LỜI MỞ ĐẦU
Ở Việt Nam ta trong thời đổi mới, thời kỳ công nghiệp hóa -hiện đại hóa đất nước như
hiện nay thì mọi hoạt động của các ngành đều đều phải đặt dưới sự quản lý của Nhà nước
và đối với ngành đất đai cũng như thế, để thực hiện công nghiệp hóa- hiên đại hóa đất nước
thì việc quản lý, sử dụng đất có hiệu quả đang là vấn đề hết sức cấp bách, chúng ta nhận
thấy rằng: dưới sự tác động của cơ chế thị trường, tốc độ tăng dân số thì vấn đề về đất đai
trở nên quan trọng, gay gắt, bức xúc nóng bỏng hơn, hàng loạt các vụ tranh chấp về quyền
lợi, khiếu nại tố cáo luôn diễn ra hết sức phổ biến và hết sức phức tạp ở hầu hết mọi nơi…
Tuy nhiên, cần phải thừa nhận thực tế là cho đến nay công tác quản lý về đất đai còn nhiều
hạn chế, Luật Đất Đai chưa giải quyết mâu thuẫn về quan hệ đất đai, đất òn sử dụng manh
mún, hiệu quả sử dụng chưa cao. Để đất đai phục vụ triệt để cho mục đích phát triển chung
luôn là mối quan tâm lớn của các vị lãnh đạo, các nhà quản lý và các nhà khoa học. Hiện
nay nền kinh tế nước ta được định hướng phát triển theo cơ chế thị trường có sự quản lý
của Nhà nước. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp- công nghiệp- thương mại
dịch vụ sang công nghiệp - thương mại dịch vụ- nông nghiệp đã gây áp lực ngày càng lớn
đối với đất đai đòi hỏi phỉ nghiên cứu và đánh giá đúng đắn thực trạng quản lý để đề xuất
những biện pháp sử dụng đất đai sao cho hợp lý, đầy đủ và bền vững.
Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá không thể tái tạo được, là tư liệu sản
xuất đặt biệt không gì thay thế được của nông lâm nghiệp, là thành phần quan trọng nhất
của môi trường sống, là nền tảng để phân bố các cơ sở kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh
quốc phòng. Đã trải qua nhiều thế hệ nhân dân ta đã tốn biết bao công sức và xương máu
mới khai thác bồi bổ, cải tạo và bảo vệ được vốn đất đai như ngày nay.
Để nâng cao tinh thần trách nhiệm của mọi tổ chức và cá nhân trong việc bảo vệ và
sử dụng đất đai, bảo vệ môi trường, đưa việc quản lý và sử dụng đất vào quy chế chặt chẽ,
khai thác tốt tiềm năng của đất đai một cách hợp lý và có hiêu quả, triệt để tiết kiệm góp
phần vào công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa, bảo vệ công bằng xã hội, từng bước đưa nông
lâm nghiệp lên sản xuất lớn, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam Xã
Hội Chủ Nghĩa.
Luật Đất Đai đã được Quốc Hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam thông
qua và được ban hành ngày 14/07/1993 và bắt đầu có hiệu luật từ ngày 15/10/1993 quy
định: “Đất đai thuộc sỡ hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý” và Luật sửa đổi bổ
sung một số điều của Luật Đất Đai ngày 11/12/1998 đã qui định giải quyết tranh chấp đất
đai là một trong những nhiệm vụ của cơ quan quản lý Nhà nước, để giải quyết các mâu
thuẫn phát sinh bất đồng giữa các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân liên quan đến quyền sử
dụng đất, từ đó tìm ra giải pháp đúng đắn trên cơ sở pháp luật nhằm khôi phục các quyền,
lợi ích hợp pháp bị xâm hại, đồng thời sử lý các hành vi, vi phạm pháp luật về đất đai.
Căn cứ vào điều 17,18,19,20,83 và 84 của Hiến Pháp nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ
Nghĩa Việt Nam, đất nước ta đi theo con đường Xã hội chủ nghĩa từ một nền nông nghiệp
lạc hậu, đất đai luôn được coi là tài sản vô cùng quý giá .
Để giúp Nhà nước quản lý đất đai được chặt chẽ thì công việc thanh tra kiểm tra về
tranh chấp đất đai là một công việc hết sức quan trọng và là nhiệm vụ hàng đầu nhằm đưa
công tác thanh tra giải quyết tranh chấp đất đai vào quy chế chặt chẽ nâng cao ý thức trách
nhiệm của mỗi cơ quan, mọi tổ chức và mọi người trong việc sử dụng đất hợp lý, tiết kiệm
có hiệu quả, sử dụng đúng mục đích với tất cả các loại đất nhằm phát triển và bảo vệ đất
đai, bảo vệ môi sinh , môi trường. Tạo điều kiện cho việc tổ chức lại sản xuất thao hướng
công nghiệp- hóa hiện đại hóa đất nước để đất đai được coi là tài sản quý giá nhất.
Trong những năm gần đây việc giải quyết khiếu nại tranh chấp đất đai của Huyện
Điện Biên nói chung và của xã Thanh Chăn nói riêng có những chuyển biến tích cực, tuy
nhiên việc giải quyết khiếu nại, tranh chấp đất đai vẫn còn vướng phải những nhược điểm
cần khắc phục nên việc giải quyết tranh chấp về đất đai trên địa bàn xã Thanh Chăn cũng đi
theo chiều hướng đó. Do nhiệm vụ của cấp cơ sở chỉ là hòa giải, không có thẩm quyền giải
quyết dứt khoát tranh chấp về đất đai, chủ yếu chuyển hồ sơ tranh chấp về Huyện giải
quyết vì không thuộc thẩm quyền. Cho nên để góp phần đưa việc quản lý và sử dụng đất
đai cũng như giải quyết đơn thư khiếu nại về tranh chấp đất đai của nhân dân nên bản thân
học viên chọn đề tài về “ Công tác hòa giải và giải quyết tranh chấp đất đai tại xã Thanh
Chăn huyện Điện Biên tỉnh Điện Biên” làm tiểu luận tốt nghiệp của mình.
Mặc dù đã cố gắng trong quá trình học tập và sự hướng dẫn của thầy cô, nhưng với
kiến thức lý luận còn thấp, lần đầu tiên tiếp xúc với công việc thực tế nên đề tài chắc chắn
không tránh khỏi những hạn chế và thiếu xót, học viên rất mong được sự đóng góp ý kiến
của thầy, cô để bản thân nhận rõ những điểm hạn chế nhằm hoàn thành tốt hơn trong công
việc sau này.
PHẦN I: CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.1
Cơ sở lý luận
Để từng bước đưa công tác quản lý Nhà nước về đất đai cũng như công tác giải
quyết tranh chấp về đất đai ngày càng sâu sát với tình hình thực tế, thì việc nghiên cứu,
ban hành ban hành Luật và các văn bản hướng dẫn về Đất đai là rất cấn thiết nhằm nâng
cao hiệu quả việc quản lý sử dụng đất đai.Công tác gải quyết tranh chấp về đất đai nhằm
tìm ra những giải pháp tối ưu để giải quyết sự tranh chấp giữa các chủ thể có liên quan đến
quyền quản lý và sử dựng khu đất cụ thể, hạn chế những trường hợp không tốt xảy ra, bảo
đảm ổn định an ninh trật tự tại địa phương và góp phần xây dựng tình đoàn kết trong xã
hội.
* Giải thích từ ngữ:
“ Khiếu nại” là việc công dân, tổ chức hoặc theo thủ tục do luật khiếu nại, tố cáo qui
định đề nghị cơ quan tổ chức,cá nhân có thẩm quyền xem xét lại quyết định hành
chính,hành vi hành chính do mình ban hành… khi có căn cứ cho rằng quyết định hoặc
hành vi đó là trái pháp luật, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
“Tranh chấp đất đai” là tranh chấp về quyền sử dụng đất mà các bên tham gia đều
cho rằng đất đó thuộc quyền sử dụng của mình. Thực chất là quyền khai thác các lợi ích
của đất đai, là mặt bằng để tiến hành xây dựng hay dùng để sản xuất nông nghiệp… mang
lại lợi ích cho con người. Tranh chấp đất đai giữa các tổ chức với tổ chức, giữa cá nhân với
cá nhân. Người ta tranh chấp để xác định quyền sử dụng đất nhằm mục đích giành quyền
sử dụng đó thuộc về mình chứ không phải tranh chấp quyền sử dụng hợp pháp thuộc trách
nhiêm của chính quyền điạ phương, để tiến hành gải quyết làm trọng tài phán xử giữa hai
bên tranh chấp thông qua những tài liệu về nguồn gốc của đất tranh chấp. Việc đòi lại đất “
quy định tại Khoản 02 điều 02 Luật Đất đai năm 1993 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều
của Luật Đất đai năm 1998” không phải là tranh chấp đất đai.Đất đai được cơ quan Nhà
nước có thẩm quyền giao cho tổ chức, cá nhân, hộ gia đình sử dụng mà người tranh chấp
cho là thuộc quyền sử dụng của mình nên yêu cầu đòi trả lại.
