Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Tiểu luận KTCT: "Phân tích luận điểm: Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn"

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (237.93 KB, 18 trang )

MỞ ĐẦU
Qua hơn 30 năm đổi mới là một giai đoạn lịch sử phát triển quan trọng của
đất nước ta. Bằng những nỗ lực đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa; thực
hiện sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang kinh tế
trị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế,
chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Sự lựa chọn kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta xuất
phát từ nhận thức đúng đắn của Đảng ta: kinh tế thị trường là sản phẩm của văn
minh nhân loại, có thể tồn tại và thích ứng với nhiều hình thái xã hội khác nhau;
kinh tế thị trường phát triển với trình độ cao dưới chủ nghĩa tư bản song không
đồng nhất với chủ nghĩa tư bản và cũng không đối lập với chủ nghĩa xã hội. Dù
khơng phải là một cơ chế hồn hảo, song kinh tế thị trường vẫn chứng tỏ là một
cơ chế huy động, phân bổ nguồn lực, thúc đẩy sáng tạo và phát triển, được coi
là ưu thế nhất hiện nay. Một quốc gia dựa trên nền tảng thị trường để phát triển
kinh tế có thể chưa chắc thành cơng, song một quốc gia khơng có nền kinh tế thị
trường chắc chắn sẽ không thể phát triển trong dài hạn. Tự thân kinh tế thị
trường không đưa đến chủ nghĩa xã hội, nhưng muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội
thành cơng dứt khốt phải phát triển kinh tế thị trường.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc nghiên cứu về kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa, em tập trung nghiên cứu Tiểu luận "Phân tích
luận điểm: Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh
tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn" làm
Đề tài tiểu luận mơn Những vấn đề kinh tế chính trị của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.


NỘI DUNG
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN
1. Quan niệm về thị trường, kinh tế thị trường, cơ chế thị trường
1.1. Thị trường
Thị trường xuất hiện đồng thời với sự ra đời và phát triển của sản xuất


hàng hóa và được hình thành trong lĩnh vực lưu thơng. Người có hàng hóa dịch
vụ đem ra trao đổi gọi là người bán, người có nhu cầu và có khả năng thanh
tốn gọi là người mua. Trong quá trình trao đổi, giữa người mua và người bán
hình thành những mối quan hệ, vì vậy thị trường xét theo nghĩa hẹp là nơi người
mua và người bán gặp nhau, hình thành giá cả. Đứng trên phạm vi toàn xã hội,
thị trường là một mạng lưới những người mua, người bán, gặp nhau nơi cung cầu gặp gỡ và cân bằng, hoặc nói cách khác,thị trường xét theo nghĩa rộng là
tổng hòa các quan hệ mua - bán, cung - cầu trên bình diện xã hội.
Như vậy, để hình thành thị trường địi hỏi phải có các yếu tố cơ bản sau:
đối tượng trao đổi là hàng hóa dịch vụ; đối tượng tham gia trao đổi là người
mua, người bán; điều kiện thực hiện trao đổi là khả năng thanh toán, địa điểm
trao đổi; các thể chế hoặc tập tục (luật chơi) để bảo đảm hoạt động mua bán an
tồn, nhanh chóng.
Nhận thức đúng đắn bản chất và cấu trúc của thị trường với tư cách đối
tượng của quản lý có ý nghĩa quan trọng cả lý luận lẫn thực tiễn.
Trong lịch sử nhân loại, thị trường đã phát triển qua những nấc thang khác
nhau:
+ Thị trường cổ điển: có đầy đủ các yếu tố tham gia là hàng hóa, dịch vụ,
người mua, người bán, gắn với tính chất hoặc địa điểm nào đó.
+ Thị trường phát triển: người mua, người bán có thể cam kết, thực hiện
mua bán mà không trực tiếp phải trao đổi hàng hóa. Đây là thị trường văn minh,
khi người mua, người bán đã đạt tới độ tín nhiệm, quy mơ mua bán lớn.
+ Thị trường hiện đại: có người mua, người bán hàng hóa, dịch vụ (hữu
hình, vơ hình), người môi giới và các phương tiện kỹ thuật hiện đại. Vì đối
tượng mua bán khá phức tạp nên rất cần người môi giới, tư vấn, nhất là môi
giới, tư vấn tài chính.
Cùng với sự phát triển của khoa học - công nghệ, nhất là công nghệ thông
tin, ngày nay, người ta mua bán một cách thuận lợi, mặc dù ở cách xa nhau về
2



