MỤC LỤC
I.
II.
III.
IV.
Cơ sở hình thành và quá trình phát triển của triết học Phật giáo Mật
tông
1. Cơ sở hình thành
2. Quá trình phát triển
Nội dung tư tưởng của triết học Phật giáo Mật tông
1. Nội dung tư tưởng
2. Một số kinh sách trong Phật giáo Mật Tông
Đặc điểm và ý nghĩa của triết học Phật giáo Mật tông
Tài liệu tham khảo
I.
1.
Cơ sở hình thành và quá trình phát triển của triết học Phật
giáo Mật tông
Cơ sở hình thành của triết học Phật giáo Mật tông
Mật Tông (hay còn gọi là Mật giáo) là từ gốc Hán dùng để gọi pháp môn bắt
nguồn từ sự kết hợp giữa Ấn Độ giáo và Phật giáo Đại thừa, được hình thành
vào khoảng thế kỷ 5,6 tại Ấn Độ.
Trong lịch sử phật giáo Ấn Độ, mật tông là giai đoạn hậu kỳ trong quá trình
phát triển của phật giáo Đại thừa Ấn Độ. Tư tưởng Mật giáo có từ thời Phật
giáo nguyên thủy, thể hiện qua các câu thần chú trong các bộ luật và trong Kinh
Khổng Tước. Nữa sau thế kỷ thứ 7 (AD), Ấn Độ giáo đã len lõi trong các hệ
thống học thuyết, kể cả giáo lý Phật giáo mà phục hưng trở lại, từ đó tạo ra sự
cạnh tranh mãnh liệt đối với Phật giáo đương thời. Lúc bấy giờ, Phật giáo Đại
thừa chỉ giới hạn trong phạm vi “kinh viện triết học”, lý luận học vấn, các phạm
trù triết học biện luận.... Do vậy, đã tự tách mình ra khỏi quảng đại quần chúng
trong khi những hiện tượng siêu hình, thần bí có ở khắp nơi trên đất Ấn. Vì thế,
để thích ứng với tình thế mới, Phật giáo Đại thừa nhanh chóng và tích cực tiếp
cận với Ấn độ giáo và Bà-la-môn giáo. Ban đầu khi tiếp xúc, phía Phật giáo có
những phản ứng khá kịch liệt, có lúc cật lực phê phán những quan niệm nghi
chấp về tế tự cầu phúc trừ họa và mật chú. Tuy nhiên vẫn xúc tiến việc hợp lý
hóa hoặc Phật giáo hóa theo tinh thần tùy duyên, cuối cùng Mật giáo đã hình
thành nên một hệ thống tương đối độc lập trong Phật giáo Đại Thừa.Ấn Độ.
Xuất phát từ Phật giáo Đại thừa, nhưng trường phái này lấy thêm những phương
pháp tu học huyền bí, có tính chất mật truyền. Kinh sách Kim Cang Thừa trình
bày nhiều phép tu luyện được gọi là Tantra (trong tiếng phạn có nghĩa là “mối
liên hệ”, “sự tiếp nối”). Và hay sử dụng Chân ngôn (Mantra: có nghĩa là “lời
nói chân thật”) do đó có ảnh hưởng mạnh nhất tại Tây Tạng hiện nay.
Theo quan niệm của người dân Ấn Độ ở giai đoạn thứ ba phát triển của
Đại Thừa cho rằng giáo pháp của đức Phật được chia làm ba phần: Tiểu thừa,
Đại thừa, Kim Cương Thừa.
Mật tông Phật giáo, tức Mật thừa hay Kim Cương thừa, là một sáng tạo
phối hợp giữa các phương pháp tu luyện cổ xưa của nền văn minh tâm linh Ấn
Độ với Triết lý Đại Thừa của Phật giáo. Chữ “Mật Tông” để chỉ chung các giáo
lý bí truyền Ấn Độ giáo đã có từ trước khi Phật giáo xuất hiện. Những nhà
nghiên cứu thấy rằng Mật Tông Ấn Độ giáo dù không được phái Veda chính
thống công nhận, nhưng vẫn song hành, tồn tại và phát triển cùng Veda và
Upanishad. Thường thì các tôn giáo đều có phần công truyền và phần bí truyền,
ngoài Mật Tông Ấn giáo còn có mật Tông của đạo Jaina…với ý nghĩa “nối tiếp,
tương tục”. Vì vậy để phân biệt và chỉ rõ Mật Tông của Phật giáo ta dùng chữ
Mật Tông Phật giáo, Mật thừa (Tantrayana) hoặc Kim Cương Thừa (Vajrayana)
chủ trương nguyên lý Sự Sự vô ngại thì mới chính xác.
2.
Quá trình phát triển của phật giáo mật tông
Phật giáo khỏi nguyên ở Ấn Độ cổ đại. Phật giáo Ấn Độ phát triển
trải qua các thời kì chính là: thời kì Phật giáo nguyên thủy, thời kì
Phật giáo bộ phái, thời kì Phật giáo đại thừa và thời kì Mật giáo.
Thời kì Mật giáo là thời kì mà Mật giáo chiếm địa vị thống trị hoặc
chủ đạo.