1.2 Cơ sở thực tiễn
Đất đai là sản phẩm của tự nhiên được hình thành qua quá trình vận động biến đổi
lâu dài của lớp vỏ trái đất, dưới tác động của quá trình lý hóa sinh học phức tạp, đồng thời
chịu tác động của con người trong quá trình sản xuất và sinh hoạt. Đất đai còn là tư liệu
chính của các nghành kinh tế đặt biệt trong sản xuất nông nghiệp. Đất đai là tư liệu sản
xuất không thể thay thế được là thành phần quan trọng của môi trường sống, của xon người
cũng như các loài sinh vật.
Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt ở chỗ nếu được sử dụng khai thác hợp lý không
bao giờ hao mòn mà chất lượng lại ngày càng tốt hơn và sức sản xuất ngày càng cao hơn.
Đất đai là nguyên liệu chính của một số ngành sản xuất như : vật liêu xây dựng, làm xi
măng, đồ gốm… Đất đai cùng với vùng trời, vùng biển tạo nên từng lãnh thổ quốc gia. Vì
vậy theo điều 18 Hiến pháp 1992 và điều 01 Luật đất đai quy định: Đất đai thuộc sở hữu
toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý. Là cơ sở pháp lý cao nhất xác định Nhà nước là
chủ sở hữu duy nhất đối với đất đai. Là người đại diện cho quyền sở hữu toàn dân thống
nhất quản lý toàn bộ đất đai của cả nước nhằm duy trì và phát triển các quan hệ đất đai theo
trình tự Pháp luật quy định.
* Nguyên tắc giải quyết các trường hợp khiếu nại tranh chấp đất đai:
Thực hiện đúng Luật đất đai, Luật khiếu nại,tố cáo, Bộ Luật dân sự, các văn bản
pháp luật khác có liên quan và các văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, quy định về
các trường hợp giải quyết khiếu nại tranh chấp đất đai.
Tuân thủ nguyên tắc đất đai thuộc sỡ hữu toàn dân do Nhà nước thóng nhất quản lý,
Nhà nước giao đất cho các hộ gia đình, cá nhân, tổ chức sử dụng ổn định lâu dài… Ủy ban
nhân dân các cấp phải thực hiện chức năng quản lý nhà nước, nâng cao trách nhiệm trong
việc giải quyết khiếu nại tranh chấp đất đai nhằm giải quyết các bất đồng, mâu thuẫn giữa
các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân kịp thời, đúng pháp luật.
Các giấy tờ về đất đai của chế độ củ để lại như: Giấy chứng nhận quyền sử dụng
ruộng đất, sang tên tại Văn phòng ĐKQSDĐ thuế trước bạ, giấy tờ mua bán, sang nhượng
đất được chính quyền xã của chế độ củ xác nhận và các loại giấy tờ khác… không phải là
chứng cứ pháp lý để giải quyết các trường hợp khiếu nại, đòi lại đất, mà chỉ là cơ sở tham
khảo để xác định nguồn gốc lịch sử và quá trình sử dụng đất, giúp tạo điều kiện cho việc
xem xét giải quyết tranh chấp đất đai và khiếu nại về đất đai.
Cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm kiểm tra xem xét là quyết định hành
chính, hành vi hành chính của mình. Nếu thấy trái pháp luật thì kịp thời sửa chữa khắc
phục để tránh phát sinh khiếu nại. Nhà nước khuyến khích việc hòa giải các tranh chấp
trong nội bộ nhân dân trước khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết tranh chấp.
Các tranh chấp khiếu nại thuộc một trong các trường hợp sau đây cơ quan có thẩm
quyền không thụ lý giải quyết:
Các tranh chấp khiếu nại mà người tranh chấp, người khiếu nại không có quyền và lợi ích
hợp pháp bị xâm hại có liên quan đến vụ tranh chấp khiếu nại.
Người tranh chấp, khiếu nại không có năng lực hành vi đầy đủ mà không có người
đại diện hợp pháp theo quy định của pháp luật.
Người đại diện không hợp pháp theo quy định của pháp luật.
Thời hiệu khiếu kiện, thời hạn khiếu nại đã hết.
Việc trang chấp, khiếu nại đã được Tòa án thụ lý để gải quyết hoặc đã có bản án
quyết định của Tòa án.
Người khiếu nại, người phát sinh tranh chấp phỉ cung cấp đầy đủ các hồ sơ, giấy tờ
cần thiết để chứng minh việc khiếu nại, tranh chấp của mình trước cơ quan có thẩm quyền
giải quyết.
PHẦN II: ĐỐI TƯỢNG, NỌI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRA
2.1. Đối tượng điều tra
Công tác hòa giải và giải quyết tranh chấp đất đai tại xã Thanh Chăn huyện Điện
Biên tỉnh Điện Biên.
2.2. Nội dung điều tra
Thanh Chăn là xã biên giới thuộc huyện Điên Biên, tỉnh Điện Biên, có diện tích tự
nhiên 2.229,68ha; một trong 11 xã được Chính Phủ lựa chọn xây dựng thí điểm nông thôn
mới; là xã sản xuất thuần nông, có tỷ trọng giá trị sản xuất nông nghiệp chiếm trên 90%
tổng giá trị sản xuất và có diện tích đất sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản chiếm tới
70% tổng diện tích tự nhiên. Trong một số năm gần đây Thanh Chăn đã tạo ra các sản
phẩm nông sản có giá trị như lúa gạo, các loại thủy cầm, nấm các loại…Tuy nhiên việc
kinh doanh các sản phẩm này còn nhỏ lẻ, chưa chú trọng nhiều đến mẫu mã, chất lượng sản
phẩm; nên mức tiêu thụ còn thấp, giá cả không ổn định, kìm hãm sự phát triển; mặt khác
Thanh Chăn chưa có quy hoạch chi tiết sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản phù hợp với
tiêu chí phát triển nông thôn mới
Công tác hòa giải và giải quyết đất đai có vai trò rất quan trọng và cần sự hiểu biết
và khéo léo. Vận động, giải thích cho các đối tượng tranh chấp nên tôn trọng lẫn nhau và
tìm ra giải phap tối ưu để mọi người hiểu, chấp thuận phải trên cơ sở của pháp luật.
Hạn chế tối đa các tình huống xung đột khi xảy ra việc tranh chấp đất đai.
Thông qua giải quyết tranh chấp này mà tuyên truyền, hướng dẫn mọi người dân
hiểu và chấp hành đúng các quy định của Luật đất đai.
Ngăn cản các hành vi cố tình vi phạm đến quyền sử dụng đất và bảo vệ quyền lợi
chính đáng của chủ sử dụng đất hợp pháp. Giúp cho chủ sử dụng đất an tâm trong việc
quản lý sử dụng đất.
Nâng cao vai trò quản lý Nhà nước về đất đai
Trấn an các dư luận, bảo đảm trật tự an toàn trong xã hội và xây dựng mối đoán kết
trong nhân dân.
Được sự chỉ đạo hướng dẫn cụ thể sát sao của UBND huyện Điện Biên, phòng Tài
nguyên Môi trường đó đã có rất nhiều thuận lợi trong quá trình giải quyết tranh chấp tại địa
phương. Bên cạnh đó công tác hòa giải và giải quyết tranh chấp đất đai cũng còn gặp rất
nhiều khó khăn do sự hiểu biết về luật đất đai chưa được tốt…
2.3. Phương pháp điều tra
Thu thập những thông tin , tài liệu sẵn có của cán bộ địa chính xã Thanh Chăn,
UBND xã và các ban ngành liên quan , cơ quan chuyên môn cấp huyện cùng nhau phối
hợp để giải quyết.
- Kế thừa các nguồn tài liệu đã có của các ngành có liên quan;
- Điều tra, đánh giá, nghiên cứu thực tế, kết hợp phỏng vấn;
- Tổ chức hội thảo, xin ý kiến tham gia của các ngành, cộng đồng dân cư xã;
- Sử dụng các phương pháp thống kê, phân tích hệ thống.