mặt địa lý vẫn có thể giao dịch, mua bán một cách mau lẹ thông qua các phương
tiện thông tin hiện đại.
Thị trường có vai trị quan trọng đối với việc phát triển kinh tế - xã hội.
Nhờ thị trường mà hình thành giá cả như thước đo chung, là căn cứ khách quan
để điều chỉnh hành vi của người tiêu dùng và nhà sản xuất. Sở dĩ thị trường có
vai trị to lớn vì nó có những chức năng cơ bản như: chức năng thừa nhận, chức
năng thực hiện, chức năng điều tiết. Ngồi ra, thị trường cịn kiểm tra, đánh giá
trình độ, năng lực tổ chức quản lý của các nhà kinh doanh và cung cấp thông tin
cần thiết cho các nhà quản lý.
1.2. Kinh tế thị trường
Kinh tế thị trường thể hiện trình độ cao của nền kinh tế sản xuất hàng hóa,
tức là nền sản xuất, trong đó, người sản xuất và cung ứng khơng chỉ nhằm đáp
ứng nhu cầu của bản thân mình, mà chủ yếu là đáp ứng nhu cầu của xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường, quan hệ hàng hóa - tiền tệ trở nên phổ biến và bao
quát hầu hết các lĩnh vực hoạt động kinh tế.
Về mặt lịch sử, kinh tế thị trường là mơ hình kinh tế trình độ cao của cách
thức tổ chức nền sản xuất xã hội. Trong quá trình phát triển, nhân loại đã trải
qua các mơ hình kinh tế khác nhau như sau:
+ Kinh tế tự nhiên (kinh tế hái lượm): con người lệ thuộc hoàn toàn vào
thiên nhiên với cuộc sống hoang dã.
+ Kinh tế tự cung tự cấp: sản xuất tự thỏa mãn trong các hộ gia đình, chưa
có phân cơng lao động, chun mơn hóa, tự sản, tự tiêu, năng suất, chất lượng
hiệu quả thấp. Cơ cấu kinh tế điển hình là nơng nghiệp, tiểu thủ cơng nghiệp.
Về trình độ, phát triển cao hơn kinh tế tự nhiên nhưng vẫn chưa có quan hệ
hàng hóa - tiền tệ, hoặc chỉ có ở mức độ sơ khai.
+ Kinh tế hàng hóa: sản phẩm được sản xuất ra không phải để đáp ứng
nhu cầu của người sản xuất mà là sản xuất để bán. Tính chất hàng hóa của sản
phẩm được thể hiện rõ nét và ngày càng đầy đủ. Cơ cấu ngành cơ bản của nền
kinh tế là công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ. Trình độ phát triển của cơng,
nơng nghiệp đã có tiến bộ vượt bậc so với nền kinh tế tự cung, tự cấp. Mặt

khác, sự xuất hiện của kinh tế hàng hóa đã làm cho các phạm trù liên quan đến
thị trường xuất hiện và ngày càng mở rộng cả quy mô chiều rộng lẫn chiều sâu.
+ Kinh tế thị trường: là nấc thang phát triển cao của kinh tế hàng hóa,
trong đó sản xuất chủ yếu để trao đổi, gắn liền với phân công lao động và trình

3


độ chun mơn hóa. Khơng gian thị trường đã được rộng mở cho sự lựa chọn,
tư duy giá trị, hiệu quả trở nên phổ biến. Trong các mơ hình kinh tế, kinh tế thị
trường là mơ hình tiên tiến, văn minh, nền kinh tế có động lực, có sự đua tranh,
sản xuất gắn với nhu cầu. Trong nền kinh tế thị trường, cơ cấu các ngành, cơ
cấu khu vực sản xuất, cơ cấu tiêu dùng về cơ bản đã được thay đổi vị trí, ngơi
thứ. Nếu giai đoạn cuối của kinh tế hàng hóa phát triển, cơ cấu ngành cơ bản
phổ biến là công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ thì trong mơ hình kinh tế thị
trường, cơ cấu phổ biến là công nghiệp - dịch vụ - nông nghiệp.
+ Kinh tế thị trường hiện đại: ngày nay, nền kinh tế thị trường đã phát
triển đến giai đoạn cao, trong đó vừa có các quan hệ thị trường, vừa phải có sự
điều tiết của nhà nước và tổ chức nền sản xuất xã hội ở trình độ cao. Trong nền
kinh tế thị trường hiện đại, vị trí, ngơi thứ của cơ cấu ngành cơ bản cũng thay
đổi. Cơ cấu điển hình của các nền kinh tế thị trường hiện đại là: dịch vụ - công
nghiệp - nông nghiệp. Những thay đổi và phát triển ấy đòi hỏi sự thay đổi tương
ứng của hoạt động quản lý nền kinh tế quốc dân.
Từ đây, ta có thể nêu lên khái niệm về kinh tế thị trường một cách khái
quát nhất như sau: kinh tế thị trường là một mơ hình kinh tế vận động, phát
triển dựa trên cơ sở các quy luật của thị trường, trong đó quan hệ hàng hóa tiền tệ trở thành phổ biến và bao quát hầu hết các lĩnh vực hoạt động kinh tế.
Mơ hình kinh tế thị trường có bản chất thống nhất nhưng áp dụng trên
thực tế có nhiều hình thức khác nhau. Trong nhiều trường hợp có sự khác biệt
lớn, chủ yếu ở mức độ tham gia quản lý, tác động của nhà nước vào nền kinh tế
và mức độ áp dụng các quy luật thị trường vào các phân hệ của hệ thống kinh tế

- xã hội. Do vậy, để nhận thức vấn đề này, cần chú ý đến bốn tiêu chí sau:
Thứ nhất, mức độ đầy đủ và đồng bộ của kinh tế thị trường. Một nền kinh
tế thị trường đầy đủ, đồng bộ được đặc trưng bởi sự hình thành và phát triển
đồng bộ các thị trường bộ phận. Đó là thị trường hàng hóa, thị trường vốn, thị
trường tiền tệ, thị trường ngoại hối, thị trường lao động, thị trường yếu tố tài
nguyên… Các thị trường bộ phận này phải được hình thành và hoạt động theo
quy luật thị trường gắn với hệ thống luật lệ, thể chế, quy phạm tạo nên xương
sống của nền kinh tế. Các quốc gia mới áp dụng kinh tế thị trường, đặc biệt là
các nước chuyển đổi từ mơ hình kế hoạch hóa tập trung đều phải trải qua một
giai đoạn khá dài thiết lập những yếu tố cấu thành của các thị trường. Mức độ
đầy đủ dùng để đánh giá tính hồn thiện, tính đồng bộ của mơ hình kinh tế thị
trường đang xây dựng.