Mật giáo Ấn Độ có thể chia ra làm 3 giai đoạn: giai đoạn sơ kỳ, là
thời kì Cổ Mật giáo, còn gọi là Tạp bộ Mật giáo; giai đoạn trung
kỳ, đây là giai đoạn thuần túy du-già Mật giáo, còn gọi là chính
thuần Mật giáo; giai đoạn vãn kỳ, là thời kỳ Mật giáo phân hóa
hình thành Kim cương thừa, Thời luân giáo.
a. Giai đoạn sơ kỳ (Tạp bộ mật giáo)
Còn gọi là “Sơ kỳ tạp mật” là giai đoạn đầu tiên trong lịch sử
phát triển của mật tông. Tạp bộ mật giáo tu vô tường du-già, sắc
thái Thường (chư hành vô thường), Ngã (chư pháp vô ngã) vẫn
không đậm nét.
Giai đoạn này thường tập hợp Phật, Bồ Tát, Thần, Quỷ vào
chung một đường, vẫn chưa có tổ chức nghiêm mật như Thai
tạng giới. Tuy nhiên cũng lập đàn trường, chú trọng cúng
dường, tụng chú, kết ấn khế, chú trọng ở sự tướng, nhưng chưa
quán tưởng. Trong giai đoạn này, trong Phật giáo đã xuất hiện
hình thái manh nha của Mật tông. Chú thuật vốn là một loại tín
ngưỡng nguyên thủy cổ xưa lưu truyền phổ biến trong dân gian
Ấn Độ, Phật Thích-ca Mâu-ni khi sáng lập Phật giáo đã có thái
độ phản đối, bài xích đối với các loại chú thuật, mật pháp này.
Trong Kinh Phạm Động số 21 thuộc Trường A Hàm quyển 14
Phật dạy: “như các Sa môn Bà-la-môn tuy ăn của tín thí, nhưng
hành pháp chướng ngại đạo, nuôi sống bằng cách tà vạy, như
kêu gọi quỷ thần, hoặc lại đuổi đi, các thứ ếm đảo, vô số
phương đạo, làm người khiếp sợ; có thể tụ, có thể tán; có thể
làm cho khổ, có thể làm cho vui; có thể an thai, trục thai; hoặc
phù chú người ta hóa làm lừa, ngựa; có thể khiến người điếc,
đui, câm, ngọng; hiện các kỹ thuật; hoặc chắp tay hướng về mặt
trời, mặt trăng; hành các khổ hạnh để cầu lợi dưỡng…..”
“…..hoặc vì người mà chú đảo bệnh tật, đọc ác thuật, tụng thiện
chú; làm thuốc thang, châm chích, trị liệu bệnh tật…... ”
“…..hoặc chú nước lửa, hoặc chú quỷ thần, hoặc chú Sát-lỵ,
hoặc chú voi, hoặc chú chân tay, hoặc bùa chú an nhà cửa; hoặc
giải chú lửa cháy, chuột gặm; hoặc đọc sách đoán việc sống
chết; hoặc đọc sách giải mộng; hoặc xem tướng tay, tướng mặt;
hoặc đọc sách thiên văn; hoặc đọc sách hết thảy âm….. Sa-môn
Cù-đàm không có các việc đó.”
King Đa Giới thuộc Trung A Hàm quyển 47: “…..hoặc có Sa
môn Phạm chí, hoặc trì một câu chú, hai câu chú, ba câu chú,
bốn câu chú, nhiều câu chú, trăm nghìn câu chú để mong cho tôi
thoát khỏi khổ đau, như thế là đi tìm sự khổ, huân tập sự khổ,
dẫn đến sự khổ mà cho là hết khổ, trường hợp này không thể
xảy ra. ”
Tuy nhiên, trong Luật tạng như Tứ Phần Luật quyển 27 và Thập
Tụng Luật quyển 46 và một số luật khác của Bộ Phái Phật giáo
có nêu việc đức Phật ngài chỉ chọn dùng một số bài chú thích
hợp khi gặp trường hợp ăn không tiêu, bị rắn độc cắn, đau răng
hoặc đau bụng v.v…. Từ đó có thể thấy được rằng, Mật chú và
cách sử dụng Mật chú đã xuất hiện rất sớm trong kinh điển
thuộc hệ Phật giáo nguyên thủy. Tuy nhiên, nguồn gốc xuất phát
của Mật chú có lẽ là từ Bà-la-môn giáo, đến thời đức Thích Tôn
thì ngài đã cật lực ngăn cấm không để xuất hiện nhiều trong
giáo lý Phật giáo, sau đó ngày càng có nhiều ngoại đạo xuất gia
đầu Phật, họ quen sử dụng những câu chú khi bệnh tật mà thôi.
Đến thời Phật giáo Bộ Phái như Pháp Tạng bộ tôn sùng ngài
Mục Kiền Liên (Mahāmoggallāna), hay nói về chuyện quỷ thần,
từ đó chú pháp dần dần thịnh hành.
b.
Thông thường mà nói, tư tưởng Phật giáo Mật tông được manh
nha là từ trong kinh A Hàm, cho rằng việc xướng tụng những
kinh văn đơn giản bằng văn Pali trong Lật Tạng và trong Kinh A
Hàm, nương vào công đức đó thì phước sẽ đến họa sẽ đi, như
thế cũng đã rõ về tín ngưỡng mật chú, với hình thức Mật giáo
này được gọi là thời kỳ Tạp Mật.