Tài liệu kiểm kê đất đai của xã Thanh Chăn, huyện Điện Biên, tỉnh Điện Biên năm 2013;
- Kết quả rà soát, quy hoạch 3 loại rừng;
Kết quả điều tra, khảo sát các tháng 7, 8 và 9 năm 2011 phục vụ xây dựng quy hoạch chi
tiết sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản xã Thanh Chăn đến năm 2020.
PHẦN III: KẾT QUẢ ĐIỀU TRA
3.1. Điều tra cơ bản
3.1.1. Điều kiện tự nhiên
3.1.1.1. Vị trí địa lý
Thanh Chăn là xã biên giới, cách trung tâm thành phố Điện Biên Phủ khoảng 5km về
phía Tây Nam; có toạ độ địa lý:
Từ 21020'48" đến 21021'52" vĩ độ Bắc;
Từ 102053'33" đến 103000'06" kinh độ Đông.
+ Phía Bắc giáp với xã Thanh Hưng, huyện Điện Biên;
+ Phía Tây giáp với nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào;
+ Phía Nam giáp với xã Pa Thơm và xã Thanh Yên, huyện Điện Biên;
+ Phía Đông giáp với xã Thanh Xương, huyện Điện Biên.
3.1.1.2.Địa hình
Thanh Chăn là xã nằm trong vùng lòng chảo Điện Biên, địa hình được chia thành 2
vùng chủ yếu là vùng đồng bằng và vùng núi.
- Vùng đồng bằng: Có địa hình bằng phẳng, thoải dần từ Tây Bắc xuống Đông Nam;
độ cao so với mực nước biển từ 470 m đến 510 m. Đây là vùng thuận lợi để bố trí sản xuất
ruộng nước, hoa màu và khu dân cư;
- Vùng đồi núi: Đây là vùng chiếm diện tích chủ yếu và nằm về phía Tây Bắc của xã;
có địa hình chia cắt mạnh, độ dốc lớn, độ cao so với mặt nước biển từ 520 m đến 1.250 m.
3.1.1.3. Khí hậu, thủy văn
* Khí hậu
Xã Thanh Chăn, huyện Điện Biên nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới núi cao, ít chịu ảnh
hưởng của bão. Trong năm có 2 mùa rõ rệt, mùa mưa và mùa khô; mùa mưa nóng và mưa
nhiều, kéo dài từ tháng 4 đến tháng 10; mùa khô thường ngắn, bắt đầu từ tháng 11 đến
tháng 3 năm sau, tương đối lạnh và thường xuất hiện sương muối.
Lượng mưa trung bình trong năm khoảng từ 1.500 - 1.800 mm; mưa tập trung chủ yếu
vào các tháng 6, 7, 8 và 9; tổng lượng mưa ở các tháng này chiếm 70 đến 80% tổng lượng
mưa trong năm. Độ ẩm trung bình từ 80 - 85%; độ ẩm thấp nhất trung bình từ 50 đến 55%.
Lượng bốc hơi trung bình trong năm khoảng từ 800 - 1.000 mm. Số giờ nắng bình quân
trong năm từ 2.100 - 2.300 giờ;
Hướng gió chủ yếu là hướng Bắc Nam. Gió Bắc thịnh hành từ tháng 11 đến tháng 4
năm sau; gió Nam từ tháng 5 đến tháng 10; tốc độ gió trung bình 0,9m/s;
Nhiệt độ trung bình năm từ 23 0c đến 280c; nhiệt độ cao nhất đạt trên 380c; nhiệt độ
thấp nhất năm từ 60c đến 80c; có năm nhiệt độ tháng 12 xuống thấp còn 20C đến 00C.
* Thủy Văn
Trên địa bàn xã có hệ thống 4 sông, suối chính và hệ thống kênh thuỷ nông là nguồn cung
cấp nước chính cho sinh hoạt và phục vụ sản xuất;
- Sông Nậm Rốm và suối Nậm Lếch là nguồn cung cấp nước chính cho các bản Cò
Mỵ, bản Pá Lếch, thôn Thanh Hà và thôn Thanh Sơn;
- Hệ thống suối Hoong Lếch và Huổi Cưởm chảy theo hướng chủ yếu từ Tây Nam
xuống Đông Bắc; là nguồn cung cấp nước cho các bản Hoong Lếch Cang, thôn Hồng
Thanh, thôn Thanh Hồng, thôn Vịêt Thanh, bản Pha Đin;
- Hệ thống suối Huổi Bẻ chảy theo hướng chủ yếu từ Tây Bắc xuống Đông Nam; là nguồn
cung cấp nước cho các bản Púng Nghịu, Pom Mỏ Thái, Pom Mỏ Thổ, Na Khưa và thôn
Nhà Trường.
3.1.1.4. Địa chất, thổ nhưỡng
Theo hệ thống phân loại đất áp dụng cho bản đồ thổ nhưỡng tỷ lệ lớn của Việt Nam, xã
Thanh Chăn có 3 nhóm đất ( Nhóm đất phù sa, nhóm đất đỏ vàng, nhóm đất mùn vàng đỏ
trên núi); với 4 loại đất chính sau:
- Đất phù sa có tầng loang lổ của các sông khác (Pf): Loại đất này phân bố ở vùng
đồng bằng thuộc địa bàn của xã; thích hợp với các loại cây trồng như cây lương thực, hoa
màu và cây công nghiệp ngắn ngày;
- Đất đỏ vàng phát triển trên đá phiến sét (Fs): Loại đất này hình thành và phát triển trên
sản phẩm phong hóa của đá phiến sét; với địa hình bị chia cắt mạnh, sườn dốc và thường bị
xói mòn rửa trôi vào mùa mưa. Đây là loại đất thích hợp đối với việc sản xuất nương, trồng
cây công nghiệp dài ngày như: Cao su, Cà phê;
- Đất vàng nhạt phát triển trên đá cát (Fq): Phân bố ở địa hình bị chia cắt, độ dốc cao,
trong đất lẫn nhiều đá vụn đang phong hóa. Đây là loại đất kém thích hợp đối với cây Cà
phê nhưng thích hợp với cây Cao su và cây lâm nghiệp;
- Đất mùn đỏ vàng phát triển trên đá sét (Hs): Phân bố ở vùng núi cao trên 1.000m;
đất ít chua nên thích hợp với cây lâm nghiệp và khoanh nuôi tái sinh tự nhiên rừng.
3.1.2. Điều kiện kinh tế xã hội
3.1.2.1. Điều kiện kinh tế
Cơ cấu kinh tế Thanh Chăn chủ yếu là thuần nông, ngành nông lâm nghiệp
chiếm khoảng86%; thương mại, dịch vụ, ngành nghề khác chiếm gần 14%. Giá trị sản xuất
của các ngành kinh tế năm 2013 của xã Thanh Chăn:
- Giá trị sản xuất nông nghiệp 56.641,5 triệu đồng chiếm 87,4%, giảm gần 4,7% so
với năm 2011;
- Thương mại, dịch vụ 5.060,0 triệu đồng chiếm 7,8%, tăng gần 0,3% so với năm 2011;
- Nguồn thu khác 3.085,1 triệu đồng, chiếm 4,8%; tăng hơn 4,4% so với năm 2011.
- Tổng giá trị thu nhập của toàn xã sau khi trừ chi phí ước tính đạt 46.292,0 triệu đồng; thu
nhập bình quân đạt 9,5 triệu đồng/người/năm bằng 0,86 lần thu nhập chung của tỉnh;
3.1.2.2. Cơ sở hạ tầng
* Giao thông nội đồng
Hệ thống giao thông nội đồng trên địa bàn xã Thanh Chăn khá đầy đủ; tổng chiều dài
đường nội đồng là 19,0 km; hiện tại phần lớn là đường đất, chất lượng đường xấu; chỉ
có 0,7 km đường trục chính nội đồng được cứng hóa;
Trong đó:
- Đường trục chính nội đồng có tổng chiều dài là 7,4 km; bề rộng nền đường 2,0 3,0m; đường kết hợp với kênh tưới và tiêu nước;
- Đường bờ thửa có tổng chiều dài 11,6 km; bề rộng nền đường từ 1,0 đến 1,5 m;
đường kết hợp với kênh tưới và tiêu nước;
Tổng chiều dài đường giao thông khoảng 19,0 km; hầu hết là đường đất; chiếm tới
96,3% tổng chiều dài; mặt đường gồ ghề, đường lầy lội khi mưa xuống. Vì vậy để đảm bảo
việc vận chuyển vật tư và sản phẩm sau thu hoạch thuận lợi trong thời gian tới cần mở rộng
nền đường và cứng hóa đường nội đồng. Ngoài ra cần mở mới những đoạn đường nội đồng
cần thiết.