4


Thứ hai, mức độ phổ quát của kinh tế thị trường. Đây là tiêu chí dùng để
đánh giá phạm vi, mức độ áp dụng các quy luật thị trường trong hệ thống kinh
tế - xã hội. Về nguyên tắc, các quy luật thị trường chỉ phố biến ở phân hệ kinh
tế trong hệ thống kinh tế - xã hội. Còn trong các phân hệ khác như chính trị,
hành chính, văn hóa - xã hội… đều có các quy luật đặc thù riêng tác động. Việc
để cho các quy luật thị trường tác động rộng đến mức trở thành phổ biến ở cả
các phân hệ khác ngoài kinh tế tất yếu sẽ dẫn đến làm méo mó các quan hệ thị
trường, triệt tiêu động lực phát triển kinh tế.
Thứ ba, mức độ can thiệp của nhà nước vào kinh tế thị trường. Kinh tế thị
trường theo mơ hình kinh tế hỗn hợp ln có sự quản lý, điều tiết của nhà nước,
do đó tất yếu có sự can thiệp của nhà nước bằng các phương pháp, phương tiện
khác nhau. Về nguyên tắc, do có những khuyết tật của kinh tế thị trường, nên sự
can thiệp nhà nước là cần thiết và xu hướng chung hiện nay trên thế giới là vai
trò quản lý của nhà nước trong nền kinh tế thị trường ngày càng tăng. Sự can

thiệp của nhà nước thường được phân thành hai nhóm: can thiệp vi mơ (can
thiệp vào từng thị trường riêng biệt hoặc đối với từng doanh nghiệp cụ thể, đặc
biệt là doanh nghiệp nhà nước) và can thiệp vĩ mô (thông qua việc hoạch định
các mục tiêu và thi hành các chính sách kinh tế vĩ mơ). Tuy nhiên, mức độ và
hình thức can thiệp của các quốc gia rất khác nhau, tùy thuộc vào hoàn cảnh cụ
thể, vào chiến lược quản lý và năng lực bộ máy quản lý nhà nước.
Thứ tư, mức độ mở cửa với thị trường thế giới. Đây là tiêu chí để đo
lường, đánh giá mức độ hội nhập với thị trường thế giới của một nền kinh tế.
Mức độ mở cửa thể hiện ở các thông số như tỷ suất thương mại quốc tế, cán cân
lưu chuyển vốn quốc tế và mức độ hợp tác khoa học kỹ thuật…
1.3. Cơ chế thị trường
Cơ chế thị trường là cơ chế vận hành khách quan của nền kinh tế, ở đó các
quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường phát huy tác dụng. Ban đầu, cơ
chế thị trường được A.Smith khái quát và mô tả trong học thuyết của ông. Ông
cho rằng, nếu bảo đảm quyền tự do kinh doanh, tự do tiêu dùng, nhà nước
không can thiệp vào kinh tế mà chỉ cần bảo đảm dịch vụ an ninh xã hội thì sẽ có
một cơ chế tự nhiên (giống như một bàn tay vơ hình) điều tiết cung - cầu, điều
tiết sản xuất - tiêu dùng và cuối cùng giúp cho việc phân phối các tài nguyên
khan hiếm của xã họi một cách hiệu quả nhất. Đó chính là cơ chế thị trường
thuần túy hoặc nhiều người gọi là thị trường tự do cạnh tranh, không cần sự can
thiệp của nhà nước.

5


Ngày nay, cơ chế thị trường tự do thuần túy hầu như khơng cịn tồn tại, lý
thuyết và thực tiễn quản lý kinh tế hiện đại cho phép mọi quốc gia đều có thể áp
dụng cơ chế thị trường theo mơ hình hỗn hợp, tức là kết hợp cơ chế bàn tay vơ
hình với bàn tay điều tiết của nhà nước.
Như vậy, cơ chế thị trường hiện nay bao gồm ba thành tố:

Một là, thị trường hoạt động theo quy luật vốn có của nó, ai nhận thức
được, làm đúng sẽ có lợi, ngược lại khơng nhận thức được, khơng tôn trọng quy
luật sẽ bị thua thiệt hoặc bị trừng phạt. Bằng cách này, các yếu tố sản xuất, tài
nguyên và kết quả sản xuất sẽ được phân phối theo quy luật thị trường.
Hai là, nhà nước điều tiết thị trường nhằm hạn chế những khuyết tật của
thị trường, cân bằng những vấn đề kinh tế, xã hội - môi trường. Cơ chế thị
trường hiện đại thể hiện rõ trong mơ hình kinh tế hỗn hợp. Đó là cơ chế thị
trường có sự điều tiết của nhà nước.
Ba là, người tiêu dùng, nhà doanh nghiệp - những tác nhân năng động của
cơ chế thị trường - được hoạt động tự chủ nhưng phải tuân thủ quy luật của thị
trường và chịu sự điều tiết của nhà nước.
Cơ chế thị trường hoạt động theo các quy luật khách quan:
+ Quy luật giá trị: việc sản xuất hàng hóa phải trên cơ sở hao phí lao
động xã hội cần thiết và trao đổi phải bình đẳng, ngang giá. Mọi hoạt động sản
xuất kinh doanh phải tuân thủ quy luật này mới có thể tồn tại và phát triển.
+ Quy luật cung, cầu: biểu hiện quan hệ giữa cung và cầu thông qua giá
cả. Quy luật này tác động trực tiếp đến giá cả và phương hướng sản xuất tiêu
dùng của xã hội.
+ Quy luật cạnh tranh: yêu cầu hàng hóa sản xuất ra phải có chất lượng
tốt hơn, chi phí thấp hơn, thái độ phục vụ văn minh hơn để nâng cao khả năng
cạnh tranh so với các hàng hóa khác cùng loại.
2. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tính hiện đại và
hội nhập của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
2.1. Khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một mơ hình
hồn tồn mới, chưa có tiền lệ trong lịch sử và thời gian phát triển. Do vậy, phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một q trình hồn thiện,
đổi mới và sáng tạo không ngừng trong nhận thức, tư duy lý luận và thực tiễn.
6



Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII đã kế thừa, làm rõ và thể hiện bước phát
triển mới trên nhiều luận điểm quan trọng. Nhận thức về nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ngày càng đầy đủ hơn; kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, có nhiều đặc điểm của nền kinh
tế thị trường hiện đại và hội nhập.
Đại hội XII của Đảng xác định: "Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật
của kinh tế thị trường, đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp
với từng giai đoạn phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại
và hội nhập quốc tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh,
dân chủ, công bằng, văn minh""1
Những nhận thức có giá trị định hướng mà Đại hội XII của Đảng đề ra đã
tạo được sự thống nhất cao hơn trong toàn Đảng, toàn dân và là căn cứ để tiếp
tục cụ thể hóa, thể chế hóa phù hợp với từng giai đoạn phát triển của đất nước.
2.2. Tính hiện đại và hội nhập quốc tế của nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của nước ta là nền
kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc tế. Đây là luận điểm lần đầu tiên
Đảng ta khẳng định trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng nhưng rất cần thiết và
phù hợp với thực tiễn phát triển của đất nước hiện nay, phản ánh tiến trình hội
nhập quốc tế sâu, rộng trên nhiều cấp độ; đưa nền kinh tế Việt Nam trở thành
một bộ phận hữu cơ của nền kinh tế thị trường thế giới. Nhấn mạnh tính hiện
đại và hội nhập của nền kinh tế là sự khẳng định việc tuân thủ các chuẩn mực
chung của thế giới để phát triển, thực hiện tự do hóa trong các lĩnh vực thương
mại, đầu tư, tài chính, dịch vụ, lao động kỹ năng… và quan trọng hơn, là phải
tuân thủ các cam kết quốc tế đã ký, nỗ lực cải cách thể chế kinh tế bên trong,
đáp ứng các tiêu chí để được cơng nhận là nền kinh tế thị trường đầy đủ. Thuộc
tính này của nền kinh tế đặt ra cho chúng ta yêu cầu phải tiếp tục hoàn thiện thể

chế kinh tế thị trường; đổi mới mơ hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế
nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả; phát triển nhanh và bền vững;
tham gia vào chuỗi giá trị và mạng sản xuất toàn cầu; phát triển kinh tế tri thức,
chú trọng đổi mới sáng tạo trên nền tảng khoa học - công nghệ hiện đại; thiết
lập các thị trường yếu tố sản xuất, hàng hóa và dịch vụ hiệu quả; phát triển hệ

1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Sđd, tr.102.

7


thống an sinh và phúc lợi xã hội tiên tiến; thúc đẩy và hoàn thiện những chuẩn
mực văn minh trong sản xuất và tiêu dùng…
Tính hiện đại và hội nhập quốc tế của nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta thể hiện ở chỗ:
- Kế thừa có chọn lọc những thành tựu phát triển kinh tế thị trường của
nhân loại, kinh nghiệm tổng kết từ thực tiễn hơn 30 năm đổi mới; có hệ thống
pháp luật, cơ chế, chính sách và các yếu tố thị trường, các loại thị trường đầy
đủ, đồng bộ, vận hành thông suốt, gắn kết chặt chẽ với các nền kinh tế trên thế
giới; vai trò, chức năng của Nhà nước và thị trường được xác định và thực hiện
phù hợp với thông lệ, nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế phổ biến. Định hướng xã
hội chủ nghĩa của nền kinh tế được nhất quán xác lập và tăng cường thông qua
sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý của Nhà nước, lấy con người làm trung tâm,
vì mọi người và do con người; phát huy đầy đủ vai trò làm chủ của nhân dân,
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách
phát triển.
- Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam có quan hệ
sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có nhiều

hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế nhà nước giữa vai
trò chủ đạo, kinh tế tư nhân là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Doanh
nghiệp nhà nước giữ vị trí then chốt và là một lực lượng vật chất quan trọng của
kinh tế nhà nước. Kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể cùng với kinh tế tư nhân là
nòng cốt để phát triển một nền kinh tế độc lập, tự chủ. Các chủ thể thuộc các
thành phần kinh tế bình đẳng, hợp tác, cạnh tranh cùng phát triển theo pháp luật.
Khuyến khích làm giàu hợp pháp. Thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao
động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực
khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.
- Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước
đóng vai trị định hướng, xây dựng và hồn thiện thể chế kinh tế; tạo mơi trường
cạnh tranh bình đẳng, minh bạch và lành mạnh; sử dụng các cơng cụ, chính sách
và các nguồn lực của Nhà nước để định hướng và điều tiết nền kinh tế, thúc đẩy
sản xuất kinh doanh và bảo vệ tài nguyên, mơi trường; phát triển các lĩnh vực
văn hóa, xã hội. Thị trường đóng vai trị chủ yếu trong huy động và phân bổ có
hiệu quả các nguồn lực, là động lực chủ yếu để giải phóng sức sản xuất; các
nguồn lực nhà nước được phân bổ theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phù
hợp với cơ chế thị trường.

8


II. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
1. Ý nghĩa lý luận
Trong quá trình đổi mới, Đảng ta nhận thức ngày càng rõ, sát thực tế hơn
tính tất yếu, mục tiêu, bản chất, đặc trưng, cấu trúc, thể chế và cơ chế vận hành
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Khi bắt đầu đổi mới,
Đảng ta quan niệm kinh tế hàng hóa có những mặt tích cực cần vận dụng. Trong
q trình đổi mới, từ thực tiễn, Đảng ta nhận thức rõ hơn, kinh tế hàng hóa, kinh
tế thị trường là phương thức, điều kiện tất yếu để xây dựng chủ nghĩa xã hội; từ