Giai đoạn trung kì (Chính thuần Mật giáo)
Phật giáo Đại thừa đã bắt đầu Mật giáo hóa, cũng có nghĩa Mật
giáo đã bước vào con đường phát triển độc lập, tồn tại như một
thể hệ tư tưởng độc lập. Đây là do vào thời kỳ Vương triều Cấpđa (Gupta) thế kỉ 4-5 TCN, xuất hiện một thể hệ một triết học
tôn giáo mới- Ấn Độ giáo. Ấn Độ giáo có gốc rễ từ Bà-la-môn
giáo, hấp thu thêm một số giáo nghĩa Phật giáo. Ấn Độ giáo có
giáo nghĩa đơn giản rõ ràng, kết hợp với những quan niệm tôn
giáo truyền thống nên dễ dàng được sự tiếp nhận rộng rãi của xã
hội. Phật giáo Đại thừa thời kỳ này có giáo nghĩa uyên thâm
phức tạp, khó tiếp cận nên dần dần bị mất sự tín ngưỡng của
quần chúng. Tình hình này khiến cho Phật giáo Đại thừa phải
mở rộng cánh cửa, hấp thu một số giáo nghĩa mà trước kia quy
kết là “ngoại đạo”. Phật giáo thời kỳ đầu không có tổ chức chặt
chẽ, tăng sĩ thường tụ tập thành đoàn đi lại vãng giữa thành thị
và nông thôn, vừa thuyết giảng phật giáo vừa khất thực để sống,
một số khác thì tu khổ hạnh, lánh xa thế tục. Nhưng theo sự
phát triển của nền kinh tế Ấn Độ, tự viện phật giáo dần dần kiến
lập cơ sở kinh tế lớn mạnh, trong tình hình này, tầng lớp tăng sĩ
thượng tầng dần dần có tư tưởng ham muốn vật chất hưởng lạc.
Phật giáo Đại thừa tiến hành chỉnh sửa giáo nghĩa, nhấn mạnh
“từ bi chúng sinh”. Như vậy, Phật giáo đã sáng tạo nên giáo
nghĩa mới giản dị dễ hiểu và dễ được mọi người đón nhận. Điều
này làm cho Bồ-tát và con người càng tiếp cận gần gũi với
nhau. Người ta có thể nhờ vào tín ngưỡng đơn thuần, hướng đến
Bồ-tát niệm kinh cầu phúc thì sẽ có được phúc. Tăng sĩ từ thân
phận là người thuyết giảng giáo nghĩa phức tạp trở thành người
trung gian kết thông giưa con người và Bồ-tát. Những điều này
là nhân tố quan trọng làm cho phật giáo Đại thừa đi theo hướng
Mật giáo hóa.
Chính thuần Mật giáo lấy Đại Nhật Kinh làm kinh điển chính,
lấy ba câu trong phẩm Trụ tâm của bộ kinh này làm nền tảng
“Bồ-đề tâm vi nhân, đại bi vi căn bản, phương tiện vi cứu cánh”
(Bồ-đề tâm là nhân, đại bi là căn bản, phương tiện là cứu cánh).
Lại giảng Thập duyên sinh, có phần tương tự với thuyết tính
c.
Không của kinh Bát-nhã, nhưng trọng tâm của “Bồ-đề tâm” đã
mang sắc thái Thường, Ngã. Lấy đại bi làm căn bản, tùy cơ
dúng phương tiện để cứu độ chúng sinh biểu hiện tư tưởng đặc
sắc của Phật giáo đại thừa. Lấy phương tiện làm cứu cánh dung
nhiếp thế tục, nên lấy Đại Nhật Như Lai tại gia tướng làm trung
tâm, Kim cương thủ làm vây cánh, còn Thích-ca Mâu-ni xuất
gia tướng và Thánh giả Nhị thừa thì xếp bên ngoài. Cách xếp
đặt này, nói về mặt lý luận, là vì Đại Nhật Như Lai là pháp thân
Phật, là bản tôn của Phật Thích-ca ứng thân, bản tôn thì phải đặt
ở trung tâm. Trong thực tế là viên dung quần thần của ngoại
giáo, và xem quần thần ngoại giáo đều là hiển hiện của của
phương tiện nhiếp hóa của bản tôn, dó đó tất cả các vị thần ác,
thần thiện của Ấn Độ được Mật giáo thu nhiếp. Từ ý niệm hàng
phục biến thành ý niệm sùng bái, điều này bắt nguồn từ tư
tưởng “Tức sự nghi chân”, “Sự sự vô ngại”. do đó bản tôn cũng
thị hiện tại gia Bồ-tát tướng. Đây có thể nói là Mật giáo Đại
thừa đã tạo sự chuẩn bị về mặt tâm lý để tả đạo hóa.