* Thủy lợi nội đồng
Hệ thống kênh mương nội đồng
Ruộng nước của xã Thanh Chăn được chia thành 2 vùng lớn là vùng dưới kênh và
vùng trên kênh; hầu hết diện tích ruộng nước của xã đều đã được cung cấp đủ nước để sản
xuất cả 2 vụ; chỉ có khoảng 23 ha ruộng vùng sản xuất trên kênh không đủ nước để sản
xuất vụ chiêm. Ruộng nước được cung cấp nước từ 6 công trình thủy lợi nhỏ và công trình
Đại thủy nông Nậm Rốm. Quy mô, chiều dài các hệ thống kênh được thể hiện dưới bảng
11 sau:
a) Đại thủy nông Nậm Rốm
b) Công trình đại thủy nông Nậm Rốm cung cấp nước tưới cho khoảng 224 ha ruộng trên
địa bàn xã Thanh Chăn, hệ thống kênh bao gồm:
+ Kênh loại I: Có chiều dài 2,2 km đã được cứng hóa;
+ Kênh loại II: Có 6 tuyến với tổng chiều dài 10,1 km; số km kênh được cứng hóa
4,7 km; tỷ lệ cứng hóa kênh loại II đạt 46,5%;
+ Kênh loại III: Có tổng chiều dài kênh 30,9 km phân bố ở các khu ruộng khác nhau;
100% đều là kênh đất.
* Ưu điểm
- Lưu lượng nước ổn định và đảm bảo cung cấp nước đủ cho khoảng 224 ha ruộng
nước của xã;
- Hệ thống kênh tưới tiêu khá đầy đủ, phân bố đều trên các khu ruộng.
* Nhược điểm
- Một số tuyến kênh loại II cung cấp nước tưới trực tiếp cho các khu ruộng và phân
phối nước cho hệ thống kênh loại III đã xuống cấp và một số tuyến chưa được cứng hóa; vì
vậy trông thời gian tới cần nâng cấp và cứng hóa các tuyến kênh này để đảm bảo cung cấp
và phân phối nước ổn định;
+Tuyến kênh N16A: Cung cấp nước trực tiếp cho ruộng ở khu I, II và chia nước cho các
kênh loại III để tưới cho khoảng 62 ha ruộng vùng này; có chiều dài khoảng 2,0 km. Tuyến
kênh này hiện tại chưa được cứng hóa, dòng chảy thường xuyên bị ngẽn, hạn chế trong việc
cung cấp nước cho sản xuất; nên cần thiết phải cứng hóa để đảm bảo cung cấp nước cho khu
ruộng I, II;
+ Tuyến kênh N17A: Cung cấp nước trực tiếp cho ruộng ở khu III và chia nước cho
các kênh loại III để tưới cho khoảng 52 ha ruộng vùng này; có chiều dài 2,4 km. Tuyến
kênh này hiện tại chưa được cứng hóa, dòng chảy thường xuyên bị ngẽn, hạn chế trong
việc cung cấp nước cho sản xuất; nên cần thiết phải cứng hóa để đảm bảo cung cấp nước
cho khu ruộng III;
+ Tuyến kênh N17B: Cung cấp nước trực tiếp cho ruộng ở khu VI và chia nước cho
các kênh loại III để tưới cho khoảng 18 ha ruộng vùng này; có chiều dài 0,9 km. Tuyến
kênh này hiện tại đã được cứng hóa; nhưng kênh có độ chênh cao, cao hơn so với đầu mối
nên cần đổi đầu mối để đảm bảo cung cấp nước cho khu ruộng VI;
+ Tuyến kênh N18A: Cung cấp nước trực tiếp cho ruộng ở khu IV và chia nước cho các
kênh loại III để tưới cho khoảng 52 ha ruộng vùng này; có chiều dài 1,8 km. Tuyến kênh này
đã được cứng hóa, nhưng do thành kênh thấp nên nước bị tràn ra khỏi kênh, hạn chế trong việc
cung cấp nước cho sản xuất; nên cần thiết phải nâng cấp để đảm bảo cung cấp nước cho khu
ruộng IV;
+ Tuyến kênh N18B: Đây là tuyến kênh tưới cho cả 2 xã Thanh Chăn và Thanh Yên.
Tuyến kênh này chảy qua địa phận xã Thanh Chăn khoảng 2,0 km; đã được cứng hóa; đảm
bảo tốt việc cung cấp nước cho khoảng 38 ha ruộng khu V.
- Hệ thống kênh loại III với tổng chiều dài 30,9 km; hiện tại đều là kênh đất; vì vậy
trong thời gian tới cần cứng hóa những tuyến kênh loại III quan trọng và bổ sung một số
tuyến kênh loại III cần thiết, đảm bảo nước tưới ổn định cho các khu ruộng.
b) Thủy lợi đội 2, 3 Pom Mỏ
Công trình thủy lợi đội 2, 3 Pom Mỏ có tổng chiều dài kênh là 2,3 km; cung cấp
nước tưới cho 15 ha ruộng của đội 2, 3 Pom Mỏ. Hệ thống kênh tưới, tiêu đã đầy đủ; nguồn
nước cung cấp không đủ để sản xuất vụ chiêm, kênh đều là kênh đất, cần được cứng hóa
trong thời gian tới.
c) Thủy lợi Pá Lếch
Tuyến kênh đã được cứng hóa với chiều dài 1,2 km; cung cấp nước ổn định, đảm bảo
tưới cho trực tiếp cho khoảng 11 ha ruộng bản Pá Lếch thuộc khu ruộng II. Tuy nhiên một
số diện tích lúa ở cuối kênh còn thiếu nước, và nước cung cấp không ổn định; vì vậy cần bổ
sung kênh để đảm bảo tưới, tiêu nước ổn định cho sản xuất.
d) Thủy lợi Hoong Lếch Cang
Tuyến kênh có chiều dài 1,3 km, trong đó 0,4 km kênh đã được cứng hóa; công trình
thủy lợi này cung cấp nước cho khoảng 12 ha khu ruộng VIII (khu ruộng bản Hoong Lếch
Cang).
đ) Thủy lợi Púng Nghịu
Tuyến kênh có chiều dài 0,5 km, trong đó 0,1 km kênh đã được cứng hóa; công trình
thủy lợi này cung cấp nước cho khoảng 4 ha vùng sản xuất ruộng 1 vụ của bản Púng
Nghịu.
e) Thủy lợi Huổi Cưởm
Tuyến kênh có chiều dài 1,1 km, kênh chưa được cứng hóa; công trình thủy lợi này
cung cấp nước cho khoảng 5 ha ruộng ở khu VI (chủ yếu ruộng của đội 6 - bản Pha Đin);
f) Thủy lợi đội 10a
Tuyến kênh có chiều dài 1,9 km, kênh chưa được cứng hóa; công trình thủy lợi này
cung cấp nước cho khoảng 10 ha vùng sản xuất ruộng ở khu I (chủ yếu ruộng của đội 10a thôn Thanh Hồng);
4.2.2. Hệ thống đập dâng và cống chia nước
Trên địa bàn xã đã đầu tư xây dựng được 8 đập dâng, trong đó có 5 đập đã được kiên
cố hóa; 31 cống chia nước, chỉ có 14 cái đáp ứng được yêu cầu, còn lại 17 cái cần nâng
cấp). Vì vậy trong thời gian tới cần xây dựng một số đập dâng, nâng cấp, bổ sung các cống
chia nước để đảm bảo cung cấp nước và phân phối nước cho các vùng sản xuất ruộng nước
của xã.
