các hình phạt không tước tự do phải được tuân thủ,
chấp hành nghiêm chỉnh, nhất quán. Yêu cầu đó, trước hết, phải được quán triệt
trong toàn bộ công tác tổ chức và trong hoạt động tác nghiệp của các cơ quan, nhân
viên thi hành án. Các cơ quan thi hành án có trách nhiệm tổ chức thi hành nghiêm
chỉnh c ác bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, loại bỏ sự tùy
tiện, vô tổ chức, thiếu kỷ luật trong lĩnh vực thi hành án và phải xử lý nghiêm
minh mọi biểu hiện vi phạm pháp luật trong lĩnh vực thi hành án, bao gồm những
vi phạm pháp luật từ phí a những người có nghĩa vụ chấp hành án và những người
có trách nhiệm tổ chức việc thi hành án [67, tr. 50-51].

16


- Mọi hoạt động trong lĩnh vực thi hành án hình sự nói chung và trong hoạt

động thi hành các hình phạt không tước tự do nói riêng đều phảo bảo đ ảm lợi ích
của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Mọi hành vi xâm
phạm bất hợp pháp đến các quyền và lợi ích này đều là trái pháp luật và phải được
xử lý nghiê m minh.
Từ những phân tích trên có thể thấy nguyên tắc tuân thủ Hiến pháp, pháp
luật, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân hiện đang đặt ra những yêu cầu cụ thể đối với công tác xây dựng, hoàn thiện
và thực thi pháp luật thi hành hình phạt không tước tự do ở nước ta hiện nay. Cần
sớm hoàn thiện các văn bản quy phạm pháp luật để tạo cơ sở pháp lý vững chắc
cho việc xác lập và nâng cao hiệu quả hoạt động thi hành hình phạt không tước tự
do. Ngoài ra, cũng cần tổ chức hệ thống các cơ quan tư pháp hoạt động theo cơ chế
kết hợp nguyên tắc tập trung thống nhất và phát huy vai trò tích cực, chủ động của
chính quyền địa phương và của ủy ban Mặt trận và các đoàn thể nhân dân địa
phương.
2) Bản án, quyết định có hiệu lực thi hành phải được cơ quan, tổ chức, cá
nhân tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh: Nhiệm vụ trọng tâm của thi hành án
hình sự nói chung và thi hành các hình phạt không tước tự do nói riêng là bảo
đảm thi hành đúng đắn bản án, quyết định có hiệu lực. Nhiệm vụ này gắn liền với
mục tiêu lớn nhất của tố tụng hình sự là làm sáng tỏ sự thật vụ án, xét xử đúng
người, đúng tội, đúng pháp luật. Việc thi hành đúng đắn bản án, quyết định có hiệu
lực là cơ sở để thực hiện các nhiệm vụ khác của thi hành các hình phạt không
tước tự do: giáo dục, răn đe người bị kết án và giáo dục ý thức tôn trọng pháp
luật, ý thức tham gia phòng, chống tội phạm của mọi công dân. Như vậy thi hành
đúng đắn bản án, quyết định có hiệu lực là yêu cầu khách quan.
Để bản án, quyết định có hiệu lực được thi hành đúng đắn đòi hỏi các cơ
quan, tổ chức, cá nhân phải tôn trọng và chấp hành nghiêm chỉnh bản án, quyết
định đó. Theo tinh thần của nguyên tắc này, mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên
quan trong việc thi hành bản án, quyết định có hiệu lực cần phải xác định rõ nhiệm
vụ của mình trong việc thi hành, chấp hành bản án, quyết định đồng thời hoàn
thành tốt nhiệm vụ đó. Chỉ khi tất cả các chủ thể có liên quan trong thi hành bản