Giai đoạn vãn kỳ (Tả đạo Mật giáo)
Chính thuần Mật giáo tiếp tục phát triển rồi phân hóa thành Kim
Cương thừa và Thời luân giáo, còn gọi là Tả đạo Mật giáo của
Mật giáo vãn kỳ. Nước La-trà (Lata) ở Tây Ấn đương thời là
khu vực phát triển trung tâm của Mật giáo. Vùng này là con
đường giao thông thương nhiệp quan trọng của Ấn Độ cổ đại,
có nhiều chủng tộc, dân tộc cư trúm, cũng là nơi tập trung nhiều
loại tôn giáo. Đây là yếu tố có tác dụng thúc đẩy Mật tông phát
triển. Đầu thế kỉ thứ 8, Mật tông truyền đến các nước lấy Nam
Ấn làm trung tâm, đạt đến thời kỳ phát triển cao độ. Thời này
Mật tông đã có toàn bộ giáo nghĩa của Mật giáo đại thừa, đồng
thời hấp thu các tín ngưỡng dân gian, hình thành tổ chức mạnđà-la (mandala). Nửa cuối thế kỉ thứ 8, Mật tông truyền đến
Đông Ấn, lúc này đã phân hóa và hình thành Kim cương thừa,
có liên hệ mật thiết với Tính lực phái của Ấn Độ giáo. Sau đó,
Mật tông thể hệ hóa Kim cương thừa vốn đã thế tục hóa, đại
chúng hóa, từ đó hình thành Thời luân giáo. Đến lúc này toàn
bộ hình thái của Mật tông đã được hình thành.
Tả bộ Mật giáo là mật pháp tối cao, pháp này tu thành thì có thể
“tức thân thành Phật”. Vì vậy, hành giả Mật tông xem Vô
thượng Du-già là mật pháp tu trì khó nhất, không có vài chục
năm công phu khổ tu thì A-xà-lê (Kim cương thượng sư) không
truyền dạy. Thực sự thì Vô thượng Du-già, tưc Kim cương thừa
pháp, Tả đạo Mật giáo, là hành vi thực tế của đại phương tiện
được thế tục hóa.
II.
Giáo nghĩa Kim cương thừa chủ yếu giảng rằng: Người tu hành
phải dựa vào năm loại trí tuệ của Ngũ Phật (còn gọi là Ngũ
thiền định Phật, là năm vị Phật: Đại Nhật, A-súc, Bảo Sinh, Vô
Lượng Thọ, Bất Không Thành Tựu) mới có thể đạt đến cảnh
giới của giải thoát. Nếu không có trí tuệ của Ngũ Phật, chỉ trì
tụng chân ngôn, lập mạn-đà-la thì không thể đạt giải thoát. Nếu
như có năm loại trí tuệ này thì dù có ăn thịt, hành sự nữ sắc
cũng có thể đạt đến Bồ-đề. Năm loại trí tuệ này phải do Kim
Cương thượng sư trực tiếp truyền thụ mới có thể có được. Kim
cường thừa hấp thu một số nghi thức và quần thần của Ấn Độ
giáo, đồng thời sáng tạo ra một số thần linh tương tự , uy lực
của chú ngữ bành trướng vô hạn.
Nội dung tư tưởng của triết học phật giáo mật tông
1. Nội dung tư tưởng
Phật giáo mật tông là sự tịnh hóa ba nghiệp thân, khẩu, tâm để trở thành
thân, khẩu, tâm của một vị Phật. Khi ba sự tịnh hóa ấy thành tựu, gọi là ba
nghiệp tương ưng, tức là ba nghiệp tương ưng trọn vẹn với Phật tánh. Thân trở
thành Hóa thân, khẩu trở thành Báo thân và tâm trở thành Pháp thân của Phật.
Mật tông có 4 đặc tính:
1/ Pháp Du già tịnh hóa triệt để môi trường chung quanh.
2/ Pháp Du già tịnh hóa triệt để thân xác.
3/ Tịnh hóa triệt để mọi cảm thọ.
4/ Pháp Du già tịnh hóa triệt để mọi hành vi.
Bất cứ giáo lý nào có chứa đựng bốn sự tịnh hóa ấy đều là Mật thừa. Ðức
Ðạt lai Lạt ma thứ 13 nói: “Ðối với những ai chưa thỏa mãn các pháp thực hành
Hiển thừa, thì có 4 loại tantra: krya, charya, yoga và yoga tantra tối thượng.
Tinh túy của bốn loại này là yoga tantra tối thượng. Qua đó, sự giác ngộ viên
mãn về Phật tánh rốt ráo có thể được hoàn thành chỉ trong một đời này. Ðể hoàn
thành Phật tánh tròn đủ, người ta cần một con đường kết hợp cả hai mặt:
phương tiện (năng lực) và trí tuệ (quán chiếu). Ðiều này tạo ra trạng thái đại hòa
hợp của thân và tâm đã được tịnh hóa, đây là sự đạt đạo tối hậu. Sự tịnh hóa,
thăng hoa, tương ưng ấy được thực hiện qua nhiều phương tiện, phương pháp,
kỹ thuật:
1.
Mandala
Mật Tông xem con người và vũ trụ có cùng một cấu trúc và cùng một lý vận
hành. Mạn Đà La là một “sơ đồ” có tính biểu tượng của vũ trụ, của các thành
phần của vũ trụ, hoặc chính của bản tâm con người. Mật Tông nhìn bản thể của
vũ trụ như tập hợp các thành phần tâm thức (tức trí huệ sau khi chứng ngộ).