* Tình hình phát triển dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp
Phát triển dịch vụ nông nghiệp là một nhiệm vụ rất quan trọng trong quá trình sản xuất,
dịch vụ nông nghiệp phát triển sẽ góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển. Xã Thanh Chăn có
2 hình thức dịch vụ sản xuất nông nghiệp chủ yếu là: dịch vụ hợp tác xã; các điểm dịch vụ
nông nghiệp thuốc BVTV, phân bón, giống, dịch vụ ngân hàng, tài chính, KHKT,…;
Dịch vụ phát triển nông nghiệp Hợp tác xã
a) Cơ cấu
HTX dịch vụ nông nghiệp xã Thanh Chăn gồm:
+) 5 thành viên chính: Chủ nhiệm, phó chủ nhiệm, kiểm soát viên, kế toán, thủ quỹ
kiêm thủ kho;
+) Có 17 đội sản xuất của từng thôn bản; các trưởng thôn, bản chính là các đội
trưởng đội sản xuất của các thôn, bản.
b) Hoạt động
Hợp tác xã đóng vai trò rất quan trọng trong quá trình sản xuất nông nghiệp, quản lý
điều hành sản xuất nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi,…) bao gồm: khâu làm đất, thủy lợi,
vật tư, kiểm soát sâu bệnh,…;
Thường xuyên tham gia các lớp tập huấn về hợp tác xã, quy trình sản xuất do các
phòng ban chuyên môn của huyện; tỉnh tổ chức nhằm kịp thời hướng dẫn, chuyển giao
khoa học kĩ thuật cho các hộ gia đình địa phương phục vụ việc sản xuất; bên cạnh đó nâng
cao năng lực, chuyên môn cho các thành viên của HTX để đảm bảo thực hiện nhiệm
vụ ngày càng tốt hơn;
Để đảm bảo sản xuất HTX chịu trách nhiệm cung ứng trước vật tư nông nghiệp cho
các hộ gia đình, sau khi thu hoạch, các hộ sẽ trả tiền cho hợp tác xã; với dịch vụ này đã tạo
điều kiện thuận lợi cho người dân sản xuất tốt hơn;
Các hoạt động sản xuất kinh doanh của hợp tác xã như cung ứng vật tư, các dịch vụ
như làm đất, thu hái, thú y,…hầu như chưa có, do HTX không có vốn, nhà làm việc, kho
chứa vật liệu,…; nên hiệu quả kinh tế của HTX dịch vụ nông nghiệp chưa cao.
c) Thuận lợi, khó khăn của hợp tác xã dịch vụ nông nghiệp
+) Thuận lợi
Những diện tích sản xuất lúa, màu vùng dưới kênh hữu đã được cung cấp nước tưới
tiêu đầy đủ; vì thế công tác chỉ đạo thủy lợi trong giai đoạn sản xuất được thuận lợi;
Nguồn cung cấp vật tư (giống, phân bón, thuốc BVTV,…) đầy đủ, đảm bảo chất
lượng;
Việc chỉ đạo sản xuất, chuyển giao kỹ thuật sản xuất, phòng trừ sâu bệnh,… được
các cấp ban ngành quan tâm hướng dẫn, chỉ đạo sát sao nên HTX không gặp khó khăn
nhiều khi xảy ra dịch bệnh, ít gặp rủi ro trong sản xuất.
+) Khó khăn
- Thiếu vốn để mua vật tư nông nghiệp, trang bị thiết bị, máy móc cho hợp tác xã,
ảnh hưởng đến việc chỉ đạo sản xuất;
- Lực lượng kỹ thuật hạn chế về trình độ chuyên môn và chỉ đạo điều hành nên đã
ảnh hưởng đến việc chỉ đạo sản xuất nông nghiệp;
- Hợp tác xã chưa có trụ sở làm việc, kho chứa vật tư gây ảnh hưởng đến các hoạt
động dịch vụ của hợp tác xã.
Dịch vụ hợp tác xã thủy sản
a) Cơ cấu, quy mô
HTX thủy sản xã Thanh Chăn gồm:
HTX thành lập tháng 3 năm 2013, tập hợp nhóm người cùng sở thích chăn nuôi thủy
sản ở trong xã.
+) 12 thành viên: Chủ nhiệm, phó chủ nhiệm HTX, kiểm soát viên, kế toán, thủ quỹ
và các xã viên;
+) Tổng diện tích đất sản xuất của HTX là 6,3 ha, trong đó hợp đồng thuê 3 ha của
xã, tổng vốn hoạt động của HTX là 320 triệu đồng.
b) Hoạt động
Hợp tác xã chuyên ươm, nuôi, cung cấp cá giống, cá thịt cho thị trường trong tỉnh và
ngoài tỉnh. Các giống cá chủ yếu là trắm, chép, mè, trôi, rô phi đơn tính,…;
Thị trường tiêu thụ của HTX còn ít, chủ yếu là các huyện trong tỉnh như: Tuần Giáo,
T.P Điện Biên và người dân trong xã. Vì thế, thời gian sắp tới HTX cần đầu tư để mở rộng
hoạt động sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường để đảm bảo phát triển bền vững và
mang lại thu nhập, hiệu quả kinh tế cao hơn cho các thành viên tham gia;
Năm 2013, HTX liên kết với trung tâm Thủy sản, Khuyến nông, chi cục PTNT tỉnh
Điện Biên, cung cấp cá giống, cá thịt cho nhiều dự án, mô hình, chương trình của các trung
tâm và các cơ sở kinh doanh có nhu cầu như: mô hình VAC cho trạm Khuyến nông là 8 vạn
con, mô hình của chi cục PTNT là 10 vạn con, cung cấp cá thịt cho các nhà hàng ở TP Điện
Biên Phủ,…;
Tổng doanh thu năm 2013 của HTX thủy sản là khoảng 2 tỷ đồng, năm nay dự kiến
doanh thu cao hơn năm ngoái, do HTX đã đi vào hoạt động ổn định, mở rộng thêm thị
trường, có nhiều khách hàng biết đến.
c) Thuận lợi, khó khăn của hợp tác xã thủy sản
+) Thuận lợi:
Các thành viên trong HTX thủy sản là những người cùng sở thích, có kỹ thuật,
chuyên môn, kinh nghiệm nên đáp ứng được yều cầu về chất lượng cá giống, cá thịt cho thị
trường;
Sản xuất có định hướng rõ ràng, phát triển theo hướng bền vững chung cho toàn xã;
Hợp tác xã có tư cách pháp nhân, con dấu riêng, chủ động trong công việc và thực hiện
các hợp đồng kinh doanh;
Các thành viên trong hợp tác xã có tinh thần đoàn kết trong sản xuất, giúp đỡ nhau cùng
phát triển.
+) Khó khăn:
Thiếu vốn để xây dựng cở sở hạ tầng phục vụ sản xuất như kè bờ ao, xây dựng hệ
thống cấp và tiêu nước,…;
Hợp tác xã chưa có trụ sở làm việc, ảnh hưởng đến công tác quản lý hợp tác xã, giao
dịch của hợp tác xã.
Các điểm cung cấp dịch vụ nông nghiệp
Hiện tại xã có 4 cửa hàng dịch vụ bán vật tư nông nghiệp gồm: 1 điểm của Công ty
Vật Tư Nông nghiệp Điện Biên; 3 điểm tư nhân thuộc khu vực thôn Thanh Hồng cung cấp
vật tư cho người dân phục vụ sản xuất.
Xã đã có điểm cung cấp cây giống của Công ty cổ phần Giống nông nghiệp Điện
Biên ở thôn Nhà Trường. Ngoài ra xã còn làm dịch vụ sản xuất giống trực tiếp cho công ty,
100% giống Bắc thơm, năm 2013 diện tích lúa giống gần 50ha, được trồng ở các đội 10A,
10B, đội 11, đội 12, đội 14; thu hoạch được khoảng 60 - 70 tấn lúa giống, tăng thu nhập
cho người dân, định hướng vùng sản xuất lúa giống chất lượng, có thương hiệu trên thị
trường. Năm 2011 dự kiến thu hoạch khoảng trên 100 tấn lúa giống đạt tiêu chuẩn.
Dịch vụ thuốc Bảo vệ thực vật có 4 điểm gồm: Cụm Thanh Hồng 2 điểm, Đội Việt
Thanh 4, Bản Co Mỵ (đội 12), cung cấp đủ các loại thuốc như: thuốc bệnh, thuốc trừ cỏ,
thuốc trừ ốc,…và hướng dẫn người dân sử dụng thuốc đúng quy trình, hiệu quả và an toàn,
không ảnh hưởng đến môi trường xung quanh. Các cửa hàng, đại lý thuốc BVTV mỗi năm
cho thu nhập khoảng 4-5 triệu đồng.
3.1.2.3.Dân số và lao động
Dân số: Toàn xã Thanh Chăn (thời điểm 12/2013) có tổng số 4.877 nhân khẩu/1.197 hộ,
bình quân mỗi hộ gia đình có 4 đến 5 nhân khẩu. Tỷ lệ nam, nữ khá đồng đều; nam là
2.495 người, nữ là 2.382 người. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 1%. Mật độ phân bố dân cư
trung bình của xã là 219 người/ Km2.
