Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

Khảo sát quan hệ thuộc tính trong hệ thống danh từ tiếng việt (trên cứu liệu của một số từ điển) (luận văn thạc sỹ ngôn ngữ và văn hoá nước ngoài)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (936.2 KB, 120 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------------------

LÊ THỊ HƯƠNG LAN

KHẢO SÁT QUAN HỆ THUỘC TÍNH
TRONG HỆ THỐNG DANH TỪ TIẾNG VIỆT
(TRÊN CỨ LIỆU CỦA MỘT SỐ TỪ ĐIỂN)

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

HÀ NỘI - 2017


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------------------------

LÊ THỊ HƯƠNG LAN

KHẢO SÁT QUAN HỆ THUỘC TÍNH
TRONG HỆ THỐNG DANH TỪ TIẾNG VIỆT
(TRÊN CỨ LIỆU CỦA MỘT SỐ TỪ ĐIỂN)
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học
Mã số: 60 22 02 40

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGÔN NGỮ HỌC

Người hướng dẫn: GS.TS. Lê Quang Thiêm


HÀ NỘI - 2017


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình học tập, nghiên cứu và thực hiện luận văn thạc sĩ, tôi đã
nhận được sự giúp đỡ và hướng dẫn nhiệt tình của quý Thầy cô cũng như sự
động viên, ủng hộ của gia đình và bạn bè.
Trước tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất tới
GS.TS. Lê Quang Thiêm – người đã trực tiếp hướng dẫn tôi một cách tận tình,
chu đáo giúp tôi hoàn thành luận văn một cách tốt nhất.
Tôi cũng xin được gửi lời cảm ơn tới tất cả các quý Thầy cô, cán bộ khoa
Ngôn ngữ học Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội đã tận tình
truyền đạt những kiến thức quý báo và tạo mọi điều kiện thuận lợi để tôi có thể
hoàn thành tốt luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin chân thành cảm ơn tới gia đình, các anh chị và các bạn
bè đồng nghiệp đã hỗ trợ cho tôi rất nhiều trong suốt quá trình học tập, nghiên
cứu và thực hiện đề tài luận văn thạc sĩ.
Mặc dù tôi đã cố gắng thực hiện luận văn bằng tất cả tinh thần và năng lực
của mình, tuy nhiên không thể tránh được những thiếu sót, rất mong nhận được
sự thông cảm và chỉ bảo từ quý Thầy cô.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Hà Nội, tháng 10 năm 2017
Tác giả luận văn

Lê Thị Hương Lan


MỤC LỤC

MỤC LỤC ......................................................................................................... 1

MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 5
1. Lí do chọn đề tài ............................................................................................. 5
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................. 6
2.1. Mục đích nghiên cứu ............................................................................. 6
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................. 6
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 7
4. Tư liệu và phương pháp nghiên cứu................................................................ 8
4.1. Tư liệu nghiên cứu ................................................................................. 8
4.2. Phương pháp nghiên cứu....................................................................... 8
5. Cấu trúc luận văn............................................................................................ 8
Chương 1: LỊCH SỬ VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU
QUAN HỆ THUỘC TÍNH TRONG TIẾNG VIỆT ............................................ 9
1.1. Đặt vấn đề ................................................................................................... 9
1.2. Lịch sử nghiên cứu ...................................................................................... 9
1.2.1. Cách tiếp cận từ góc độ ngữ pháp ...................................................... 9
1.2.2. Cách tiếp cận từ góc độ từ vựng – ngữ nghĩa ................................... 12
1.3. Cơ sở lí thuyết ........................................................................................... 16
1.3.1. Quan niệm về quan hệ thuộc tính ...................................................... 16
1.3.2. Phân biệt quan hệ thuộc tính với các quan hệ ngữ nghĩa quan trọng
khác............................................................................................................ 18
1.3.3. Việc giải thích nghĩa / định nghĩa từ ngữ trong từ điển ngữ văn ....... 20
1.4. Tiểu kết ..................................................................................................... 25

1


Chương 2: NHẬN DIỆN, PHÂN LOẠI VÀ MIÊU TẢ QUAN HỆ THUỘC
TÍNH TRONG HỆ THỐNG DANH TỪ TIẾNG VIỆT .................................... 27
2.1. Đặt vấn đề ................................................................................................. 27
2.2. Nhận diện quan hệ thuộc tính .................................................................... 27

2.2.1. Kết cấu 1 .......................................................................................... 28
2.2.2. Kết cấu 2 .......................................................................................... 28
2.2.3. Kết cấu 3 .......................................................................................... 29
2.2.4. Kết cấu 4 .......................................................................................... 30
2.2.5. Kết cấu 5 .......................................................................................... 31
2.3. Phân loại quan hệ thuộc tính ...................................................................... 32
2.3.1. Tiêu chí phân loại ............................................................................. 32
2.3.2. Kết quả phân loại ............................................................................. 33
2.4. Miêu tả quan hệ thuộc tính trong hệ thống danh từ tiếng Việt .................... 39
2.4.1. Về mặt cấu tạo .................................................................................. 39
2.4.2. Về mặt nguồn gốc của yếu tố chỉ thuộc tính ...................................... 42
2.4.3. Về cách gọi tên trực tiếp/gián tiếp của thuộc tính ............................. 44
2.4.4. Về sự phân chia theo các khu vực cảm giác của thuộc tính ............... 47
2.4.5. Về đặc điểm của thành tố B ............................................................. 51
2.5. Tiểu kết ..................................................................................................... 53
Chương 3: BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU LỜI GIẢI THÍCH NGHĨA/ĐỊNH
NGHĨA CỦA CÁC DANH TỪ CHỨA QUAN HỆ THUỘC TÍNH TRONG
TỪ ĐIỂN ......................................................................................................... 56
3.1. Đặt vấn đề ................................................................................................. 56
3.2. Mô hình lời giải thích nghĩa/ định nghĩa của các danh từ chứa quan hệ thuộc
tính trong từ điển .............................................................................................. 56
3.2.1. Mô hình lời giải thích nghĩa/ định nghĩa bằng từ đồng nghĩa ........... 57
3.2.2. Mô hình lời giải thích nghĩa/ định nghĩa bằng từ bao ....................... 58

2


3.3. Đặc điểm các loại mô hình lời giải thích nghĩa/ định nghĩa của hệ thống
danh từ có chứa quan hệ thuộc tính trong từ điển ............................................. 63
3.3.1. Mô hình lời giải thích nghĩa/ định nghĩa bằng từ đồng nghĩa ........... 63