Trong Mạn Đà La, trí huệ được biểu tượng bằng các vị Phật. Hoạt dụng và hành
trạng của các vị Phật được biểu tượng bởi các vật dụng mà các vị Phật cầm nắm
hoặc đi kèm. Khi quán tưởng một Man Đà La, người thực hành có thể trực nhận
những nguyên lý sâu kín nhất của vũ trụ và cũng có nghĩa là những nguyên lý
sâu kín nhất trong nội tâm của mình.
Mandala, Hán dịch là luân viên cụ túc, nghĩa là vòng tròn đầy đủ. Đây là biểu
tượng của vũ trụ và năng lực trong vũ trụ được trình bày bằng các hình vẽ.
Mandala, về mặt triết lý, là cơ sở hợp nhất thế giới hiện tượng và thế giới bản
thể, là đối tượng của thiền quán. Trong ý nghĩa thực tiễn thì Mandala là đàn
tràng bằng đất để hành giả bày biện các lễ vật hay pháp khí phục vụ cho nghi
thức hành lễ, cầu nguyện, tu luyện...
Xuất phát từ tư tưởng của hai bộ kinh Đại Nhật và Kim Cương Đỉnh, Mật giáo
thiết lập hai Mandala:
1/ Thai tạng giới Mandala (Garbhadhàtu mandala) là yếu tố thụ động tâm linh,
cũng có nghĩa chỉ cho vũ trụ về mặt tĩnh, mặt lý tánh. Tác dụng lý tánh như thai
mẹ chứa đựng đứa con, từ lý tánh thai tạng mà xuất sinh mọi công đức.
2/ Kim cương giới Mandala (Vajradhatu mandala) Gồm bốn vị Phật thiền xung
quanh một Pháp tánh Phật. Ý nghĩa này ám chỉ khi các Thức của người thực
hành Thiền đã chuyển thành bốn Trí của một vị giác ngộ, thì sự phối hợp của
bốn trí sẽ tạo thành thực thể thứ năm: đó là Trí Huệ Bát Nhã tức pháp thân của
Phật (Tathagata). Mạn Đà La Kim Cang giới cũng gọi là Man Đà La Ngũ Trí
Như Lai. Bí tạng ký nói: “Thai tạng là lý, Kim cương là trí”.
2.
Mantra
Mantra (thần chú): Bình thường, câu nói nào của chúng ta cũng tạo
thành một tâm tương ứng. Như nói, tôi thương A lắm, tôi ghét B lắm.
Lập tức, câu nói ấy tạo thành một trạng thái tâm thương và tâm ghét
nơi ta. Thần chú cũng ảnh hưởng đến chúng ta theo cách ấy. Thần chú
là những âm thanh, những tần số mà vũ trụ này tạo thành bằng những
tần số rung động. Năng lượng là những rung động ở tần số rất cao. Vật
chất là những rung động ở tần số cấp thấp. Khi khoa học nói: vật chất
là năng lượng cô đặc, có nghĩa là tùy theo mức độ rung động mà có
những thế giới từ thô đến tế. Vì thần chú là những rung động, nên nó
có thể làm cho chúng ta tương ưng với những rung động vi tế, những
3.
năng lượng vi tế, những thế giới vi tế. Ngôn ngữ có tính cách thông
tin, truyền đạt, khai mở, duy trì; cho nên âm thanh được phát ra từ câu
thần chú cũng truyền đạt, khai mở, duy trì tâm giác ngộ như thế.
Mudra (Ấn)
Mật tông quan niệm thân tâm ta là một tiểu vũ trụ tương tự với đại vũ
trụ bên ngoài. Nên sự phối hợp 5 ngón tay tượng trưng cho 5 đại, để
có được một sự điều hòa đem lại một trạng thái an lạc. Vì vậy, các hóa
thần ôm ấp nhau thường thấy ở các hình ảnh của Kim Cang Thừa
cũng là một loại ấn (karma mudra). Ở đây chẳng có gì là dục tính. Sự
ôm ấp âm dương ấy là sự kết hợp của phương tiện “dương” và trí tuệ
“âm”. Sự kết hợp khách quan ấy còn phản ánh vào trong chính thân
tâm của con người: “khi quán tưởng các hình ảnh kết hợp âm
dương ấy, những năng lực âm dương, bên tả và bên hữu trong thân
thể sẽ kết hợp với nhau, tạo thành một sự bùng nổ năng lực rất
cao”. Nói chung, có rất nhiều khái niệm khác nhau khi tiếp cận chân
lý, nhưng có một điểm chung của Mật Tông là Từ Bi, Trí Tuệ,
Phương Tiện Thiện Xảo.
* Mật tông có bốn bậc khác nhau từ cao xuống thấp là:
1/ Tối Thượng Mật Tông: Hành giả hoàn thiện đầy đủ các pháp quán
tưởng chuyển hoá thân thành vị Phật Bổn Tôn được thành tựu Tam Mật tức là
Thân Mật, Ngữ Mật, Ý Mật.
2/ Thiền Quán Mật Tông: Hành giả phải biết rõ pháp tu quán tưởng
chuyển hoá thân thành Đức Phật Bổn Tôn. Biết phương pháp tạo đồ hình Mạn
Đà La, biết các Chân Ngôn…
3/ Nghi Thức Mật Tông: Hành giả phải biết rõ phương pháp tu Quán
Tưởng Đức Phật Bổn Tôn, biết rõ các Chân Ngôn, biết rõ các Thủ Ấn.