Lao động: Số lao động trong độ tuổi 2.982 người. Trong đó lao động nữ 1.332 người,
lao động nam là 1.650 người. Số lượng lao động nông nghiệp chiếm tỷ lệ lớn với 86,6%
tổng số lao động trên địa bàn xã, tương đương với 2.582 người; lao động phi nông nghiệp
chiếm 13,4% so với tổng số lao động trong độ tuổi của xã, tương đương với 400 người.
3.1.3. Tình hình sản xuất
3.1.3.1. Ngành chăn nuôi
Tình hình phát triển chăn nuôi xã Thanh Chăn
Tỷ lệ tăng, giảm
TT
Chỉ tiêu
ĐVT
Năm 2011
Năm 2013
(%)
1
Trâu
Con
669
835
24,8
2
Bò
Con
156
70
-55,1
3
Lợn
Con
4.056
4.136
2,0
4
Nhím
Con
0
280
100
5
Gia cầm
Con
29.564
25.362
-14,2
6
Thủy sản
Ha
25,7
36,7
42,8
-
Cá thịt
Tấn
10
55
450,0
-
Cá giống
Tấn
11
82
645,5
7
Sản phẩm chính
-
Thịt trâu, bò
Tấn
10
15
50,0
-
Thịt lợn
Tấn
400
450
12,5
-
Vịt thịt
Tấn
12
14
16,7
-
Gà
Tấn
12
14
16,7
-
Trứng
Quả
23.000
30.000
30,4
(Nguồn Thống kê xã Thanh Chăn)
Qua bảng cho thấy:
Tổng số đàn gia súc có sự thay đổi theo hướng tăng lên; chỉ riêng tổng số đàn bò giảm đi so
với năm 2011, tổng số gia cầm giảm hơn 5.000 con so với năm 2011. Năm 2013, có 37 hộ
tham gia nuôi nhím với 280 cá thể, giá trung bình khoảng 200 nghìn đồng/kg; nuôi Nhím
chi phí ban đầu lớn, nhưng công chăm sóc ít, cho thu nhập cao nên một số hộ gia đình đã
chuyển đổi mô hình chăn nuôi nuôi nhím để phát triển kinh tế với hiệu quả hơn.
Cơ cấu đàn gia súc tính đến tháng 12/2013:
+ Đàn trâu: tổng số đàn trâu là 835, tăng 116 con tương đương với tăng 19,9% so với năm
2011;
+ Đàn bò: tổng số đàn bò là 70 con, giảm 86 con tương đương với giảm 122,9% so với
năm 2011.
Tổng sản lượng thịt đàn trâu, bò tăng 5 tấn tương đương với tăng 33,3% so với năm 2011.
+ Đàn lợn: tổng số đàn lợn tăng gần 2% so với năm 2011, sản lượng thịt lợn hơi tăng 50 tấn
tương đương với tăng hơn 11% so với năm 2011;
+ Đàn gia cầm: tổng số gia cầm năm 2013 là 25.362 con, giảm 4.202 con tương đương với
giảm 16,6% so với tổng đàn gia cầm năm 2011;
Tổng giá trị sản xuất của ngành chăn nuôi là 11.090,0 tỷ đồng, chiếm 17,1% so với
tổng giá trị sản xuất toàn xã.
b) Thú y
Năm 2013, việc chăm sóc, phòng chống dịch bệnh cho đàn gia súc, gia cầm đã được
thực hiện tốt theo đúng những quy định; địa bàn không để xảy ra các loại dịch bệnh làm
ảnh hưởng tới sự phát triển chăn nuôi nói chung. Đã tổ chức thực hiện phun thuốc tiêu độc
khử trùng, phun thuốc phòng dịch cho đàn gia súc, gia cầm đầy đủ theo kế hoạch của
huyện giao;
3.1.3.2. Ngành trồng trọt ( phụ lục 3 )
Được thể hiện qua bảng số liệu sau :
3.2. Điều tra về công tác quản lý, sử dụng đất
3.2.1. Công tác quản lý đất đai
3.2.1.1.Công tác điều tra, khảo sát phân hạng đất và lập bản đồ địa chính;
Dưới sự chỉ đạo của UBND huyện, UBND xã Thanh Chăn đã tiến hành kiểm tra và
khảo sát phân hạng, chỉnh lý lại bản đồ địa chính.
Xã đã có bản đồ giải thửa năm 1996 tỷ lệ 1/2000.
Xã có bản đồ hiện trạng và bản đồ quy hoạch sử dụng đất năm 2011 tỷ lệ 1/5000 và
bản đồ quy hoạch năm 2012.
3.2.1.2. Công tác quy hoạch và kế hoạch sử dụng đất
Hàng năm UBND xã cùng phối hợp với các phòng ban của sở Tài nguyên và Môi
trường, phòng TN-MT huyện phòng quản lý đô thị xây dựng kế hoạch sử dụng đất hàng
năm của xã.
Quy hoạch vùng phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản; nhằm phát huy thế mạnh
của địa phương và đảm bảo tính ổn định và bền vững;
Quy hoạch lại sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản nhằm tạo ra vùng sản xuất hàng
hóa nông sản tập trung;
Quy hoạch bố trí sản xuất phải gắn với hoàn thiện cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất
như giao thông và thủy lợi nội đồng; hệ thống dịch vụ nông nghiệp.
* Giai đoạn 2011 - 2015
- Nâng thu nhập từ trồng trọt (sau khi đã trừ chi phí) đạt 65 triệu đồng/ha/năm, thu
nhập bình quân từ trồng trọt đạt 6,5 triệu đồng/người/năm;
- Phấn đấu đến năm 2015 nâng mức thu nhập từ chăn nuôi đạt 2,0 triệu
đồng/người/năm;
- Bảo vệ rừng hiện còn và khoanh nuôi phục hồi rừng; đảm bảo nâng độ che phủ rừng trung bình
toàn xã từ 34,3% năm 2010 lên 41,3% vào năm 2015;
tạo thêm thu nhập từ các hoạt động
lâm nghiệp cho các hộ gia đình;
- Mở rộng diện tích ao, hồ nuôi trồng thủy sản từ 37,0 ha lên 42,8 ha vào năm 2015; thu
nhập từ thủy sản ước đạt 2,5 triệu đồng/người/năm;
- Tạo thêm nguồn thu từ các hoạt động dịch vụ nông nghiệp và việc phát triển ngành nghề
nông thôn, tỷ lệ lao động ngành nông nghiệp xuống còn khoảng 81%.
* Giai đoạn 2016 - 2020
- Nâng thu nhập từ trồng trọt (sau khi đã trừ chi phí) đạt 95 triệu đồng/ha/năm, thu
nhập bình quân từ trồng trọt đạt 8 triệu đồng/người/năm;
- Đảm bảo 100% các cá nhân, hộ gia đình chăn nuôi đều có chuồng trại đạt yêu cầu; nâng
cao thu nhập từ chăn nuôi đạt 2,5 triệu đồng/người/năm;
- Bảo vệ rừng hiện còn và khoanh nuôi phục hồi rừng; đảm bảo nâng độ che phủ rừng
trung bình toàn xã lên 44,5% vào năm 2020; tạo thêm thu nhập từ các hoạt động lâm
nghiệp cho các hộ gia đình;
- Mở rộng diện tích ao, hồ nuôi trồng thủy sản từ 37,0 ha lên 44,4 ha vào năm 2020; thu
nhập từ thủy sản ước đạt 3,0 triệu đồng/người/năm;
- Tạo thêm nguồn thu từ các hoạt động dịch vụ nông nghiệp và việc phát triển ngành nghề
nông thôn, tỷ lệ lao động ngành nông nghiệp xuống còn khoảng 73%.
3.2.1.3. Công tác giao đất, cho thuê đất và thu hồi đất
Công tác giao đất là một khâu quan trọng trong 13 nội dung quản lý Nhà nước về đất đai,
nó phản ánh cụ thể chính sách của Nhà nước trong việc điều chỉnh các quan hệ Pháp luật
đất đai: UBND xã phối hợp với UBND huyện tiến hành giao đất cho các hộ gia đình cá
nhân sử dụng ổn định và lâu dài.
Theo kết quả điều tra năm 2012 diện tích đất nông nghiệp của xã có 1,514,9 ha đất phi
nông nghiệp là 290,05 ha.
Công tác thuê đất thu hồi đất những năm gần đây không có.
Như vậy công tác quản lý, giao đất của xã được thực hiện theo đúng quy định của Pháp
luật.