3.3.2. Mô hình lời giải thích nghĩa/ định nghĩa bằng từ bao ...................... 66
3.4. Tiểu kết ..................................................................................................... 69
KẾT LUẬN ...................................................................................................... 71
TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 73
PHỤ LỤC......................................................................................................... 77

3


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
1. TĐTV

Từ điển tiếng Việt

2. ĐTĐTV

Đại từ điển tiếng Việt

4


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Trong hệ thống từ vựng của mỗi ngôn ngữ, quan hệ thuộc tính (attribute)
cùng với các quan hệ đồng nghĩa (synonymy), trái nghĩa (antonymy), thuộc
nghĩa (hyponymy) (như hoa hồng–hoa, hoa–thực vật), phân nghĩa (meronymy)
(như hoa–cánh hoa), cách (troponymy) (như bán–bán lẻ), suy ra (entailment)
(như vá–rách), nhân quả (causonymy) (như xé–rách),… là những quan hệ ngữ
nghĩa cơ bản, quan trọng [40, 42, 44, 45, 46]. Trong Việt ngữ học, các quan hệ
đồng nghĩa và trái nghĩa là những quan hệ ngữ nghĩa đã được quan tâm nghiên

cứu từ rất sớm [4, 5, 9, 31, 32,...], nhưng các quan hệ còn lại, trong đó có quan
hệ thuộc tính, lại chưa được quan tâm nghiên cứu nhiều, và thường chỉ được đề
cập nghiên cứu một cách gián tiếp và tương đối rời rạc trong ngữ pháp và từ
vựng học (truyền thống), chứ chưa được gọi tên và quan tâm nghiên cứu một
cách chính thức và trực tiếp với tư cách là một đối tượng nghiên cứu thực thụ
trong ngữ nghĩa học.
Dù chưa được quan tâm nghiên cứu một cách đúng mức nhưng việc
nghiên cứu quan hệ thuộc tính lại có ý nghĩa vô cùng quan trọng xét cả về mặt lí
luận và mặt thực tiễn.
Về mặt lí luận, quan hệ thuộc tính là một quan hệ ngữ nghĩa có vai trò
quan trọng trong việc kết nối các đơn vị từ vựng khác từ loại lại với nhau (cụ thể
là danh từ với tính từ, động từ với tính từ) để tạo thành bộ từ vựng tinh thần
(mental lexicon). Việc nghiên cứu quan hệ thuộc tính có thể cung cấp cho chúng
ta rất nhiều tư liệu để góp phần tìm hiểu và lí giải các cơ chế định danh và cấu
tạo từ tiếng Việt từ góc độ ngữ nghĩa học, qua đó góp phần quan trọng vào việc
thúc đẩy sự phát triển của ngữ nghĩa học tiếng Việt.
Về mặt thực tiễn, việc làm rõ đặc điểm của quan hệ thuộc tính sẽ góp
phần giải mã cơ chế nhận thức, tâm lí và tư duy của người Việt qua hệ thống từ
vựng. Đồng thời, việc nghiên cứu này còn có thể cung cấp những thông tin hữu
ích đối với những khoa học liên ngành với ngôn ngữ học chẳng hạn như công

5


nghệ thông tin trong vấn đề về xử lí ngôn ngữ tự nhiên, mà cụ thể là xây dựng
mạng từ (Wordnet) hay các kho ngữ liệu từ vựng khác; chẳng hạn, trong Mạng
từ tiếng Anh (của Đại học Princeton), Mạng từ Châu Âu, Mạng từ Châu Á,
Mạng từ tiếng Việt, quan hệ thuộc tính đã được xử lí là một trong những quan hệ
lớn, quan trọng hàng đầu trong việc kết nối hệ thống từ vựng danh từ với hệ
thống từ vựng tính từ (như sức khoẻ–khoẻ/ yếu, vận tốc–nhanh/chậm,…) [14, 16,

17, 38, 45, 46, 47]. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu này cũng góp phần ít nhiều vào
việc thực hành từ điển học thông qua việc xác lập cấu trúc vĩ mô và vi mô của từ
điển một cách hệ thống hơn. Mặt khác, vì quan hệ thuộc tính (lửa–nóng, ớt–cay,
chanh–chua,...) là một trong những cơ chế liên tưởng quan trọng hàng đầu của
con người, nên việc nghiên cứu về nó sẽ góp phần quan trọng trong đánh giá, đo
lường và phát triển trí tuệ và tư duy của trẻ, tìm hiểu cơ chế thụ đắc ngôn ngữ
của trẻ [15].
Vì những lí do như trên, tác giả luận văn mạnh dạn lựa chọn và thực hiện
đề tài với tên gọi Khảo sát quan hệ thuộc tính trong hệ thống danh từ tiếng Việt
(trên cứ liệu của một số từ điển), hi vọng có thể đóng góp được một phần nào đó
vào công việc nghiên cứu và định vị quan hệ thuộc tính với tư cách một quan hệ
ngữ nghĩa chính danh của hệ thống từ vựng tiếng Việt.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của đề tài này là làm rõ đặc điểm của quan hệ thuộc
tính vốn được biểu hiện thông qua các đơn vị từ vựng thường được gán nhãn từ
loại danh từ trong các từ điển ngữ văn.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để có thể thực hiện được mục đích nêu trên, luận văn đặt ra cho mình
những nhiệm vụ cụ thể như sau:
-

Tìm hiểu lịch sử nghiên cứu, xác định cơ sở lí thuyết của việc

nghiên cứu quan hệ thuộc tính.
-

Thu thập tư liệu, lập danh sách các đơn vị từ vựng được dán nhãn là

danh từ có chứa quan hệ thuộc tính trong một số từ điển.


6


-

Nhận diện, phân loại và miêu tả quan hệ thuộc tính trong hệ thống

danh từ tiếng Việt trên cơ sở tư liệu đã khảo sát được.
-

Bước đầu tìm hiểu lời giải thích nghĩa của những danh từ chứa quan

hệ thuộc tính trong một số từ điển, từ đó đưa ra một số nhận xét bước đầu về
chính những lời giải thích nghĩa đó.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quan hệ thuộc tính trong hệ thống
từ vựng tiếng Việt.
Quan hệ thuộc tính xuất hiện ở cả danh từ và động từ, tuy nhiên, do khuôn
khổ có hạn, luận văn chỉ khảo sát các đơn vị từ vựng thuộc phạm trù từ loại danh
từ có chứa quan hệ thuộc tính; nghĩa là luận văn chỉ khảo sát những đơn vị từ
vựng mà trong đó các yếu tố từ vựng cấu thành nên chính những đơn vị từ vựng
đó có tồn tại quan hệ thuộc tính. Hơn nữa, do quan hệ thuộc tính trong hệ thống
từ vựng danh từ cũng rất đa dạng, phức tạp, cho nên, luận văn tiếp tục giới hạn
phạm vi nghiên cứu của mình vào các đơn vị từ vựng danh từ vốn dĩ đã được cố
định hoá, được lựa chọn và ghi nhận trong một số từ điển ngữ văn.
Vì tư liệu nghiên cứu của luận văn được giới hạn trong những đơn vị từ
vựng được chú từ loại là danh từ của từ điển, cho nên khi tiến hành khảo sát,
phân tích quan hệ thuộc tính của các đơn vị từ vựng này, luận văn cũng chỉ tập
trung xem xét quan hệ thuộc tính có thể có giữa các thành tố cấu tạo nên chính

