TRƯỜNG ĐẠI HỌC TÀI CHÍNH MARKETING
KHOA THƯƠNG MẠI
TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN
QUA TÁC PHẨM “ĐƯỜNG KÁCH MỆNH”
(Tiểu luận môn học Tư tưởng Hồ Chí Minh)
Cán bộ hướng dẫn khoa học:
Nhóm sinh viên thực hiện đề tài: Nhóm
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, THÁNG 9 NĂM 2018
DANH SÁCH NHÓM SINH VIÊN THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
STT
1
2
3
4
5
HỌ VÀ TÊN
(Xếp theo vần A, B, C)
MSSV
CHỮ KÝ
GHI CHÚ
MỤC LỤC
PHẦN 1:PHẦN MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1:LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
CHƯƠNG 2: MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 3:NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI
CHƯƠNG 4:GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI
CHƯƠNG 5:KẾT CẤU ĐỀ TÀI
PHẦN 2: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: Khái quát hoàn cảnh ra đời và kết cấu của tác phẩm Đường Cách
Mệnh
1) Bối cảnh ra đời
1.1 Bối cảnh thế giới
1.2 Bối cảnh trong nước
1.3 Bối cảnh ra đời của tác phẩm
2) Chủ đề tư tưởng của tác phẩm
3) Kết cấu của tác phẩm
3.1 Về mặt hình thức
3.2 Về nội dung
4) Nội dung cơ bản của tác phẩm
4.1 Những vấn đề lý luận chung về cách mạng xã hội
4.2 Tổng kết kinh nghiệm các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới và rút ra bài
học cho cách mạng Việt Nam
4.3 Phương pháp tổ chức hoạt động cách mạng
CHƯƠNG 2: Hồ Chí Minh viết về đảng Cộng sản trong tác phẩm Đường kách mệnh
1.1. Chủ nghĩa Mác – Lênin là chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất để lãnh
đạo cách mạNg
1.2Đường cách mệnh có vai trò trong việc lựa chọn mô hình nhà nước trong tương
lai
1.3 Tác phẩm Đường cách mệnh có vai trò quan trọng trong việc chuẩn bị về tư
tưởng, chính trị, tổ chức cho sự thành lập chính Đảng cách mạng ở Việt Nam.
1.3.1. Về tư tưởng
1.3.2. Về chính trị
1.3.3.Về tổ chức
Chương 3: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG CỘNG SẢN TRONG XÂY
DỰNG ĐẢNG CSVN TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI ( 1986 -2010)
3.1 Xây dựng Đảng về tư tưởng, lí luận
3.2 Xây dựng Đảng về chính trị
3.3 Xây dựng Đảng về tổ chức, bộ máy, công tác cán bộ
3.3.1 Hệ thống tổ chức của Đảng
3.3.2 Các nguyên tắc tồ chức sinh hoạt đảng
3.3.3 Cán bộ, công tác cán bộ của Đảng
3.4 Xây dựng Đảng về đạo đức
Phần 3: KẾT LUẬN
Phần 4: PHẦN PHỤ LỤC
Phần 5: TƯ LIỆU, TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHẦN 1: PHẦN MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1: LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Hồ Chí Minh là người sáng lập, đồng thời là người giáo dục và rèn luyện Đảng
Cộng sản Việt Nam trong gần 40 năm. Từ nhu cầu giải phóng dân tộc theo con
đường cách mạng vô sản, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa MácLênin, Hồ Chí Minh đã kết hợp chặt chẽ giữa nhận thức lý luận và hoạt động,
tổng kết thực tiễn, xác lập nên một hệ thống quan điểm, tư tưởng về Đảng
Cộng sản và xây dựng Đảng Cộng sản trong điều kiện một nước thuộc địa nửa
phong kiến, kinh tế nông nghiệp lạc hậu với các đạc điểm văn hóa truyền thống
phương Đông. Những quan điểm, tư tưởng đó bao gồm các vấn đề có tính quy
luật có liên quan đến sự hình thành, vị trí, vai trò, bản chất của Đảng Cộng sản
và những vấn đề có tính nguyên tắc liên quan đến việc xây dựng Đảng Cộng
sản Việt Nam trong sạch, vững mạnh, nhất là trong điều kiện Đảng trở thành
Đảng cầm quyền. Trong hệ thống các quan điểm đó, Hồ Chí Minh có những
phát kiến đặc biệt sáng tạo, phản ánh mối quan hệ biện chứng giữa tính phổ
biến và tính đạc thù của quy luật hình thành Đảng vô sản kiểu mới trong điều
kiện từng nước; quan điểm về sự thống nhất biện chứng giữa bản chất giai cấp
công nhân với tính dân tộc và tính nhân dân của Đảng; quan niệm về Đảng
Cộng sản cầm quyền và các yếu tố đảm bảo vai trò cầm quyền của Đảng.
Những quan điểm này thật sự là sáng tạo riêng của Hồ Chí Minh, góp phần cụ
thể hóa và phát triển lý luận Mác-Lênin về Đảng Cộng sản.
CHƯƠNG 2: MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU
Tìm hiểu nội dung quan điểm lí luận về tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng Cộng
sản qua tác phẩm Đường kách mệnh, các lí luận về phẩm chất Đường Kách
mệnh; vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trong xây dựng Đảng Cộng sản Việt
Nam trong thời kỳ đổi mới (1986- 2016).