3.2.1.4. Công tác đăng ký đất đai, lập và quản lý hồ sơ địa chính, thống kê, kiểm kê
đất, cấp Giấy chứng nhận QSDĐ;
Xã đã tổ chức cho người dân đến kê khai đăng ký các loại đất nông nghiệp, lâm nghiệp, đất
ở từng hộ, thực hiện các quyền chuyển đổi chuyển nhượng, đây là yếu tố quan trọng nhằm
xác định quyền sử dụng đất cho các chủ hộ sử dụng đất.
Năm 2013 xã đã lập hồ sơ giao đất cho 513 hộ với diện tích 27,6 ha.
3.2.1.5. Công tác thanh tra, kiểm tra việc chấp hành các chế độ, thể lệ quản lý và sử
dụng đất đai tại địa phương;
Dưới sự chỉ đạo của Phòng TN- MT huyện hàng năm xã đã tiến hành thống kê, kiểm kê đất
5 năm 1 lần theo đúng hướng dẫn của bộ TN-MT nhằm rò xét lại quỹ đất và đưa ra kế
hoạch cụ thể để sử dụng đất có hiệu quả, đến nay xã đa hoàn thành công tác kiểm kê đất đai
năm 2012.
Công tác thanh tra việc chấp hành các chế độ quản lý và sử dụng đất giữ mọt vai trò vô
cùng quan trọng, thường xuyên phối hợp với phòng TN- MT huyện Điện Biên nâng cao ý
thức chấp hành pháp luật đất đai đê mọi người thực hiện đúng nghĩa vụ đảm bảo quyền sử
dụng đúng mục đích.
Hàng năm xã thường kiểm tra 1 đợt/năm. Phát hiện 4 vụ vi phạm pháp luật đất đai đó là tự
ý làm nhà trên đất ruộng . Xã đã tiến hành lập biên bản yêu cầu tháo rỡ và báo cáo lên cơ
quan cấp trên để xử lý theo quy định của Pháp luật đất đai.
3.2.2. Tình hình quản lý và sử dụng đất đai tại địa phương
3.2.2.1. Tình hình quản lý và sử dụng nhóm đất nông nghiệp;
Theo kết quả điều tra hiện trạng sử dụng đất đai năm 2012, xã Thanh Chăn có tổng
diện tích đất tự nhiên là 2,229,68 ha. Trong đó:
3.2.2.1. Tình hình quản lý và sử dụng nhóm đất nông nghiệp;
Tổng diện tích đất nông nghiệp: 1,585,57 ha chiếm 71,1% tổng diện tích đất tự nhiên
của xã, cụ thể như sau:
- Đất sản xuất nông nghiệp 370,57 ha chiếm 16,62% tổng diện tích đất nông nghiệp,
trong đó:
+ Đất trồng cây hàng năm 362,23 ha (bao gồm 283,43 ha đất trồng lúa và 78,80 ha
đất trồng cây hàng năm khác).
+ Đất trồng cây lâu năm 8,34 ha.
- Đất lâm nghiệp 1,178,000 ha chiếm 52,83% tổng diện tích đất nông nghiệp. Trong
đó: đất rừng sản xuất có 0 ha; đất rừng phòng hộ có 1,178,000 ha.
- Đất nuôi trồng thuỷ sản 37,0 ha, trong tổng diện tích đất nông nghiệp.
3.2.2.2. Tình trạng quản lý và sử dụng nhóm đất phi nông nghiệp;
Theo kết quả điều tra, diện tích đất phi nông nghiệp của xã có 290,05 ha, chiếm 13%
tổng diện tích tự nhiên của xã.
3.2.2.3. Tình trạng đất chưa sử dụng;
Theo kết quả điều tra diện tích đất chưa sử dụng của xã còn 354,06 ha chiếm 15,9%
tổng diện tích tự nhiên của xã.
3.2.3. Nhận định chung
3.2.3.1. Thuận lợi
- Nhìn chung điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc phát triển một nền nông nghiệp
sinh thái toàn diện và bền vững, khí hậu phù hợp phát triển nhiều loại cây, nguồn đất đai
khá dồi dào và chất đất tốt.
- Có vị trí thuận lợi: có cánh đồng rộng, có nhiều hệ thống kênh mương chảy qua rất thuận
lợi cho việc phát triển sản xuất nông nghiệp
- Trên địa bàn xã có nhiều dân tộc chung sống, vì vậy phương thức canh tác khá đa
dạng.
- Nhân dân các dân tộc trong xã có truyền thống đoàn kết, đùm bọc lẫn nhau cần cù
trong lao động sản xuất, tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước.
- Luôn được sự quan tâm chỉ đạo của UBND tỉnh, huyện nền kinh tế của xã đã dần
được cải thiện. Vấn đề y tế, giáo dục ngày càng được quan tâm hơn, tình hình an ninh
chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững.
- Bên cạnh đó với lợi thế xã có nguồn lao động dồi dào là nguồn nhân lực lớn cho quá
trình phát triển kinh tế.
3.1.3.2 . Khó khăn
Bên cạnh những thuận lợi, xã còn tồn tại một số khó khăn, hạn chế nhất định:
- Địa hình của xã rộng, vào mùa Mưa thường gây xói mòn, rửa trôi; vào mùa Khô
thì tình trạng thiếu nước vẫn thường xuyên xảy ra gây khó khăn cho sản xuất nông nghiệp
và đời sống của nhân dân.
- Điểm xuất phát thấp, nền kinh tế còn mang nặng tính thuần nông, tự cung tự cấp, tỷ
lệ nghèo còn ở mức cao, trình độ dân trí còn hạn chế, …
- Cơ sở hạ tầng còn thiếu thốn và chưa đồng bộ.
- Trình độ canh tác của người dân còn hạn chế, ý thức cải tạo đất và môi trường
chưa được quan tâm nhiều.
- Do thiếu vốn, thiếu hiểu biết về khoa học kỹ thuật nên việc chuyển đổi cơ cấu cây
trồng, vật nuôi còn khá chậm.
- Nhận thức của nhân dân về khoanh nuôi, bảo vệ rừng và phát triển kinh tế rừng
còn thấp.
- Đội ngũ cán bộ xã còn mỏng, năng lực và trình độ quản lý còn nhiều hạn chế.
3.3.Công tác hòa giải và giải quyết tranh chấp đất đai tại xã.
3.3.1. Thống kê số vụ tranh chấp đất đai tại xã
Từ khi luật đất đai năm 1993, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật đất đai năm
1998 và Pháp lệnh giải quyết khiếu nại về tranh chấp đất đai có hiệu lực thi hành. Việc
giải quyết khiếu nại về tranh chấp đất đai ở địa phương đã ổn định, đảm bảo đúng trình
tự, thủ tục, công tác thẩm tra xác minh được thận trọng, khách quan và đúng chính sách
pháp luật.
Trong một số năm gần đây tại xã đã xảy ra một số sự việc sau :
- Lấn chiếm đất hành lang giao thông 01 vụ đã giải quyết.
- Không xác định được ranh giới thửa đất dẫn đến xảy ra tranh chấp 08 vụ đã giải quyết
xong.
* Nguyên nhân:
Công tác giải quyết tranh chấp đất đai trong thời gian qua đạt được một số kết quả
như trên là nhờ sự quan tâm chỉ đạo của các cấp, các ban ngành có liên quan và sự nỗ lực
giải quyết của chính quyền cấp cơ sở, đã tổ chức giải quyết dứt điểm làm ổn định tình
hình kinh tế xã hội.
Các ngành chức năng đã nổ lực phấn đấu tìm mọi biện pháp thực hiện từng mặt công
tác và hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện, hoàn chỉnh hơn làm cơ sở pháp lý cho
việc giải quyết tranh chấp đất đai ngày càng tốt hơn.
3.3.2. Hòa giải và giải quyết tranh chấp đất đai tại xã
Năm
Số đơn chuyển Số
đơn
Số đơn tiếp Số đơn hòa
phòng TN-MT chuyển Tòa
nhận
giải thành
Huyện
án giải quyết
2011
04
04
0
0
2012
05
03
02
0
2013
04
01
03
0
Tổng cộng
13
08
05
0
* Nguyên nhân xảy ra tranh chấp đất đai tại xã do:
Công dân chấp hành kỷ cương pháp luật không nghiêm, cố ý khiếu nại không
đúng theo quy định của pháp luật, không chấp hành các quyết định của các xơ quan Nhà
nước có thẩm quyền, một vụ phải giải quyết nhiều lần, kéo dài, làm phức tạp thêm, phải
tốn nhiều công sức, tiền của mới giải quyết xong.