những đơn vị từ vựng danh từ (xét về mặt đồng đại), chứ không xem xét cơ chế
chuyển nghĩa và sự đóng góp ngữ nghĩa của chính những thành tố cấu tạo ấy cho
nghĩa của tổng thể đơn vị từ vựng danh từ đang xét. Chẳng hạn, trong Từ điển
tiếng Việt (Hoàng Phê cb., tr. 946) có má đào, má hồng, luận văn chỉ xem xét
mối quan hệ thuộc tính giữa má và đào/ hồng, xét về mặt đồng đại; chứ không đi
tìm hiểu tại sao và như thế nào mà má, đào/ hồng, má đào, má hồng lại chuyển
nghĩa (theo cơ chế hoán dụ) và được dùng để chỉ “người con gái”, được ví cho
“người con gái đẹp”, xét về mặt lịch sử.

7


4. Tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Tư liệu nghiên cứu
Tư liệu để khảo sát trong luận văn là những đơn vị từ vựng được chú từ
loại là danh từ (những đơn vị có thể là danh từ mà cũng có thể là tổ hợp danh từ như chính từ điển chú thích) có chứa quan hệ thuộc tính được lựa chọn chủ yếu
trong cuốn Từ điển tiếng Việt (TĐTV) (1997) của Hoàng Phê (cb.), Trung tâm Từ
điển học, Nxb Đà Nẵng.
Bên cạnh đó, để nguồn tư liệu được phong phú, luận văn thu thập thêm
các đơn vị từ vựng danh từ có chứa quan hệ thuộc tính trong cuốn Đại từ điển
tiếng Việt (ĐTĐTV) (1999) của Nguyễn Như Ý (cb.), Nxb Văn hoá Thông tin.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu chính trong luận văn này là phương pháp miêu
tả. Cụ thể, luận văn đã sử dụng các thủ pháp khác nhau của phương pháp miêu tả
như: phân tích thành tố nghĩa, phân tích phân bố (phân tích ngữ cảnh, phân tích
ngữ trị, thay thế, cải biến,...), phân tích thành tố cú pháp,... để phân tích và mô tả
đặc điểm các quan hệ thuộc tính của các danh từ tiếng Việt.
Bên cạnh đó, để việc nghiên cứu thêm hiệu quả, luận văn có sử dụng bổ
sung một số các thủ pháp nghiên cứu chung cho nhiều ngành khoa học như
thống kê, phân loại, hệ thống hoá, tổng hợp,...

5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Phụ lục, luận văn gồm 3 chương sau:
Chương 1: LỊCH SỬ VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT CỦA VIỆC NGHIÊN
CỨU QUAN HỆ THUỘC TÍNH TRONG HỆ THỐNG DANH TỪ TIẾNG
VIỆT
Chương 2: NHẬN DIỆN, PHÂN LOẠI VÀ MIÊU TẢ QUAN HỆ
THUỘC TÍNH TRONG HỆ THỐNG DANH TỪ TIẾNG VIỆT
Chương 3: BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU LỜI GIẢI THÍCH NGHĨA/ ĐỊNH
NGHĨA CỦA CÁC DANH TỪ CHỨA QUAN HỆ THUỘC TÍNH TRONG TỪ
ĐIỂN

8


Chương 1: LỊCH SỬ VÀ CƠ SỞ LÍ THUYẾT CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU
QUAN HỆ THUỘC TÍNH TRONG HỆ THỐNG DANH TỪ TIẾNG VIỆT
1.1. Đặt vấn đề
Chương này có hai nhiệm vụ quan trọng là: tiến hành tổng quan lịch sử
của việc nghiên cứu quan hệ thuộc tính; xác lập cơ sở lí thuyết để phục vụ cho
việc nghiên cứu quan hệ thuộc tính. Dưới đây là nội dung chi tiết.
1.2. Lịch sử nghiên cứu
Tìm hiểu trong lịch sử ngữ nghĩa học mà cụ thể là ngữ nghĩa học từ vựng,
luận văn thấy rằng quan hệ thuộc tính tuy không được nghiên cứu một cách trực
tiếp với tư cách là một quan hệ ngữ nghĩa có tác dụng kết nối các đơn vị từ vựng
khác từ loại với nhau, nhưng quan hệ này cũng đã được đề cập nghiên cứu một
cách gián tiếp dưới nhiều góc độ khác nhau với nhiều tên gọi khác nhau.
1.2.1. Cách tiếp cận từ góc độ ngữ pháp
Về góc độ ngữ pháp, khi miêu tả sự đối đãi, ràng buộc về mặt ngữ nghĩa
giữa các định tố/ định ngữ với danh từ trung tâm trong danh ngữ (cụm danh từ),
giữa các tính từ làm bổ ngữ cho động từ trung tâm trong động ngữ (cụm động từ)

các nhà ngữ pháp học đã ít nhiều gián tiếp đề cập đến quan hệ thuộc tính [1, 6, 7,
23, 24, 25, 33,…]. Các tính từ chỉ thuộc tính, trong những miêu tả của các nhà
ngữ pháp, chỉ được xem như là một thành tố phụ có tính chất hạn định hoặc miêu
tả cho thành tố danh từ hay động từ trung tâm. Quan hệ thuộc tính, một quan hệ
ngữ nghĩa chính danh, đã được các nhà ngữ pháp gián tiếp gọi tên và xem nó
như là một trong những biểu hiện có tính cách ngữ pháp giữa thành tố trung tâm
và thành tố phụ.
Trong Ngữ pháp tiếng Việt (1983) [33] của Uỷ ban Khoa học Xã hội, các
tác giả nói về mối quan hệ giữa phụ tố hạn định và chính tố trung tâm trong ngữ
danh từ; và quan hệ giữa phụ tố cách thức và chính tố trung tâm trong ngữ động
từ. Các tác giả cho rằng, xét về mặt ngữ pháp, ngữ là một cấu tạo theo quan hệ
cú pháp chính phụ, mà phương tiện biểu thị quan hệ chính phụ trước hết là trật tự.