án, quyết định có hiệu
17


lực thực hiện theo đúng tinh thần đó thì những bản án, quyết định này mới có
thể được thực thi đúng đắn trong thực tiễn.
3) Bảo đảm nhân đạo xã hội chủ nghĩa; tôn trọng nhân phẩm, quyền, lợi ích
hợp pháp của người chấp hành án: Trong pháp luật thi hành các hình phạt không
tước tự do, nguyên tắc nhân đạo thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội cũng như
truyền thống nhân đạo của dân tộc Việt Nam và được cụ thể hóa tại Điều 20 Hiến
pháp năm 2013. Ngoài ra nguyên tắc nhân đạo còn được ghi nhận tại Điều 5
Tuyên ngôn thế giới về nhân quyền: “Không ai có thể bị tra tấn hoặc bị trừng
phạt đối xử vô nhân đạo, tàn
bạo” [11,Tr.64]. Nội dung cơ bản của nguyên tắc nhân đạo trong pháp luật thi
hành các hình phạt không tước quyền tự do là nhằm mục đích không gây nên
những đau đớn về thể xác hay sỉ nhục nhân cách họ mà nhằm mục đích thực thi
công lý, đảm bảo sự công bằng, giáo dục người phạm tội ý thức được việc thi hành
pháp luật…Do vậy, nguyên tắc nhân đạo đòi hỏi hoạt động thi hành hình phạt
không tước tự do phải tôn trọng nhân phẩm và danh dự của cá nhân người chấp
hành án nhưng vẫn phải bảo đảm việc thực thi pháp luật có hiệu quả, hài hòa các
lợi ích khác nhau.
Nguyên tắc nhân đạo trong tổ chức và hoạt động thi hành các hình phạt
không tước tự do không đồng nghĩa với việc nương nhẹ, bỏ qua một cách vô căn
cứ đối với người không chấp hành các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
của Tòa án. Việc quán triệt nguyên tắc nhân đạo không được làm mất tính nghiêm
minh của pháp luật cũng như không được phép vi phạm các nguyên tắc khác về tổ
chức và hoạt động thi hành các hình phạt không tước tự do. Do vậy, nguyên tắc
nhân đạo luôn được thể hiện trong toàn bộ các quy định về điều kiện, thủ tục thi
hành án, các quy định về quyền, nghĩa vụ của người bị kết án với các hình phạt
không tước tự do với tư tưởng xuyên suốt là tôn trọng quyền lợi, giá trị, phẩm giá

của người chấp hành án.
4) Kết hợp trừng trị và giáo dục cải tạo trong việc thi hành án; áp dụng biện
pháp giáo dục cải tạo phải trên cơ sở tính chất và mức độ phạm tội, độ tuổi, giới
tính, trình độ vă hóa và các đặc điểm nhân thân khác của người chấp hàn h án:
Để đạt được mục đích của hình phạt là không chỉ nhằm trừng trị mà còn giáo
dục cải tạo người phạm tội, nguyên tắc kết hợp giáo dục, cải tạo với cưỡng chế
được thể hiện trong các quy định của pháp luật thi hành các hình phạt không tước
18


tự do cũng như trong thực tiễn thi hành các hình phạt này. Như vậy cần phải quy
định và áp dụng các

19


biện pháp, hình thức giáo dục, cải tạo thích hợp. Điều quan trọng là giúp cho
người bị kết án nhận thức được hành vi sai trái của mình, thấy được hậu quả mà
họ đã gây ra cho xã hội, gia đình và bản thân, từ đó có suy nghĩ, hành động đúng
về sau.
Đối với các hình phạt không tước tự do, sự tự nguyện thi hành án là một
trong những yếu tố quan trọng tạo điều kiện cho hoạt động thi hành án được diễn
ra thuận lợi, có hiệu quả, tránh được những chi phí không cần thiết. Do vậy, các
quy định khuyến khích trong pháp luật thi hành án là cần thiết để người có nghĩa
vụ thi hành án tự nguyện thực hiện những nghĩa vụ mà bản án, quyết định của Tòa
án yêu cầu và tạo ra thủ tục cần thiết để họ thực hiện sự tự nguyện đó. Việc áp
dụng các biện pháp cưỡng chế chỉ khi người có nghĩa vụ thi hành án không tự
nguyện và việc áp dụng biện pháp cưỡng chế là thực sự cần thiết để hoạt động thi
hành án đạt được mục đích đề ra với tính chất là biện pháp cuối cùng để bảo đảm
hiệu lực, tính nghiêm minh của pháp luật và của bản án được tuyên nhân danh nhà