Công tác vận động học tập và tuyên truyền pháp luật chưa được thường
xuyên sâu rộng, nên một bộ phận nhân dân khiếu nại tranh chấp không đúng quy định của
pháp luật. Đây là khuyết điểm khong nhỏ của lãnh đạo các cấp, các ngành ở địa phương.
*Điều tra một vụ điển hình
Trong năm 2013 tại khu vực bản Cò Mỵ đã xảy ra vụ tranh chấp đất đai giữa
gia đình ông Lò Văn Tuấn với gia đình ông Lò Văn Đợi. Do trước đây ranh giới giữa hai
gia đình chỉ bằng hàng rào cây găng, đến năm 2013 gia đình ông Lò Văn Tuấn làm nhà
và xây dựng hàng rào bằng gạch đã phát hàng dào đi và xây lại . Trong quá trình xây
dựng gia đình ông Lò Văn Đợi cảm thấy gia đình ông Tuấn đã xây sang phần diện tích
đất nhà mình với chiều rộng 01 m và chiều dài 30m với tổng diện tích lấn chiếm là
30m2 nên đã xảy ra cãi vã và tranh chấp đất giữa 2 gia đình. Ngày 11 tháng 02 năm 2013
ông Đợi đã làm đơn nên UBND xã Thanh Chăn khiếu lại về việc ông Tuấn xây lấn sang
đất nhà mình và đề nghị giải quyết.
Ngày 20 tháng 02 năm 2013 UBND xã đã cử cán bộ chuyên môn là địa
chính xã suống địa bàn cùng phối hợp với trưởng bản và đại diện hai hộ gia đình để xác
minh và xử lý vụ việc.
Dựa vào hồ sơ và bản đồ giải thửa được lưu trự tại UBND xã thì đúng là gia
đình ông Tuấn đã xây lấn sang diện tích nói trên của gia đình ông Đợi sau khi xem xét thì
ông Tuấn cũng đã công nhận gia đình mình đã xây sang phần diện tích nhà ông Đợi và
xin lỗi gia đình ông Đợi . Do đã xây được một phần nên ông Tuấn ngỏ ý mua lại phần
diện tích trên với giá là 15.000.000 Đ ( Mười lăm triệu đồng ) và đã được gia đình ông
Đợi đồng ý.
Cán bộ địa chính xã cũng đã thống nhất với hai gia đình tiến hành làm biên
bản giải quyết vụ việc cho các bên liên quan kí vào.
PHẦN IV: KIẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN
1. KẾT LUẬN:
Tóm lại đất đai mãi mãi là nguồn tài nguyên vô tận của mỗi quốc gia nên việc quản
lý Nhà nước về đất đai có vai trò hết sức quan trọng
Luật Đất đai ngày 15/10/1993 của nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam qui định
rõ: “Đất đai là tài nguyên quốc gia là tư liệu sản xuất đặc biệt, là thành phần quan trọng
hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân bố khu dân cư, xây dựng các cơ sở hạ tầng
kinh tế, văn hóa, an ninh quốc phòng”.
“ Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước thống nhất quản lý”.
Ở nước ta, để đảm bảo sự lựa chọn đúng đắn khi đất đai thuộc sở hữu toàn dân và hàng
ngày, hàng giờ giá trị của nó luôn thay đổi theo nhu cầu của nhân dân về nơi ăn, chốn ở.
Nhà nước đã không ngừng tăng cường công tác thống nhất quản lý đất đai trong cả nước.
Để thực hiện điều này một trong những công tác quan trọng của Nhà nước là thực hiện tốt
công tác giải quyết đơn thư khiếu nại về tranh chấp đất đai của nhân dân.
Công tác giải quyết tranh chấp đất đai tại Điện Biên nói chung và ở xã Thanh Chăn
nói riêng vì thế gặp nhiều khó khăn, mặc dù lãnh đạo và cơ quan chuyên môn đã có nhiều
cố gắng, nổ lực đáng ghi nhận. Thêm vào đó một số qui định về công tác giải quyết khiếu
nại tranh chấp đất đai còn chưa cụ thể, chưa rõ ràng và trình độ dân trí hiểu biết pháp luật
của mỗi người dân địa phương còn hạn chế đã tạo nên những khó khăn, ách tắc cho công
tác giải quyết. Vì vậy, việc giải quyết khiếu nại về tranh chấp đất đai trên địa bàn còn tồn
tại một số hạn chế nhất định. Nhưng qua kết quả thực hiện cho thấy công tác giải quyết
khiếu nại tranh chấp đất đai ở Thanh Chăn trong thời gian qua đang có chiều hướng
chuyển biến tích cực, từng bước đi vào ổn định, quỹ đất được quản lý chặt chẽ, hợp lý và
hiệu quả sử dụng ngày càng cao.
Vì vậy công tác thanh tra, kiểm tra giải quyết tranh chấp về đất đai là công tác trọng
tâm hàng đầu, nên càng phải đẩy mạnh công tác quản lý và sử dụng đất đúng mục đích,
đúng quy định của Pháp luật, phải cải tạo, bồi bổ đất nâng cao sinh lợi của đất, hướng dẫn
cá nhân, tổ chức thực hiện nghiêm pháp luật đất đai để nâng cao hơn nữa vai trò của công
tác giải quyết khiếu nại tranh chấp về dất đai, cùng với ý thức về pháp luật của nhân dân
trên địa bàn đối với đất đai được nâng lên trong thời gian tới, thực trạng và công tác giải
quyết khiếu nại về tranh chấp đất đai trong địa bàn sẽ đạt được những kết quả tốt đẹp, làm
hạn chế việc tranh chấp nhằm góp phần phát triễn kinh tế xã hội của tỉnh Điện Biên nói
chung và xã Thanh Chăn nói riêng.
Vì thời gian có hạn tiểu luận chắc chắn sẽ có nhiều hạn chế và không tránh khỏi
những sai sót, song bản thân học viên cũng rút ra được nhiều bài học cho mình trong thời
gian công tác sắp tới, mong góp phần vào việc đưa quản lý Nhà nước về đất đai đi vào nề
nếp, chặt chẽ, khoa học và hiệu quả nhất.
2. KIẾN NGHỊ:
Đẩy mạnh công tác thanh tra đất đai, xử lý nghiêm những vụ vi phạm pháp luật đất
đai theo Nghị định 04/CP nhằm lật lại trật tự kỷ cương pháp luật đưa công tác thanh tra
kiểm tra về tranh chấp đất đai ngày càng chặt chẽ hơn, sử dụng đất tiết kiệm và có hiệu
quả.
Tăng cường công tác tuyên truyền chính sách pháp luật về đất đai, về Luật khiếu
nại, tố cáo cho nhân dân, cải tiến nâng cao chất lượng hiệu quả công tác tuyên truyền ở địa
phương. Kết hợp tuyên truyền bằng nhiều hình thức, bằng phương tiện thông tin báo, đài
và giáo dục sâu rộng trong nhân dân, đặc biệt là ở cơ sở, làm cho nhân dân hiểu rõ quyền
và nghĩa vụ của mình khi tham gia khiếu nại đảm bảo tuân thủ theo quy định của pháp luật
khiếu nại, tố cáo, luật đất đai..
Tiếp tục bồi dưỡng cho cán bộ, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ
ngành địa chính, nhất là cán bộ địa chính xã, phường để làm tốt chức năng quản lý đất đai
ở địa phương, tham mưu cho Ủy ban nhân dân các cấp trong công tác thanh tra, kiểm tra về
đất đai.
Tăng cường hoàn thiện và ổn định tổ chức ngành địa chính từ cấp xã đến cấp tỉnh
cho đủ các chức danh và qua đào tạo nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị ở địa
phương trong giai đoạn mới.
Tăng cường công tác quản lý Nhà nước về đất đai như tiến hành kiểm kê đất đai,
đăng ký đất đai, đo vẽ, lập hồ sơ địa chính, bản đố địa chính… Tăng cường hơn nữa việc
thanh tra đất đai kịp thời phát hiện những sai phạm và xử lý những sai phạm trong quá
trình quản lý và sử dụng đất đai. Như vậy sẽ hạn chế được tranh chấp đất đai góp phần vào
việc ổn định xã hội phát triển kinh tế ở địa phương./.
Cuối cùng học viên xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình của cô Đỗ
Thị Thanh Dương , Ban Giám Hiệu Trường Cao Đẳng Kinh Tế Kỹ Thuật Điện Biên,
UBND xã Thanh Chăn , cùng các thầy cô đã đạo điều kiện giúp học viên hoàn thành bài
thực tập này./.