4/ Lễ Bái Mật Tông: Là hành giả phải tu hành đầy đủ các pháp lạy sám
hối, trì tụng.
2.
Một số kinh sách của phật giáo Mật Tông
a. Kinh Đại Nhật
Kinh Đại Nhật còn gọi là Kinh Đại Tỳ-Lô-Gia-Na Thành Phật Thần Biến Gia
trì Kinh (tiếng Phạn: Mahā-vairocanābhisambodhi-vikur-vi-tadhişthāna
vaipulya sūtrendra-raja-nāma-dharma-paryāya), hai chữ Đại Nhật
(Mahāvairocana) có nghĩa là ánh sáng lớn, là một trong tướng tốt của đức Phật,
có lúc lý giải thành ánh sáng vĩ đại của mặt trời.
Tư tưởng trọng tâm của kinh Đại Nhật là “tức sự nhi chơn”, trên thực tế tư
tưởng này bắt nguồn từ tư tưởng “sự sự vô ngại” của kinh Hoa nghiêm, đồng
thời tham chiếu qua tư tưởng “Phạm ngã nhất trí” của Ấn độ giáo, từ đó mới đề
ra giáo lý “tức thân thành Phật”. Bởi nguồn gốc của Kinh Đại Nhật là từ kinh
Hoa Nghiêm, lại đặc biệt xem trộng Bồ đề tâm, cho rằng thông qua việc thấy rõ
tâm mình như thật, đồng thời tự tâm mình cầu được nhất thiết trí thì sẽ đạt
được tâm bồ đề. Trong kinh tuy giảng đức Đại Nhật Như Lai thuyết
pháp nhiếp chúng sanh, mượn chân ngôn và Mandala để hiển hiện ra vô số thân
Phật. Quan niệm này đối kháng lại với tư tưởng Đại thừa, nhưng nó trở thành cơ
sở lý luận của Mật giáo. Đại Nhật Kinh gồm 7 quyển, 6 quyển đầu là Chính
kinh văn, quyển 7 là phép cúng dường. Đây là bộ vương kinh của Bí mật bộ và
là một bản kinh của Thai tạng giới Chân ngôn.
Cụ thể mà nói, trong Kinh Đại Nhật, đức Phật Thích Ca Mâu Ni trở thành đức
Đại Tỳ-lô Gía-na Phật, theo bên ngài có đức Phổ Hiền Bồ tát và hai vị Kim
Cang, và cả những vị Kim Cang thủ môn. Toàn thể vũ trụ dường như được ánh
sáng của đức Phật phổ chiếu khắp. Tất cả chúng hữu tình đều phải nương vào tự
tâm mình để đạt được ngôi vị chánh giác, nói một cách rốt ráo thì tự
tâm vốn thanh tịnh, người tu tập phải thông qua thiền định của ngài để rồi trở
thành Phật Tỳ Lô Gía Na. Ngài dùng Mạn-đa-la (Madala) để nhận rõ tâm
niệm chúng sanh, bởi Mandala cũng là tâm của Phật, là tâm Bồ đề. Phương
pháp cảm thông này bao hàm cả trì niệm Chân ngôn, tham gia các nghi
thức như quán Mandala, tay kiết ấn và thực hiện nghi thức Du già. Bước thứ
nhất là cử hành nghi thức quán đảnh cho đệ tử, việc đầu tiên là chọn lựa một
cách cẩn thận những người đệ tử thuần khiết, biết khắc kỷ, có tâm thành khẩn
và trung thành với người thầy v.v.., đồng thời người đệ tử ấy phải biết ham
thích học tập Phật pháp, biết hi sinh thân mạng để bảo vệ Phật pháp, sau đó mới
bắt đầu cữ hành nghi thức trọng yếu, và các việc rải hoa cúng dường v.v..
Song, hình thức nghi lễ này được gọi là bước đầu huấn luyện, với mục
tiêu là hấp dẫn chúng sang thấy được Mandala. Nhưng Mandala chân
thực và tối cao chỉ có xuất sanh trong tâm của người đệ tử, sau khi đã trải
qua bước đầu huấn luyện rồi thì việc quan trọng là bắt buộc mỗi hành
giả phải quán tưởng Mandala ở trong thân thể của mình, và cuối cùng Mandala
ấy chỉ có tồn tại trong tâm mình. Công phu thiền định và trì tụng mật chú là bộ
phận quan trọng trong pháp môn tu tập của Mật giáo, đặc biệt là thiền
định của Mật giáo đã trở thành một con đường, một pháp môn tu tập chính
yếu của tông phái này, chỉ có trong thiền định mới chính mắt thấy được Phật,
thông qua năng lượng của Phật mới đạt đến quả vị cứu cánh Niết-bàn
(Nirvāṇa). Tóm lại, Kinh Đại Nhật xuất hiện tương đối sớm, được kết tập trong
Tập Bộ, là một bộ.
b.