chỗ áp dụng cơ chế thị trường tiến đến phát triển kinh tế thị trường, đưa ra quan
niệm và từng bước cụ thể hóa mơ hình và thể chế kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa.
Tổng kết thực tiễn đổi mới kinh tế, từ Đại hội IX Đảng ta khẳng định: kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mơ hình kinh tế tổng qt của thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Đến Đại hội XI, Đảng ta khẳng định:
Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là nền kinh tế
hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của
Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Đến Đại hội XII, Đảng ta
khẳng định: Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
nền kinh tế vận hành đầy đủ, đồng bộ theo các quy luật của kinh tế thị trường,
đồng thời bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa phù hợp với từng giai đoạn
phát triển của đất nước. Đó là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc
tế; có sự quản lý của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, do Đảng Cộng sản
Việt Nam lãnh đạo, nhằm mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh". Đây là một bước tiến trong tư duy lý luận của Đảng.
Giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình phát triển, Đảng ta
nhận thức ngày càng rõ hơn nội dung và các yếu tố bảo đảm định hướng xã hội
chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường, trước hết là thực hiện mục tiêu "dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, cơng bằng, văn minh"; giải phóng mạnh mẽ và
không ngừng phát triển sức sản xuất, từng bước hoàn thiện quan hệ sản xuất
tiến bộ phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, nâng cao đời
sống nhân dân; đẩy mạnh xóa đói, giảm nghèo, khuyến khích mọi người vươn
lên làm giàu chính đáng, giúp đỡ người khác thoát nghèo và từng bước khá giả
hơn; bảo đảm tăng trưởng kinh tế gắn với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội
ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển; phát huy quyền làm chủ xã
hội của nhân dân, bảo đảm vai trò quản lý kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo của Đảng. Xác định phương châm cơ bản: Thúc

9



đẩy kinh tế thị trường phát triển, chủ động hướng q trình đó vào việc tạo lập
những tiền đề, điều kiện cần thiết về kinh tế - xã hội để xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam.
Trong quá trình đổi mới, Đảng ta đã từng bước nhận thức rõ hơn về chế độ
sở hữu và các thành phần kinh tế. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta có nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức
tổ chức kinh doanh, trong đó, hình thức cơng ty cổ phần có sở hữu hỗn hợp
ngày càng phát triển. Khẳng định kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo; kinh tế
tập thể không ngừng được củng cố và phát triển; kinh tế nhà nước cùng với kinh
tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng vững chắc của nền kinh tế quốc dân;
kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế; kinh tế có vốn đầu
tư nước ngồi được khuyến khích phát triển. Các thành phần kinh tế hoạt động
theo pháp luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng
trước pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh.
Về quan hệ phân phối, Đảng ta chủ trương áp dụng nhiều hình thức, trong
đó phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu; đồng thời
theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ
thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội; tiền lương, tiền công phải được coi là giá
cả sức lao động, được hình thành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước; từ chỗ coi Nhà nước là chủ thể quyết định phân phối chuyển dần sang xác
định thị trường quyết định phân phối lần đầu và Nhà nước thực hiện phân phối
lại. Quan hệ phân phối cơ bản phù hợp, tương đối công bằng và tạo động lực
cho phát triển.
Các yếu tố thị trường và các loại thị trường được xây dựng ngày càng
đồng bộ hơn, bảo đảm quan hệ cung - cầu, cạnh tranh lành mạnh; sử dụng linh
hoạt và có hiệu quả các cơng cụ chính sách vĩ mơ theo các ngun tắc của thị
trường. Hình thành và khơng ngừng phát triển, hồn thiện các loại thị trường:
thị trường hàng hóa, dịch vụ; thị trường lao động; thị trường bất động sản; thị

trường tài chính, tiền tệ; thị trường khoa học - cơng nghệ…
Đã có sự đổi mới cơ bản trong nhận thức về vai trò, chức năng của Nhà
nước trong nền kinh tế thị trường. Nhà nước quản lý, điều tiết nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa thông qua pháp luật, chiến lược, quy hoạch,
kế hoạch, chính sách, các cơng cụ kinh tế và lực lượng vật chất cần thiết và phù
hợp với nguyên tắc của kinh tế thị trường; xây dựng, hồn thiện thể chế, tạo
dựng mơi trường kinh tế vĩ mô, môi trường kinh doanh, hạn chế những tác động
tiêu cực của kinh tế thị trường. Nhà nước đóng vai trò là một chủ thể kinh tế

10


trên thị trường thông qua việc đầu tư vốn và quản lý tài sản công; tách quyền
của chủ sở hữu và quyền quản lý, sử dụng; có sự phân cấp ngày càng nhiều hơn
để phát huy tính chủ động, sáng tạo của địa phương và cơ sở; xóa bỏ các hình
thức bao cấp; hạn chế, kiểm sốt và xóa bỏ độc quyền kinh doanh.
Vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế, tham gia quản lý
kinh tế cũng được nhận thức ngày càng rõ hơn. Mở rộng dân chủ, hồn thiện cơ
chế để nhân dân đóng góp ý kiến, phản biện xã hội và giám sát hoạt động của
Đảng và Nhà nước. Quy định chế độ cung cấp thơng tin và trách nhiệm giải
trình của cơ quan nhà nước trước nhân dân. Tôn trọng và phát huy quyền tự do
kinh doanh theo pháp luật của mọi công dân để làm giàu cho bản thân và đóng
góp cho xã hội. Huy động mọi nguồn lực trong dân.
Nhận thức ngày càng rõ hơn về vai trò lãnh đạo cũng như nội dung và
phương thức lãnh đạo của Đảng đối với phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa. Xác định tiếp tục đổi mới tư duy kinh tế, nâng cao
năng lực lãnh đạo kinh tế của các tổ chức đảng, tăng cường lãnh đạo và kiểm tra
về phát triển kinh tế.
2. Ý nghĩa thực tiễn
2.1. Thành tựu đạt được