9


Trong danh ngữ, chính tố giữ vị trí trung tâm, các phụ tố được đặt vào hai
khu vực: khu vực các phụ tố trước và khu vực các phụ tố sau. Khu vực sau của
danh ngữ có thể bao gồm những phụ tố sau đây: phụ tố hạn định sự vật bằng đặc
điểm; phụ tố chỉ định vị trí của sự vật trong không gian. Trong đó, phụ tố hạn
định có thể do nhiều từ loại đảm nhiệm như danh từ, động từ, tính từ, hay một
ngữ.
Trong trường hợp phụ tố hạn định do tính từ đảm nhiệm, phụ tố đó nêu
lên đặc điểm của sự vật và có tác dụng hạn định hay miêu tả chính tố. Ví dụ,
trong một học sinh giỏi, một thái độ tốt thì, giỏi là đặc điểm miêu tả và hạn định
cho học sinh, tốt là đặc điểm miêu tả và hạn định cho thái độ.
Tương tự, động ngữ cũng bao gồm chính tố là động từ và phần phụ trước,
phụ sau.
Phần phụ sau có thể do nhiều từ loại khác nhau đảm nhiệm, có thể có
những phụ tố để nói rõ phương tiện, cách thức, nơi chốn, mục đích,... Ví dụ: phụ

tố cách thức (như thế nào): chạy nhanh, nói chậm, suy nghĩ miên man,... Trong
đó, các thành tố chạy, nói, suy nghĩ là những động từ và là thành tố trung tâm.
Các thành tố nhanh, chậm, miên man là những tính từ giữ vai trò là phụ tố cách
thức trong động ngữ.
Tác giả Đinh Văn Đức trong cuốn Ngữ pháp tiếng Việt [7] cho rằng danh
ngữ bao gồm hai thành phần chính là danh từ trung tâm và định ngữ/ định tố của
danh từ đó. Trong đó, định ngữ có chức năng hạn định, danh từ là cái có thể tiếp
nhận đặc trưng với nghĩa rộng bao gồm các khía cạnh khác nhau: đặc trưng về
hoạt động, tính chất, về thời gian, về sở hữu, về phương tiện. Theo tác giả, giữa
ngôn ngữ và tư duy, danh từ, trong khi chỉ khái niệm “sự vật tính” luôn có nhu
cầu hiển ngữ các đặc trưng vốn có của nó. Các đặc trưng này (như phẩm chất,
kích thước, trật tự,...) chỉ ra tính đa dạng của các sự vật. Vì vậy, định ngữ biểu
thị các đặc trưng khu biệt, nhờ đó người ta nhận ra sự khác nhau giữa các sự vật.
Tác giả Nguyễn Kim Thản trong Ngữ pháp tiếng Việt [24] cũng gián tiếp
nhắc đến quan hệ thuộc tính trong mối quan hệ ngữ nghĩa giữa danh từ và bổ
ngữ. Theo tác giả, “Danh từ đứng một mình thường biểu thị khái niệm chung về

10


cả một loại sự vật,... Khi không muốn nói chung về cả loại sự vật mà chỉ muốn
nói về một hay một số sự vật cụ thể nào đó thì ta phải hạn chế khái niệm lại.
Muốn hạn chế khái niệm thì khi nói ta phải thêm bổ ngữ cho danh từ, lập thành
cụm danh từ” [24, tr. 67].
Còn theo tác giả Nguyễn Văn Chính trong Giáo trình Từ pháp học tiếng
Việt [6], tổ chức danh ngữ tiếng Việt bao gồm: thành tố trung tâm và các thành
tố phụ. Quan hệ giữa thành tố chính và các thành tố phụ là quan hệ chính phụ.
Trong đó, thành tố trung tâm là bộ phận quan trọng nhất, được coi là xương sống
của đoản ngữ. Bộ phận này trong danh ngữ phải do một danh từ đảm nhiệm, có
vị trí nằm ngay trung tâm đoản ngữ. Còn các thành tố phụ (còn gọi là định tố) là

một tập hợp gồm hai bộ phận nhỏ phân bố phía trước và phía sau danh từ trung
tâm. Các thành tố phụ trước danh ngữ thường bổ sung thêm một chi tiết phụ
không có tác dụng đến ngoại diên của khái niệm do danh từ trung tâm biểu thị.
Định tố cuối thì lại thường có tác dụng nêu một chi tiết hạn chế ngoại diên của
khái niệm nêu ở danh từ trung tâm, khu biệt hẳn một bộ phận sự vật này với bộ
phận sự vật khác. Ví dụ: Học sinh (khái niệm chung)/ học sinh giỏi (khái niệm
hẹp hơn).
Theo tác giả, cũng như danh ngữ, cấu trúc đầy đủ của một động ngữ bao
gồm ba phần: phần đầu + phần trung tâm + phần cuối. Quan hệ giữa trung tâm
và thành tố phụ là quan hệ chính phụ. Phần đầu của động ngữ thường mang tính
chất hư nhiều hơn thực. Còn thành phần đứng cuối động ngữ thì đa dạng về mặt
hình thức và biểu thị nhiều ý nghĩa khác nhau như: đối tượng hành động, điểm
đến/ điểm xuất phát, địa điểm, phương hướng, mục đích của hành động,...
Như vậy, dù không gọi tên trực tiếp quan hệ thuộc tính, nhưng khi miêu tả
về cấu tạo cụm từ, các tác giả cũng đã gián tiếp nhắc đến ngoại diên của quan hệ
thuộc tính khi nói về mối quan hệ giữa danh từ trung tâm với phụ tố hạn định và
giữa động từ trung tâm với các phụ tố đứng sau. Tuy nhiên, yếu tố phụ trong các
cụm từ đó theo cách tiếp cận ngữ pháp thì rất rộng, có thể thuộc từ loại danh từ,
động từ hoặc tính từ. Trong khi đó, thuộc tính chỉ là một bộ phận trong đó. Yếu