Kinh Kim Cang Đảnh
Từ nguồn gốc sâu xa của lịch sử, bộ kinh Kim Cang Đảnh là thuộc hệ phái Du
già Hành (Yogācāra), tư tưởng trọng tâm của phái này là thuyết Tâm thức,
nhưng trong đó mang đậm tư tưởng “đại lạc”. Kinh gồm 3 quyển, trình bày
tường tận những nghi qủy tu hành đặc biệt của Mật giáo. Như trên đã giới thiệu
qua, nội dung Kinh Đại Nhật chú trọng về pháp môn “hành vi”, bao hàm
cả nghi thức quán đảnh và tư thế tham thiền, cho đến cả các nghi thức bắt ấn trì
chú và quán Mandala, tất cả đều muốn cho người đệ tử thể nhập được tự
tánh đồng nhất với đức Đại Nhật Như Lai. Còn Kinh Kim Cang Đảnh là một
bộ Du già mật điển, nói lên nghi thức sinh hoạt pháp với hành vi đều thuộc
trong thiền định, nói cách khác, nó đã vượt ra ngoài sinh hoạt pháp bằng hình
thức, tuy lúc này vẫn là trong quá trình hiện quán một cách vi tế về Mandala,
nhưng hành giả đã thể nghiệm được một cấp bậc nào đó của nội tại.
Du già (Yogā) dịch ý là tương ưng hoặc hài hòa, vốn xuất phát từ trong Lê câu
Vệ đà (ṛgveda), sau đó dùng trong Áo nghĩa thư (upaniṣad), từ ngữ hàm ý các
pháp quán hành điều tức, quán phạm ngã hợp nhất, đại ngã và tiểu ngã đồng
nhất thể, đến khi Phật giáo ra đời Phật giáo thì vay mượn từ ấy để dùng trong
thiền định quán hạnh chỉ quán, tương hợp chánh lý, nên gọi là Du già.. Mật giáo
đánh giá rất cao về pháp Du già, do vậy, theo thứ lớp tu hành của Mật giáo thì
nội dung Kinh Kim Cang cao sâu hơn và toàn diện hơn Kinh Đại Nhật.
Hai hệ thống Mật giáo theo hai kinh trên được gọi chung là “Thuần mật”, phái
thuần mật thông qua tổ chức của Mandala, thống nhất được tín ngưỡng của Ấn
độ vào trong bộ vị trung tâm của Phật giáo. Trong hai hệ thống trên, Chân ngôn
thừa chú trộng về phương diện lý luận và thiếu mảng thực tiển, cho nên không
thể chấn hưng được.
III.
Đặc điểm và ý nghĩa của triết học phật giáo mật tông
Triết lý của Mật tông là triết lý của Bát nhã Ba la mật
(Prajnãpàramità) và giáo lý Hoa Nghiêm cộng với Duy thức học. Sự
phối hợp giáo lý siêu nghiệm với hình thức ấn, chú, mandala... là một
sự kết hợp đặc biệt. Vũ trụ, thế giới, con người, vạn vật... đều mang
một giá trị thiêng liêng đối với một hành giả Mật tông. Nhìn từ quan
điểm xã hội học tôn giáo, sự xuất hiện của mật tông có thể nói đã biểu
hiện đầy đủ tín ngưỡng tôn giáo của dân tộc Ấn Độ. Hình thái của
phật giáo thời kì đầu , tuy duy tính hóa, triết học hóa, luân lý hóa
nhưng vẫn không thoát ra khỏi quan niệm tín ngưỡng của dân tộc.
Mật giáo là giai đoạn phát triển thứ 3 của tư tưởng Phật giáo Ðại
thừa ở Ấn Ðộ. Ðứng về phương diện tư tưởng, Mật giáo là một phản
ứng đối với khuynh hướng quá thiên trọng về trí thức và nghiên cứu
của các hệ thống Bát nhã và Duy thức. Theo Mật giáo, trong vũ trụ có
ẩn tàng những thế lực siêu nhiên; nếu ta biết sử dụng những thế lực
siêu nhiên kia thì ta có thể đi rất mau trên con đường giác ngộ, thành
đạo.
Mật tông tuy biến mất ở Ấn Độ, nhưng được truyền bá ra bên
ngoài, bắt đầu từ Tây Tạng, rồi từ Trung Quốc truyền sang Nhật Bản,
bán đảo Triều Tiên, trở thành 1 tôn giáo phát triển mạnh. Đặc biệt là
mật giáo sau khi truyền vào Tây Tạng hình thành đọc nhất 1 phái Tạng
Mật, kiến lập chế độ chính giáo hợp nhất ở Tây Tạng, dây là điều chưa
từng xảy ra với các tông phái khác của phật giáo. Nghiên cứu về lịch
sử và tư tưởng của Mật tông là điều rất quan trọng , đặc biệt đối với
việc nghiên cứu lịch sử tôn giáo và xã hội học tôn giáo. Nếu không
hiểu sự phát triển và truyền bá của mật tông thì khó có thể hiểu biết
sâu sắc về Ấn Độ trong thời kỳ từ TK 7 đến TK 12 TCN.
• Mật tông trong lịch sử phật giáo Việt Nam
Mật Tông cũng đã được đưa vào Việt Nam từ rất lâu. Theo sử liệu, pháp sư
Tinidaruci (Tì Ni Đa Lưu Chi) từ Ấn Độ sang Việt Nam năm 580. Sư trù trì
chùa Pháp Vân, Hà Đông truyền dạy cả Thiền lẫn Mật.