Trong những năm qua, việc triển khai thực hiện một số chủ trương của
Đảng về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã đạt
được nhiều kết quả tích cực.
Thứ nhất, nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ngày càng đầy đủ hơn; kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
từng bước hình thành, có nhiều đặc điểm của nền kinh tế thị trường hiện đại và
hội nhập.
Thể chế kinh tế thị trường từng bước được hồn thiện đã tạo điều kiện cho
sự hình thành và phát triển của hầu hết các loại thị trường của nền kinh tế. Các
yếu tố cơ bản của kinh tế thị trường dần được hoàn thiện (giá cả được vận động
theo quy luật cung - cầu, bảo vệ quyền sở hữu tài sản của tổ chức, cá nhân, công
khai, minh bạch, tự do cạnh tranh…). Các quy định pháp luật và cơ chế quản lý
của Nhà nước được điều chỉnh theo cơ chế thị trường. Nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước được hình thành. Đến hết năm 2016, có
66 quốc gia cơng nhận nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường, trong đó
có các đối tác thương mại lớn của Việt Nam.

11


Thứ hai, hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách ngày càng hoàn thiện và
phù hợp hơn với luật pháp quốc tế, đồng thời đáp ứng yêu cầu thực tiễn và thực
hiện cam kết hội nhập quốc tế.
Thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã được quy định
trong Hiến pháp, pháp luật, cơ chế, chính sách tạo cơ sở pháp lý để quản lý và
vận hành nền kinh tế thị trường, từng bước được thực thi có hiệu quả. Điều 51
và Điều 52 của Hiến pháp năm 2013 quy định: "Nền kinh tế Việt Nam là nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu,
nhiều thành phần kinh tế, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo";' và "Nhà nước
xây dựng và hoàn thiện thể chế kinh tế, điều tiết nền kinh tế trên cơ sở tôn trọng

các quy luật thị trường…".
Hệ thống pháp luật từng bước được hoàn thiện theo hướng đáp ứng yêu
cầu phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện
các cam kết hội nhập quốc tế. Từ khi ban hành Nghị quyết Trung ương 6 khóa
X đến nay, Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành 191 bộ luật,
luật, pháp lệnh; trong đó, có khoảng 120, chiếm hơn 60% bộ luật, luật, pháp
lệnh liên quan trực tiếp tới hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Thứ ba, chế độ sở hữu, các thành phần kinh tế, loại hình doanh nghiệp
phát triển đa dạng. Các quyền và nghĩa vụ về tài sản được thể chế hóa tương
đối đầy đủ. Hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế được nâng lên. Việc đổi
mới, sắp xếp, cơ cấu lại, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước được đẩy
mạnh; kinh tế tập thể được quan tâm đổi mới; kinh tế tư nhân ngày càng được
coi trọng; đội ngũ doanh nhân không ngừng lớn mạnh; thu hút vốn đầu tư nước
ngồi đạt được kết quả tích cực.
Hệ thống pháp luật đã xác lập rõ hơn chế độ đa sở hữu, vai trị, vị trí và cơ
chế hoạt động của các thành phần kinh tế. Quyền sở hữu tài sản đã được quy
định trong Hiến pháp và được cụ thể hóa trong các luật, đồng thời được Nhà
nước bảo vệ theo quy định của pháp luật.
Các hình thức sở hữu ngày càng phát triển đa dạng, bao gồm sở hữu nhà
nước, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, sở hữu chung hợp nhất, sở hữu chung hỗn
hợp, sở hữu của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội… Mỗi hình thức sở
hữu có những đặc trưng riêng, thể hiện cụ thể về quyền, nghĩa vụ của chủ sở
hữu tài sản. Về cơ bản, các quyền và lợi ích chính đáng về tài sản, trách nhiệm
và nghĩa vụ của chủ sở hữu, những người liên quan đối với xã hội được Nhà
nước bảo đảm thực thi.
12


Thứ tư, các yếu tố thị trường và các loại thị trường được hình thành đồng

bộ hơn, gắn kết với thị trường khu vực và thế giới. Hầu hết các loại giá hàng
hóa, dịch vụ được xác lập theo cơ chế thị trường.
Luật pháp và cơ chế quản lý về cạnh tranh, giá cả, hợp đồng, … được ban
hành tạo điều kiện để các yếu tố thị trường dần được hình thành và ngày càng
đồng bộ hơn. Hầu hết các loại giá hàng hóa, dịch vụ được xác lập theo ngun
tắc thị trường, bảo đảm hài hịa lợi ích giữa Nhà nước, người sản xuất và người
tiêu dùng; thực hiện công khai, minh bạch cơ chế điều hành giá. Giá một số loại
hàng hóa, dịch vụ thiết yếu: điện, than, nước sạch, xăng dầu… từng bước được
điều chỉnh phù hợp hơn theo thị trường.
Các quy định pháp luật về giải quyết các tranh chấp kinh tế cũng được
từng bước hoàn thiện phù hợp hơn với nền kinh tế thị trường.
Hệ thống luật pháp, các cơ chế, chính sách liên tục được hoàn thiện đã tạo
điều kiện để các loại thị trường từng bước phát triển và vận hành ngày càng
thông suốt hơn như: thị trường hàng hóa - dịch vụ trong nước liên tục phát triển;
thị trường tài chính, tiền tệ phát triển nhanh trên nhiều mặt; các quy định pháp
luật về thị trường bất động sản tiếp tục được hồn thiện; thị trường lao động đã
được hình thành trên phạm vi cả nước; thị trường khoa học công nghệ đã hình
thành và đang dần phát triển.
Thứ năm, mơi trường đầu tư, kinh doanh được cải thiện và thơng thống
hơn; quyền tự do kinh doanh và cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp
thuộc các thành phần kinh tế được bảo đảm.
Việc ban hành Hiến pháp năm 2013 đã tạo nền tảng pháp lý vững chắc cho
bảo đảm quyền tự do kinh doanh của người dân. Nhiều văn bản pháp luật, cơ
chế, chính sách quan trọng đã được ban hành. Gần đây, để hỗ trợ doanh nghiệp
phát triển, Chính phủ đã ban hành nhiều nghị quyết về cải thiện môi trường kinh
doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia đến năm 2020.
Hệ thống pháp luật và các cơ chế, chính sách liên tục được hồn thiện đã
góp phần cải thiện môi trường kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh của
nước ta.
Thứ sáu, hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng trên nhiều cấp độ,

đa dạng về hình thức, từng bước thích ứng với ngun tắc và chuẩn mực của thị
trường toàn cầu.