11


tố chỉ thuộc tính có trong các cấu tạo ngữ pháp đó chỉ có thể là tính từ không thể
là danh từ, hay động từ.
Ví dụ, trong các cụm từ cái con mèo mun mà mẹ tôi mua ấy, cái con mèo
ấy thì chỉ có mun trong cụm thứ nhất mới có quan hệ thuộc tính với con mèo, các
định tố khác không biểu thị giá trị thuộc tính.
1.2.2. Cách tiếp cận từ góc độ từ vựng – ngữ nghĩa
Trong lịch sử nghiên cứu Việt ngữ học ở bình diện từ vựng – ngữ nghĩa,

quan hệ thuộc tính được nhắc đến một cách không trực tiếp khi miêu tả cấu tạo
từ (hay ngữ, như cách gọi của Nguyễn Thiện Giáp) mà cụ thể là cấu tạo từ ghép
hay quan hệ giữa các thành tố của từ ghép [2, 3, 6, 7, 8, 10, 20, 29].
Theo cách hiểu truyền thống, cấu tạo từ là bộ phận giao điểm của cả ngữ
pháp và từ vựng – ngữ nghĩa. Trên phương diện ngữ nghĩa, cách cấu tạo từ liên
quan đến ngữ nghĩa của các thành tố cấu tạo từ và ý nghĩa của cả từ. Vì vậy, từ
vựng – ngữ nghĩa cần thiết phải nghiên cứu về cấu tạo từ. Trong nghiên cứu từ
vựng – ngữ nghĩa, có một số tác giả đã gián tiếp đề cập quan hệ thuộc tính khi
miêu tả cấu tạo của từ ghép tiếng Việt mà cụ thể là từ ghép chính phụ. Chẳng
hạn như:
Trong nghiên cứu về cấu tạo từ, tác giả Nguyễn Văn Tu trong cuốn Từ và
vốn từ tiếng Việt hiện đại [32] cho rằng, từ ghép được phân chia thành từ ghép
hợp nghĩa và từ ghép bổ nghĩa. Trong đó, những từ ghép bổ nghĩa là những từ
ghép được tạo ra bằng hai từ tố theo quan hệ không ngang nhau về kết cấu và
nghĩa. Có một từ tố chính mang nghĩa chính và một từ tố mang nghĩa bổ sung.
Cái nghĩa bổ sung này có thể làm rõ nghĩa thêm cho toàn bộ từ.
Ví dụ: cà chua: gồm hai từ tố, cà chỉ thứ quả để muối ăn và chua vốn là
tính từ chỉ vị như giấm.
Bên cạnh đó, trong Từ tiếng Việt [12] của Hoàng Văn Hành, tác giả cho
rằng từ ghép bao gồm từ ghép hội nghĩa và từ ghép phân nghĩa. Từ ghép phân
nghĩa, truyền thống Việt ngữ học gọi loại từ ghép này là từ ghép chính phụ (từ
bình diện hình thái học), từ ghép bổ nghĩa, từ ghép phân nghĩa (bình diện ngữ
nghĩa học). Trong từ ghép phân nghĩa, thành tố thứ nhất bao giờ cũng biểu thị ý

12


nghĩa phạm trù và giữ vai trò chính, vai trò trung tâm. Còn thành tố thứ hai biểu
thị thuộc tính khu biệt của sự vật, quá trình hay tính chất do thành tố thứ nhất
biểu thị. Hay nói cách khác là biểu thị nét khu biệt đặc trưng cho từng loại.

Thành tố thứ hai trong từ ghép phân nghĩa có thể là:
+ biểu thị thuộc tính về chất liệu làm nên toàn bộ hay bộ phận của thành
tố thứ nhất: nhà gạch, nhà ngói, bàn gỗ,...
+ biểu thị thuộc tính về nguồn gốc xuất xứ của thành tố thứ nhất: chuối
tây, hồng xiêm, thuốc lào, miến tàu,…
+ biểu thị thuộc tính về chức năng: máy xúc, máy ủi, máy tiện,…
+ biểu thị thuộc tính về phương thức hoạt động: bàn xoay, máy bay,....
+ biểu thị thuộc tính về ngoại hình của sự vật do A biểu thị như màu sắc,
dáng vẻ, kích thước, tư thế: hoa hồng, gà ri, xe cóc, tủ đứng, gương lồi,…
Có thể hình dung nghĩa tổng quát của từ ghép phân nghĩa là “A với những
đặc trưng riêng do B biểu thị (hay để trả lời cho câu hỏi A thế nào? A như thế
nào?)
Ở đây, khi miêu tả thành tố thứ hai trong từ ghép phân nghĩa, tác giả
Hoành Văn Hành đã nhắc đến đơn vị biểu thị thuộc tính. Tuy nhiên, theo tác giả,
tất cả những đặc trưng về nguồn gốc, chức năng, phương thức hoạt động hay
ngoại hình đều là thuộc tính của sự vật, hiện tượng.
Bên cạnh đó, tác giả Đỗ Hữu Châu trong Từ vựng ngữ nghĩa tiếng Việt [5]
cho rằng, từ ghép được phân chia thành nhiều loại khác nhau theo kiểu ngữ
nghĩa của từng loại. Trong đó, từ ghép phân nghĩa chiếm đại bộ phận những từ
ghép trước đây được coi là từ ghép chính phụ: “Từ ghép phân nghĩa được coi là
những từ ghép được cấu tạo từ hai hình vị (đơn vị) theo quan hệ chính phụ,
trong đó có một hình vị chỉ loại lớn (sự vật, hoạt động, tính chất) và một hình vị
có tác dụng phân hoá loại lớn đó thành những loại nhỏ hơn cùng loại nhưng độc
lập với nhau, và độc lập với loại lớn” [5, tr.56].
Như vậy, khi nói về mối quan hệ giữa các đơn vị trong từ ghép chính phụ
(từ ghép phân nghĩa), khi miêu tả về mối quan hệ giữa thành tố chính và thành tố