Các thiền sư thuộc Thiền phái Tì Ni Đa Lưu Chi không chỉ uyên thâm về Phật
pháp, mà nhiều vị còn rất có uy tín với triều đình và biểu thị rõ ý thức độc lập tự
chủ của đất nước. Các thiền sư Pháp Thuận, Ma Ha (thế kỉ thứ 10), Sùng Phạm
(thế kỉ 12), … đều làm cố vấn cho nhà vua không chỉ việc đạo mà cả việc đời,
việc ngoại giao. Dòng Tì Ni Đa Lưu Chi còn kéo dài mãi đến thế kỉ 19. Đặc
biệt, các thiền sư dòng Tì Ni Đa Lưu Chi thường có hình thức tu tập “Tổng Trì
Tam Muội” (Dharani samadhi), một hình thức tu tập phổ biến của Mật giáo
(Tantrism), dùng chân ngôn kết hợp với ấn quyết trong trạng thái đại định để giữ
tương ưng thân, khẩu, ý.
Năm 1963 tại Hoa Lư, Ninh Bình, đã phát hiện một cột kinh Phật bằng đá vào
thế kỉ thứ 10. Cột kinh này do Đinh Liễn, con của Đinh Tiên Hoàng, dựng năm
973. Trên cột có khắc bài thần chú Phật Đỉnh Tối Thắng Đà La Ni
(Usnisavijaya dharani), một thần chú phổ biến của Mật tông. Năm 1964, phát
hiện được cột kinh thứ hai. Năm 1978, lại phát hiện thêm 14 cột kinh tương tự ở
Hoa Lư.
Tại Việt Nam, có nhiều tác giả dịch thuật những bài kinh thuộc tạng kinh mật
giáo như Thích Thiền Tâm, Thích Viên Đức, Thiền sư Nhẫn Tế, Kim Cương
Thựơng Sư Thích Viên Thành dòng Drukpa - Bhutan viện chủ Chùa Hương Hà Nội v.v., Ngoài ra còn có những vị tu theo mật pháp như Tịnh Danh Pháp
Chủ, Nhật Quang, Phương Nghi Huyền Thạch công, Kim Cương Sư Thích
Minh Đức.
Trong núi Cấm (An Giang) có dòng Mật Tông thuần Việt được truyền dạy từ rất
lâu, hơn 4500 năm về trước qua rất nhiều đời. Hiện tại chúng ta chỉ biết được 2
vị Tổ gần nhất là: Tổ Tịnh Vân, sư phụ của Tổ Huyền Chi, là người truyền Pháp
Du Già hoặc Du Già Bồ Tát Đạo, là Pháp Mật vô thượng thừa. Tổ Huyền Chi
truyền thừa lại giáo Pháp cho các đệ tử họ Hoàng, sau Hoàng là đến Thanh, sau
Thanh thì đến Trí...cứ thế mà nối tiếp nhau mãi. Các đệ tử Hoàng Pháp Họ vẫn
tiếp tục đem những chân pháp của Nhị Tổ Huyền Chi nhập vào đời để độ chúng
sanh.
Tông chỉ của Mật Tông Việt Nam ( Du Già Bồ Tát Đạo ) :
LỤC PHÁP TU BỒ TÁT ĐẠO :
1. Nội nhiệt : tu thân, luyện thân, luyện thể, luyện hình, giữ thân nhiệt tạo nên
con người khỏe mạnh, vui tươi sống trong xã hội.
2. Huyễn pháp : pháp huyễn của bồ tát là không chấp nhặt vào hoàn cảnh khó
của đời, luôn lạc quan trong giấc ngủ thấy mình & người điều là anh hùng, tài
giỏi trong tâm tư muốn mình vượt trên sóng gió, là người ở cõi đạo tràng sáng
suốt trang nghiêm.
3. Quá khứ đã qua : không luyến nhớ, không bận tâm, không vướng mắc vào tội
lỗi, xám hối cái tội không làm, không biết, không quay về với dĩ vãng tiêu cực
và thụ động, nghiệp tội quá khứ tịnh.
4. Hiện tại quang minh : sống hiện tại đầy đủ, thân tâm rõ ràng,nâng cao sức
học luyện tài, luyện trí, đời sống gia đình tốt đẹp là người công dân hàng đầu
của xã hội.
5. Tương lai vững bền : Không ảo tưởng tương lai quá xa vượt khỏi tầm tay,
không thực tế, nhìn tương lại gần, chắc bền, thuận lợi.
6. Ta là bồ tát : nhập thế ta là bồ tát, việc tốt lành.Vào đạo ta là bồ tát quang
minh lỗi lạc học đạo Du Già tùy thuận tương ưng.Hiểu pháp đầu đà không
tham, không cống cao ngã mạn.
IV. Tài liệu tham khảo
1.
Lịch sử triết học phương Đông, PGS.TS. Doãn Chính, NXB chính trị
quốc gia.
2. Mật Tông Phật Giáo, Nguyễn Tuệ Chân (biên dịch), NXB tôn giáo.
3. Tư tưởng Phật giáo Ấn Độ, Hạnh Viên (biên dịch), NXB phương Đông.
4. Mật Tông Tây Tạng, Cổ Đồ Thư (biên dịch), NXB tôn giáo.
5. />6. />
Dong/Ve-qua-trinh-phat-trien-va-phan-phai-cua-Phat-giao-An-Do54.html