13


Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách đã dần được bổ sung, hoàn thiện
đáp ứng yêu cầu thực hiện các cam kết quốc tế mà nước ta đã ký kết và tham
gia. Tích cực đàm phán, triển khai các hiệp định thương mại tự do để mở rộng,
đa dạng hóa thị trường đi đơi với nâng cao tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế.
Đến nay, Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, tích cực tham gia xây dựng Cơng đồng kinh tế ASEAN, tham gia và ký
kết 9 hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương khác; thiết lập
quan hệ kinh tế, thương mại với hơn 220 quốc gia, vùng lãnh thổ và là thành
viên của 70 tổ chức khu vực và quốc tế. Nền kinh tế từng bước thích ứng với
nguyên tắc và chuẩn mực của thị trường toàn cầu.
Thị trường trong nước ngày càng gắn kết sâu rộng hơn với thị trường khu
vực và thế giới theo lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế và hội nhập.
Thứ bảy, việc huy động, phân bổ và sử dụng nguồn lực phù hợp hơn với
cơ chế thị trường. Các cơ chế, chính sách đã chú trọng kết hợp giữa phát triển
kinh tế với thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, tạo cơ hội cho người dân
tham gia và nhận được thành quả từ quá trình phát triển kinh tế.
Nhà nước đã ban hành các cơ chế, chính sách để các nguồn lực được huy
động, phân bổ và sử dụng gắn với chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội, từng bước phù hợp với cơ chế thị trường. Nguồn lực nhà nước
đã được phân bổ một cách hợp lý hơn theo hướng tập trung vào phát triển kết
cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, phát triển các dịch vụ công, các ngành, lĩnh vực và
địa bàn quan trọng, then chốt. Tập trung tháo gỡ các vướng mắc về cơ chế,
chính sách tài chính để huy động, phân bổ có hiệu quả các nguồn lực tài chính
cho phát triển. Phân bổ lại thông qua ngân sách nhà nước dần bảo đảm cơng
bằng, bình đẳng và minh bạch hơn.

Trong từng bước phát triển, Nhà nước đã ban hành nhiều cơ chế, chính
sách gắn kết giữa phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ, cơng bằng xã hội, xóa
đói, giảm nghèo, bảo đảm an sinh xã hội, phát triển y tế, giáo dục, khoa học,
cơng nghệ và văn hóa; cải thiện đời sống của nhân dân. Người dân được tiếp
cận tốt hơn các dịch vụ công và nguồn lực hỗ trợ của nhà nước.
Thứ tám, phương thức lãnh đạo của Đảng, hoạt động của Nhà nước từng
bước được đổi mới phù hợp hơn với yêu cầu phát triển nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế.
Đảng đã chú trọng nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn để làm rõ hơn
nhận thức về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; lãnh đạo cụ thể

14


hóa và thể chế hóa các chủ trương, chính sách; huy động cả hệ thống chính trị,
động viên nhân dân tích cực tham gia triển khai thực hiện. Các cấp ủy Đảng tập
trung lãnh đạo, chỉ đạo việc thực hiện các nhiệm vụ về phát triển kinh tế - xã
hội trên các lĩnh vực và địa bàn. Đảng lãnh đạo kinh tế thông qua các tổ chức
đảng và đảng viên.
Vai trị, phương thức hoạt động của Nhà nước đã có những đổi mới phù
hợp hơn với cơ chế thị trường. Nhà nước tập trung hơn vào bảo đảm ổn định
kinh tế vĩ mơ; hồn thiện hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách phù hợp với
nguyên tắc thị trường, các thông lệ, chuẩn mực quốc tế; tạo lập và không ngừng
cải thiện môi trường thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của người dân
và doanh nghiệp; giảm thiểu sự can thiệp hành chính trực tiếp vào cơng việc
kinh doanh của doanh nghiệp. Quản lý tài chính cơng được đổi mới và từng
bước hồn thiện. Cơng tác cải cách hành chính đã được nỗ lực triển khai và đạt
kết quả tích cực.
2.2. Hạn chế, yếu kém
Tuy nhiên, trong xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng

xã hội chủ nghĩa ở nước ta còn một số hạn chế, yếu kém như:
- Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta thực hiện còn chậm. Một số quy định pháp luật, cơ chế, chính sách cịn
chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu ổn định, nhất qn; cịn có biểu hiện lợi ích cục
bộ, chưa tạo được bước đột phá trong huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả
các nguồn lực phát triển.
- Hiệu quả hoạt động của các chủ thể kinh tế, các loại hình doanh nghiệp
trong nền kinh tế còn nhiều hạn chế. Việc tiếp cận một số nguồn lực xã hội chưa
bình đẳng giữa các chủ thể kinh tế. Cải cách hành chính cịn chậm. Mơi trường
đầu tư, kinh doanh chưa thực sự thơng thống, mức độ minh bạch, ổn định chưa
cao. Quyền tự do kinh doanh chưa được tôn trọng đầy đủ. Quyền sở hữu tài sản
chưa được bảo đảm thực thi nghiêm minh.
- Một số loại thị trường chậm hình thành và phát triển, vận hành còn nhiều
vướng mắc, kém hiệu quả. Giá cả một số hàng hóa, dịch vụ thiết yếu chưa được
xác lập thật sự theo cơ chế thị trường.
- Thể chế bảo đảm thực hiện tiến bộ và cơng bằng xã hội cịn nhiều bất
cập. Bất bình đẳng xã hội, phân hóa giàu - nghèo có xu hướng gia tăng. Xóa
đói, giảm nghèo còn chưa bền vững.