13



phụ, các tác giả cũng đã ít nhiều nói đến quan hệ thuộc tính trong mối quan hệ
giữa yếu tố từ vựng danh từ và tính từ.
Quan hệ thuộc tính không chỉ được gián tiếp đề cập trong cấu tạo từ ghép
tiếng Việt, mà trong các nghiên cứu về định danh, quan hệ thuộc tính cũng đã ít
nhiều được các tác giả nhắc đến.
Theo tác giả Nguyễn Đức Tồn trong cuốn Đặc trưng văn hoá – dân tộc
của ngôn ngữ và tư duy [29], nói một cách “nôm na” thì định danh chính là đặt
tên gọi cho một sự vật, hiện tượng,... Cũng theo tác giả, quá trình định danh sự
vật diễn ra như sau: sau khi tiếp xúc với một khách thể mới, con người đã tìm
hiểu, vạch ra một bộ những đặc trưng nào đó vốn có trong nó. Nhưng để định
danh người ta chỉ chọn đặc trưng nào thấy là tiêu biểu, dễ khu biệt với đối tượng
khác và đặc trưng ấy đã có tên gọi trong ngôn ngữ. G.V. Gac gọi hành vi này là
hành vi phân loại.
Cũng theo tác giả Nguyễn Đức Tồn, phụ thuộc vào chủ thể định danh và
đối tượng được định danh, sẽ có hai lí do khác nhau khi định danh là: lí do khách
quan và lí do chủ quan. Lí do khách quan – nghĩa là một đặc trưng, một thuộc
tính nào đó của bản thân sự vật được chọn để làm dấu hiệu khu biệt tên nó. Ví
dụ: tên các loài hoa được đặt theo màu sắc như: mai vàng, bạch cúc, hoa hồng,...
Còn lí do chủ quan thì không phải ai cũng nhận thấy được. Chỉ có chủ thể định
danh mới biết được lí do tại sao dùng tên gọi này để gọi người hoặc sự vật này.
Chẳng hạn, người cha đặt tên cho con mình là Nguyễn Đình Chiến – là để kỉ
niệm thời điểm đứa con ra đời chính là khi hoà bình được lập lại tại miền Bắc
Việt Nam năm 1945.
Trong cuốn Vấn đề “từ” trong tiếng Việt [10], tác giả Nguyễn Thiện Giáp
quan niệm rằng những sự vật, hiện tượng, khái niệm mới xuất hiện đòi hỏi phải
đặt tên gọi cho chúng. Nhưng sự vật, hiện tượng không quan hệ trực tiếp với tên
gọi mà quan hệ với tên gọi thông qua khái niệm. Mỗi sự vật, hiện tượng có nhiều
thuộc tính khác nhau. Khi đặt tên cho một sự vật, hiện tượng nào đó, người ta
thường xuất phát từ những thuộc tính nào đó của sự vật, hiện tượng. Những dấu
hiệu được dùng làm căn cứ để đặt tên gọi, trong ngôn ngữ được gọi là hình thái


14


bên trong hay chính là cấu trúc ngữ nghĩa của tên gọi. Mà cấu trúc ngữ nghĩa
phản ánh cấu trúc tư duy của mỗi ngôn ngữ. Người đặt tên suy nghĩ như thế nào
về đối tượng, có nhận xét gì, rút ra được những thuộc tính gì từ đối tượng cần đặt
tên, để từ đó lựa chọn những thuộc tính làm căn cứ cho sự gọi tên. Trong cách
tiếp cận này của Nguyễn Thiện Giáp, quan hệ thuộc tính cũng chỉ được đề cập
đến một cách gián tiếp.
Như vậy, trong các nội dung nghiên cứu định danh, một số tác giả đã đề
cập đến các đơn vị có quan hệ thuộc tính, nhưng quan hệ thuộc tính không được
gọi tên một cách chính danh, những cái có giá trị thuộc tính chỉ được xem như là
một thành tố góp phần vào quá trình định danh.
Trên đây là những nét sơ lược tình hình nghiên cứu về quan hệ thuộc tính
trong lịch sử nghiên cứu Việt ngữ học. Còn trên thế giới, quan hệ thuộc tính, với
tư cách là một quan hệ ngữ nghĩa của hệ thống từ vựng của mỗi ngôn ngữ, mới
được gọi tên và nghiên cứu một cách chính thức vào những năm 1970 khi các lí
thuyết về trí nhớ ngữ nghĩa được hình thành và phát triển cùng với sự ra đời của
lí thuyết Mạng từ (Miller & Johson-Laird, 1978, Miller 1991, Fellbaum 1999)
[38, 40, 41, 46, 47].
Trong tiếng Việt, khi tiến hành xây dựng Mạng từ tiếng Việt, quan hệ
thuộc tính cũng đã được ghi nhận và xử lí là một quan hệ quan trọng, tạo nên bộ
khung của hệ thống từ vựng tinh thần tiếng Việt. Quan hệ thuộc tính được Mạng
từ tiếng Việt xem là một loại quan hệ ngữ nghĩa xuyên từ loại giữa danh từ và
tính từ. Mạng từ tiếng Việt cũng đã ghi nhận và xử lí trên 500 cặp đơn vị từ vựng
có quan hệ thuộc tính (kích thước-to/ nhỏ, chiều cao-cao/thấp,…) [16, 17, 18,
47].
Như vậy, dù không được gọi tên trực tiếp, nhưng từ góc độ ngữ pháp và từ
vựng - ngữ nghĩa, quan hệ thuộc tính cũng đã được rất nhiều tác giả trong và

ngoài nước đề cập, nghiên cứu ở một phối cảnh rộng hơn, dưới những tên gọi
khác nhau.

15


1.3. Cơ sở lí thuyết
1.3.1. Quan niệm về quan hệ thuộc tính
Có hai cách hiểu khác nhau về quan hệ thuộc tính với tư cách là một quan
hệ ngữ nghĩa trong hệ thống từ vựng của ngôn ngữ.
Cách hiểu thứ nhất, theo nghĩa rộng, quan hệ thuộc tính là mối quan hệ
tồn tại giữa đơn vị ngôn ngữ chỉ thực thể với đơn vị ngôn ngữ chỉ thuộc tính/
tính chất của thực thể hoặc mối quan hệ tồn tại giữa đơn vị ngôn ngữ chỉ quá
trình với đơn vị ngôn ngữ chỉ thuộc tính/ tính chất của quá trình. Hay nói một
cách đơn giản hơn, quan hệ thuộc tính là quan hệ giữa một danh từ hoặc một
động từ với một tính từ chỉ thuộc tính/ tính chất được quy gán cho danh từ hoặc
động từ đó [18, 20].
Thực thể, quá trình và thuộc tính/ tính chất được mã hoá trong hệ thống
ngôn ngữ tiếng Việt bằng những đơn vị mà chúng ta thường gọi một cách lần
lượt là danh từ, động từ và tính từ. Như vậy, hiểu theo nghĩa rộng, quan hệ thuộc
tính là quan hệ xuyên từ loại của danh từ, động từ với tính từ. Đây chính là quan
niệm thường thấy, một cách gián tiếp, trong các tài liệu nghiên cứu về ngữ pháp
và từ vựng tiếng Việt hiện nay.
Ví dụ: đường – ngọt, chanh – chua, đi – nhanh/ chậm, kích thước – lớn
/bé, cười – ngặt nghẽo,... Trong các ví dụ này, những từ đường, chanh, đi, kích
thước, cười là những danh từ/ động từ chỉ thực thể hoặc quá trình. Những từ
ngọt, chua, nhanh/ chậm, lớn/ bé, ngặt nghẹo là những tính từ chỉ thuộc tính của
thực thể hay quá trình. Như vậy giữa đường và ngọt có quan hệ thuộc tính, tương
tự giữa chanh và chua, đi và nhanh/ chậm, kích thước và lớn/ bé, cười và ngặt
nghẽo có quan hệ thuộc tính với nhau.