nước. Việc vận dụng nguyên tắc kết hợp giáo dục,cải tạo với cưỡng chế trong tổ
chức và thi hành các hình phạt không tước tự do đòi hỏi phải tìm ra sự kết hợp
đúng đắn. Mối quan hệ này cần phải được xây dựng trên cơ sở nhận thức về mức
độ, liều lượng khác nhau của sự kết hợp các biện pháp giáo dục, cải tạo, thuyết
phục và các biện pháp cưỡng chế đối với việc thi hành từng loại án khác nhau
cũng như đối với từng trường hợp người bị kết án khác nhau. Tuy nhiên, trong
mọi trường hợp, tinh thần của nguyên tắc trên đòi hỏi phảo bảo đảm việc áp dụng
các biện pháp cưỡng chế ở mức độ và liều lượng tối thiểu còn các biện pháp giáo
dục, cải tạo, thuyết phục được áp dụng đ ến mức độ và liều lượng tối đa.
5) Thi hành án đối với người chưa thành niên chủ yếu nhằm giáo dục, giúp
đỡ họ sửa chữa sai lầm, phát triển lành mạnh và trở thành người có ích cho xã
hội: Người chưa thành niên là đối tượng luôn nhận được sự quan tâm đặc bi ệt
của Nhà nước và xã hội trong lĩnh vực tư pháp hình sự nói chung, trong lĩnh vực
thi hành án hình sự nói riêng. Nguyên tắc này đòi hỏi các biện pháp và chế độ áp
dụng đối với người chấp hành án là người chưa thành niên cần phải chủ yếu
mang tính giao dục , tác động đến người chấp hành án nhằm giáo dục, giúp họ
sửa chữa được sai lầm, trang bị cho họ những kiến thức, thói quen và kỹ năng
sống cần thiết. Những biện

20


pháp và chế độ này không được mang tính hà khắc, trả thù, xúc phạm nhân
phẩm, danh dự người chấp hành án.
6) Khuyến khích người chấp hành án ăn năn hối cải, tích cực học tập, lao
động cải tạo, tự nguyện bồi thường thiệt hại: Mục tiêu của thi hành án hình sự nói
chung và thi hành hình phạt không tước tự do nói riêng là trả lại cho xã hội trạng
thái an toàn, ổn định bằng cách giáo dục, cải tạo người đã bị kết án trở thành
người có ích cho xã hội, khắc phục hậu quả mà tội phạm đã gây ra, ngăn ngừa tội
phạm mới. Mục tiêu này chỉ có thể thực hiện được khi tất cả các chủ thể có liên

quan trong tổ chức thi hành án hình sự thực sự nỗ lực. Ngoài ra không thể thiếu
sự nỗ lực của bản thân người chấp hành án. Vì vậy, Nhà nước cần phải có chính
sách khuyến khích người chấp hành án ăn năn hối cải, tích cực học tập, lao động
cải tạo, tự nguyện bồi thường thiệt hại khắc phục hậu quả đối với hành vi phạm tội
đã gây ra. Nội dung của nguyê n tắc này thể hiện ở việc quy định của luật cũng như
trong thực tiễn thi hành các hình phạt không tước tự do cần ghi nhận và có những
biện pháp động viên, khích lệ phù hợp trên cơ sở mức độ ăn năn hối cải, tích cực
học tập, lao động cải tạo, tự nguyệ n bồi thường thiệt hại của người chấp hành án.
Những hình thức động viên, khen thưởng phù hợp và kịp thời là sự thể hiện tập
trung nhất của sự khuyến khích này.
7) Bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo những hành vi, quyết định trái pháp luật
trong hoạt động thi hành hình phạt không tước tự do: Để bảo đảm pháp chế cũng
như quyền, lợi ích của mọi cá nhân, tổ chức, mọi hành vi vi phạm pháp luật
trong hoạt động thi hành hình phạt không tước tự do cần bị xử lý nghiêm minh. Nội
dung cơ bản của nguyên tắc này là quyền khiếu nại, tố cáo những hành vi, quyết
định trái pháp luật trong hoạt động thi hành hình phạt không tước tự do phải
được ghi nhận trong luật vào bảo đảm trong thực tiễn. Thể hiện tinh thần nguyên
tắc này, Luật thi hành án hình sự đã quy định rõ nhiều nội dung liên quan đến quyền
khiếu nại, tố cáo trong thi hành án hình sự. Cùng với những quy định về khiếu nại
và giải quyết khiếu nại đó, Luật thi hành án hình sự cũng có những quy định khá
cụ thể, rõ ràng về tố cáo và giải quyết tố cáo trong thi hành án hình sự như quy
định quyền tố cáo trong thi hành án hình sự là quyền của con người chấp hành án
và mọi công dân; quyền và nghĩa vụ của người tố cáo và người bị tố cáo….

21


×