15


- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong thực hiện nhiệm vụ phát
triển kinh tế - xã hội chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới về kinh tế. Cơ chế kiểm sốt
quyền lực, phân cơng, phân cấp cịn nhiều bất cập. Quản lý nhà nước chưa đáp
ứng kịp yêu cầu phát triển của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế; hiệu lực,
hiệu quả chưa cao; kỷ luật, kỷ cương không nghiêm. Hội nhập kinh tế quốc tế
đạt hiệu quả chưa cao, thiếu chủ động trong phòng ngừa và xử lý tranh chấp
thương mại quốc tế.
2.3. Nhiệm vụ và giải pháp

Văn kiện Đại hội XII của Đảng đã xác định phương hướng, nhiệm vụ phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là: Tiếp tục thống nhất
nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục hoàn
thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh
nghiệp. Phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại thị trường. Đẩy
mạnh, nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc tế. Nâng cao năng lực lãnh đạo
của Đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước về kinh tế - xã hội và phát
huy vai trò làm chủ của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội.
Cụ thể hóa Văn kiện Đại hội XII của Đảng, hội nghị lần thứ năm Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 11-NQ/TW
ngày 03/6/2017 về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa. Trong đó xác định các nhiệm vụ, giải pháp:
1 - Thống nhất nhận thức về nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta.
2 - Tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh
tế, các loại hình doanh nghiệp Hoàn thiện thể chế về sở hữu
3 - Hoàn thiện thể chế phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường và các loại
thị trường Hoàn thiện thể chế phát triển đồng bộ các yếu tố thị trường
4 - Hoàn thiện thể chế gắn kết tăng trưởng kinh tế với bảo đảm phát triển
bền vững, tiến bộ và cơng bằng xã hội, quốc phịng, an ninh, bảo vệ mơi trường
và ứng phó với biến đổi khí hậu
5 - Hoàn thiện thể chế, đẩy mạnh, nâng cao hiệu quả hội nhập kinh tế quốc
tế
6 - Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng, vai trò xây dựng và thực hiện
thể chế kinh tế của Nhà nước; phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong hoàn

16


thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Đổi mới nội dung

và phương thức lãnh đạo của Đảng về kinh tế - xã hội
7 - Một số nhiệm vụ cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Giai đoạn từ
nay đến năm 2020, cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện một số nhiệm vụ
quan trọng sau:
- Hoàn thiện thể chế về huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các
nguồn lực và thể chế về phân phối kết quả làm ra để giải phóng sức sản xuất,
tạo động lực và nguồn lực cho tăng trưởng, phát triển, bảo đảm tiến bộ, cơng
bằng xã hội, quốc phịng, an ninh.
- Hồn thiện thể chế về cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh; có chính
sách đột phá tháo gỡ những vướng mắc, tạo thuận lợi hỗ trợ doanh nghiệp phát
triển trên cơ sở đẩy mạnh đồng bộ cải cách hành chính và cải cách tư pháp. Xây
dựng thể chế làm căn cứ xử lý dứt điểm, hiệu quả các tồn tại, yếu kém đã tích tụ
trong nền kinh tế nhiều năm qua, đặc biệt là việc xử lý các tập đoàn kinh tế,
tổng cơng ty nhà nước, các dự án, cơng trình đầu tư công không hiệu quả, thua
lỗ kéo dài; cơ cấu lại các tổ chức tín dụng yếu kém gắn với xử lý nợ xấu.
- Hoàn thiện thể chế về phát triển, ứng dụng khoa học - công nghệ, giáo
dục - đào tạo, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao, tranh
thủ những cơ hội và thành tựu của Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4, đổi
mới mơ hình tăng trưởng, nâng cao năng suất lao động, chất lượng và sức cạnh
tranh của nền kinh tế.
- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nền kinh tế và năng lực kiến tạo sự
phát triển của Nhà nước, đặc biệt là năng lực, hiệu quả thể chế hóa đường lối,
chủ trương của Đảng và tổ chức thực hiện luật pháp, chính sách của Nhà nước.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, hoàn thiện thể chế kiểm soát
quyền lực, tinh giản bộ máy, biên chế, xây dựng đội ngũ cán bộ có năng lực,
phẩm chất đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ; nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động
của tồn hệ thống chính trị.

17



KẾT LUẬN
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một mơ hình
hồn tồn mới, chưa có tiền lệ trong lịch sử và thời gian phát triển. Do vậy, phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một q trình hồn thiện,
đổi mới và sáng tạo không ngừng trong nhận thức, tư duy lý luận và thực tiễn.
Đề tài Tiểu luận "Phân tích luận điểm: Nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế thị trường hiện đại và hội nhập quốc
tế. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn" của môn Những vấn đề kinh tế chính trị của
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, cũng đã làm rõ cơ sở lý luận về
thị trường, kinh tế thị trường, cơ chế thị trường; xác định khái niệm kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tính hiện đại và hội nhập của kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Ý nghĩa lý luận và ý nghĩa
thực tiễn trong giai đoạn thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Tuy nhiên, do thời gian và năng lực nghiên cứu có hạn, Đề tài tiểu luận
không tránh khỏi những hạn chế; rất mong được sự giúp đỡ, góp ý của thầy, cơ
giáo.

NGƯỜI VIẾT TIỂU LUẬN

Nguyễn Văn Tuấn

18



×