Cách hiểu thứ hai, theo nghĩa hẹp, quan hệ thuộc tính được thu hẹp lại là
quan hệ ngữ nghĩa giữa một danh từ và một tính từ biểu thị thuộc tính của danh
từ. Hay là quan hệ giữa đơn vị ngôn ngữ chỉ thực thể và đơn vị ngôn ngữ chỉ
thuộc tính của thực thể. Với cách hiểu này, quan hệ thuộc tính là quan hệ xuyên
từ loại chỉ của danh từ và tính từ. Trong các nghiên cứu hiện đại, ví dụ như trong

16


cách hiểu của các mạng từ hiện nay, quan hệ thuộc tính thường được hiểu theo
cách này.
Chính

vì thế



những

tác

giả của

Mạng

từ

tiếng

Anh


() đã quan niệm rằng quan hệ thuộc tính chính là
quan hệ ngữ nghĩa giữa “một danh từ và những tính từ vốn biểu thị các giá trị
được quy gán cho chính danh từ ấy” [40, 46, 47].
Ví dụ: trong voi – to, trời – cao, bánh chưng – xanh, các từ voi, trời, bánh
chưng là các danh từ chỉ thực thể; các từ to, cao, xanh là những tính từ chỉ thuộc
tính của các thực thể. Như vậy, giữa voi và to có quan hệ thuộc tính, tương tự
giữa trời và cao, bánh chưng và xanh có quan hệ thuộc tính với nhau.
Luận văn này được thực hiện theo tinh thần của cách hiểu thứ hai này.
Tuy nhiên, do khuôn khổ của mình và do tính phức tạp của vấn đề, luận văn
không khảo sát quan hệ thuộc tính trong tất cả các đơn vị từ vựng danh từ, mà
chỉ tập trung vào khảo sát quan hệ thuộc tính có trong các danh từ ghép có cấu
tạo chính phụ mà cả hai tiếng đều rõ nghĩa đã được thu thập trong một số từ điển
đã nêu ở trên.
Dĩ nhiên, khi xem xét quan hệ thuộc tính chúng ta không nên lầm lẫn giữa
quan hệ thuộc tính với tư cách là một quan hệ ngữ nghĩa thuộc phạm trù ngôn
ngữ giữa danh từ và tính từ với mối quan hệ có tính chất hiện thực thuộc phạm
trù ngoài ngôn ngữ giữa bản thân cái thực thể và cái tính chất khách quan của
thực thể, dù rằng giữa chúng có mối quan hệ, liên hệ với nhau, có tính chất dẫn
xuất và chi phối lẫn nhau. Nghiên cứu quan hệ thuộc tính là nghiên cứu xem một
danh từ được con người liên tưởng tới các tính từ thể hiện những giá trị khác
nhau của danh từ như thế nào, chứ không phải nghiên cứu xem bản thân cái thực
thể được danh từ gọi tên có những thuộc tính gì. Nghiên cứu quan hệ thuộc tính
là nghiên cứu quan hệ ngữ nghĩa trong phạm trù ngôn ngữ, chứ không phải
nghiên cứu quan hệ hiện thực của thế giới vật chất ngoài ngôn ngữ.

17


1.3.2. Phân biệt quan hệ thuộc tính với các quan hệ ngữ nghĩa

quan trọng khác
Ở cấp độ từ vựng, có nhiều loại quan hệ từ vựng – ngữ nghĩa như quan hệ
đồng nghĩa, quan hệ trái nghĩa, quan hệ bao thuộc, quan hệ tổng phân, quan hệ
vai,... Quan hệ thuộc tính trong từ vựng tiếng Việt cần được phân biệt với các
quan hệ dễ xảy ra nhầm lẫn như quan hệ bao thuộc, quan hệ tổng phân và quan
hệ vai.
Thứ nhất, cần có sự phân biệt giữa quan hệ thuộc tính và quan hệ bao
thuộc. Quan hệ bao thuộc là quan hệ giữa một từ bao (hypernyms) và một từ
thuộc (hyponyms); trong đó, từ thuộc được hình dung như một loại của từ bao.
Ví dụ: thực vật – hoa, hoa – hoa hồng, hoa hồng – hoa hồng bạch, động vật –
gia súc, gia súc – chó, chó – chó mực, công cụ – công cụ học tập, công cụ học
tập – bảng, bảng – bảng đen. Ở đây, trong mỗi cặp từ, những từ bao là những từ
đứng bên trái, còn những từ thuộc là những từ đứng bên phải [14, 16].
Như vậy, quan hệ bao thuộc là quan hệ trong nội bộ hệ thống danh từ của
ngôn ngữ. Còn quan hệ thuộc tính là quan hệ xuyên từ loại, là quan hệ giữa danh
từ với tính từ (thậm chí là cả giữa động từ với tính từ). Tuy nhiên, trong cấu tạo
của từng yếu tố của quan hệ bao thuộc, có thể xuất hiện yếu tố chỉ thuộc tính. Ví
dụ:
1. hoa hồng – hoa hồng bạch: hoa hồng bạch – dựa trên quan hệ thuộc
tính giữa danh từ và tính từ (bạch – màu trắng – hoa hồng có thuộc tính là
màu trắng) để cấu tạo lớp từ thuộc thấp hơn của hoa hồng. Ở đây, bạch là
yếu tố chỉ thuộc tính.
2. chó – chó mực: chó mực – dựa trên quan hệ thuộc tính giữa danh từ và
tính từ (mực – màu đen – chó có màu đen) để cấu tạo lớp từ thuộc thấp
hơn của chó. Ở đây, mực/ màu đen là yếu tố chỉ thuộc tính.
3. bảng – bảng Hương Lan (2015), “Khái quát về quan hệ thuộc tính
và quan hệ thuộc tính trong tiếng Việt”, Ngữ học toàn quốc 2015, Nxb
ĐHQGHN, Hà Nội, tr. 184-193.
19. Hoàng Thị Tuyền Linh (2002), Một số vấn đề thông tin ngữ nghĩa trong từ
điển giải thích tiếng Việt, Luận án TS, Viện ngôn ngữ học, Hà Nội.

20. Hoàng Phê (2000), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng – Trung tâm Từ điển
học, Hà Nội – Đà Nẵng.
21. Nguyễn Ngọc Trâm (cb) (1997), Một số vấn đề từ điển học, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội.
22. Nguyễn Phương Thái, Phạm Văn Lam,... (2014), “Tổng quan về Mạng tiếng
Việt”, Tạp chí Từ điển học & Bách khoa thư (7), tr. 16-27.
23. Nguyễn Kim Thản (1997), Nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
24. Nguyễn Kim Thản (1997), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
25. Nguyễn Kim Thản (2008), Cơ sở Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
26. Lê Quang Thiêm (2008), Ngữ nghĩa học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
27. Lê Quang Thiêm (2015), Sự phát triển ngữ nghĩa của từ vựng tiếng Việt từ
1945 đến 2015, Nxb ĐHQGHN, Hà Nội.
28. Nguyễn Đức Tồn (1997), "Về phương pháp biên soạn từ điển đồng nghĩa
tiếng Việt", Một số vấn đề từ điển học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 226267.
29. Nguyễn Đức Tồn (2015), Đặc trưng văn hoá – Dân tộc của Ngôn ngữ và tư
duy, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

74


30. Nguyễn Đức Tồn (2006), Từ đồng nghĩa tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
31. Nguyễn Văn Tu (1986), Từ vựng học tiếng Việt hiện đại, Nxb Giáo dục Hà
Nội.
32. Nguyễn Văn Tu (1976), Từ và vốn từ tiếng Việt hiện đại, Nxb Đại học và
Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
33. Ủy ban Khoa học xã hội (1983), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.

34. Nguyễn Như Ý (1999), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hoá thông tin, Hà
Nội.
35. Zgusta L. (1971), Giáo trình từ điển học, Nxb Viện Hàn Lâm Khoa học Tiệp
Khắc, Praha. (Bản dịch của viện Ngôn ngữ học)
TIẾNG ANH
36. Croft W. and D. A. Cruse (2004), Cognitive linguistics, Cambridge
University Press.
37. Cruse D. A. (1986), Lexical semantics, Cambridge University Press.
38. Fellbaum Christiane (ed.) (1998). WordNet: An Electronic Lexical Database,
MIT Press.
39. Geeraets Dirk (2010), Theories of Lexical Semantics, Oxford University
Press.
40. Lyons J. (1963), Structural semantics, Cambridge University Press.
41. Miller G.A., Johnson-Laird P. N. (1978), Language and Perception, Harvard
University Press, Cambridge, Massachusetts.
42. Murphy M. Lynne (2003), Semantic relations and the lexicon, Cambridge
University Press.
43. Murphy M. Lynne (2010), Lexical meaning, Cambridge University Press.
44. Saeed J. I. (1997), Semantics, Blackwell.
45. Nguyễn Phương Thái, Phạm Văn Lam,... (2016), A Two-phrase Appoach to
Build Vietnamese Wordnet, GWC, Rumani, tr. 259-265.

75


46. Vossen P. (2002), EuroWordNet: General Documet (Version 3), University
of Amsterdam.
47. Vossen P. (ed) (1998), EuroWordNet: A Multilingual Database with Lexical
Semantic Networks. Kluwer, Dordrecht, The Netherland.


76


PHỤ LỤC
STT

Khái

Định nghĩa

niệm
1

ác bá

Từ

Trang

điển
kẻ có nhiều tội ác, dựa vào quyền thế đè

TĐTV

3

nén, áp bức nhân dân cả một vùng
2

ác nhân


kẻ làm điều ác, kẻ xấu

TĐTV

3

3

ác ôn

kẻ có quyền lực ở địa phương, có nhiều tội

TĐTV

3

ác với nhân dân, đáng nguyền rủa
4

ác quả

hậu quả tai hại

TĐTV

4

5


ác quỷ

quỷ dữ

TĐTV

4

6

ác tâm

lòng dạ độc ác

TĐTV

4

7

ác tăng

sư không phải chân tu, làm nhiều điều ác

TĐTV

4

8


ác thần

thần chuyên làm điều ác hại người, theo mê TĐTV

4

tín
9

ác thú

thú dữ, ăn thịt người

TĐTV

4

10

ác ý

dụng ý xấu

TĐTV

4

11

ách vận


vận không may

TĐTV

4

12

âm vang

[âm thanh] vang và ngân xa

TĐTV

28

13

ẩn ngữ

lối nói phải đoán mới hiểu được ý thực sự

TĐTV

31

muốn nói
14


ẩn số

số chưa biết

TĐTV

31

15

ẩn tình

sự việc hoặc nguyên nhân muốn giấu kín

TĐTV

31

16

ẩn ý

ý kín đáo bên trong, vốn là cái chính muốn

TĐTV

31

TĐTV


11

TĐTV

13

nói, nhưng không nói rõ, chỉ để ngầm hiểu
17

ảnh ảo

ảnh chỉ nhìn thấy, không thu được trên màn
ảnh, phân biệt với ảnh thật

18

ảo ảnh

hình ảnh giống như thật nhưng không có
thật

77


19

áo cánh

áo có hai mảnh lụa mỏng, may ghép hai bên TĐTV


tiên

như hai cái cánh, dùng trong một số điệu

13

múa
20

áo dài

áo truyền thống, dài đến ống chân, chia

TĐTV

14

TĐTV

13

thành hai tà trước và sau, khuy từ cài từ cổ
xuống nách và một bên hông
21

ảo giác

tri giác không chính xác đối với sự vật
khách quan do một nguyên nhân nào đó gây
ra


22

ảo mộng

điều mơ ước viển vông

TĐTV

13

23

áo phao

áo được thiết kế đặc biệt, giữ cho người nổi

TĐTV

14

áo rất dài và rộng, thường mặc khi tế lễ

TĐTV

15

người phụ nữ đã cao tuổi; thường dùng để

TĐTV


37

trên mặt nước
24

áo thụng,
áo rộng

25

bà già

chỉ mẹ mình hoặc người thuộc bậc mẹ mình
trong cách nói thân mật
26

bạc điền

ruộng đất xấu, nghèo chất dinh dưỡng

TĐTV

40

27

bạc nghệ

nghề bạc bẽo


TĐTV

40

28

bạc thau

cây cùng họ với khoai lang, mặt dưới của lá TĐTV

40

có lông trắng như bạc, thường dùng làm
thuốc
29

bạch biến

bệnh xuất hiện từng đám trắng trên da do

TĐTV

41

rối loạn sắc tố, không đau, không ngứa,
xung quanh vết trắng có quầng thâm sẫm
màu hơn chỗ da lành
30


bạch cúc

cúc trắng

TĐTV

41

31

bạch đàn

cây to, thân thẳng, gỗ thường màu trắng,

TĐTV

42

trồng để lấy bóng mát và gây rừng, lá có

78


×