CHƯƠNG 3: NHIỆM VỤ CỦA ĐỀ TÀI
Nghiên cưu, làm rõ tư tưởng Hồ Chí Minh qua tác phẩm Đường Kách mệnh,
làm rõ nguồn gốc hình thành nội dung tư tưởng tác phẩm, các lí luận về phẩm
chất người Kách mệnh, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản
trong xây dựng Đảng cộng sản Việt Nam thời kỳ đổi mới (1986 -2016)
CHƯƠNG 4: GIỚI HẠN CỦA ĐỀ TÀI
Tiểu luận nghiên cứu dựa trên cơ sở tác phẩm Đường Kách mệnh, các tài liệu
tìm hiểu trên mạng tham khảo; tài liệu tham khảo thư viện trường Đại học Tài
Chính- Marketing, tài liệu từ các trường Đại học khác; tư liệu lịch sử trong bảo
tàng Hồ Chí Minh
CHƯƠNG 5: KẾT CẤU ĐỀ TÀI
Phần nội dung kết cấu gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát hoàn cảnh ra đời và kết cấu tác phẩm Đường Kách mệnh
Chương 2: Hồ Chí Minh viết về Đảng Cộng sản trong tác phẩm Đường Kách
mệnh.
Chương 3: Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng cộng sản trong xây dựng
Đảng cộng sản Việt Nam thời kỳ đối mới ( 1986 – 2016)
PHẦN 2: NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: Khái quát hoàn cảnh ra đời và kết cấu của tác phẩm
Đường Cách Mệnh
1) Bối cảnh ra đời
1.1 Bối cảnh thế giới
Cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản ở phương Tây đã chuyển sang giai đoạn
độc quyền, giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, tiến hành xâm lược, thôn tính các dân
tộc khác, biến các nước khác trở thành thuộc địa để vơ vét tài nguyên, bóc lột
nhân công. Lúc này phương Đông, trong đó có Việt Nam trở thành đối tượng
trực tiếp xâm lược của các nước phương Tây. Sau chiến tranh thế giới thứ nhất,
hầu hết các nước trên thế giới đều trở thành thuộc địa của các nước đế quốc
như Anh, Pháp, Mỹ. Để bù đắp cho những thiệt hại trong chiến tranh, các nước
đế quốc bắt đầu tiến hành vơ vét bốc lột ở các nước thuộc địa.
Đến đầu thế kỷ XX, ở phương Đông đã bắt đầu có sự thức tỉnh, nổi bật là
Cách mạng tháng Mười Nga. Năm 1917, Đảng Cộng sản Bônsêvích Nga đã
lãnh đạo cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga thành công. Cách mạng Tháng
Mười Nga là bằng chứng khẳng định giá trị thực tiễn của chủ nghĩa Mác Lênin, đồng thời cũng báo hiệu thời kỳ đấu tranh giành thắng lợi của giai cấp
vô sản thế giới bắt đầu.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là sự tiếp nối và phát triển những tư tưởng giải
phóng con người của nhân loại. Nó đã trở thành vũ khí tư tưởng của giai cấp vô
sản đấu tranh chống chủ nghĩa tư bản và xây dựng xã hội mới - xã hội chủ
nghĩa và cộng sản chủ nghĩa. Được học thuyết khoa học và cách mạng soi
đường, phong trào đấu tranh của giai cấp vô sản các nước trên thế giới đã phát
triển mạnh mẽ, dẫn đến sự ra đời của các Đảng Cộng sản như: Đảng xã hội dân chủ Nga được thành lập (1903); Đảng Cộng sản Pháp được thành lập
(1920); Đảng Cộng sản Trung Quốc ra đời (1921)...
Tháng 3/1919, Quốc tế III - Bộ Tham mưu của phong trào Cộng sản và
công nhân quốc tế được thành lập. Quốc tế III đã quan tâm đến cách mạng
thuộc địa. Bản “Sơ thảo luận cương lần thứ nhất về vấn đề dân tộc và thuộc
địa của Lênin” đã tác động trực tiếp đến phong trào giải phóng dân tộc ở các
thuộc địa. Sơ thảo đã vạch ra phương hướng và chỉ rõ con đường để các dân
tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh giành độc lập. Đối với Nguyễn Ái Quốc, Sơ
thảo lần thứ nhất luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin
là bước tiến nhảy vọt và dứt khoát trong nhận thức tư tưởng của Người. Người
quyết định chọn chủ nghĩa Mác - Lênin làm hệ tư tưởng cứu nước. Như vậy,
thời đại đã mở ra điều kiện mới - cả tư tưởng chính trị và cả tổ chức cho việc
thành lập Đảng Cộng sản ở các nước. Chính thời đại cũng dẫn dắt phong trào
cách mạng các dân tộc trên thế giới đi vào quỹ đạo chung của cách mạng vô
sản.
1.2 Bối cảnh trong nước
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, đến năm 1884 cơ bản
đã hoàn thành xâm lược nước ta bằng vũ trang, thưc dân Pháp bắt đầu áp dụng
các chính sách cai trị và bóc lột ở Việt Nam.
Từ năm 1898, công cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của thực dân Pháp
được tiến hành. Đặc biệt từ sau chiên tranh thế giới thứ nhất, cuộc khai thác
thuộc địa lần thứ hai đã làm cho xã hội Việt Nam phân hóa. Dưới tác động của
các chính sách cai trị và bóc lột của thực dân Pháp làm cho xã hội Việt Nam
phân hóa sâu sắc, dẫn tới sự ra đời của giai cấp mới, đó là giai cấp công nhân,
một giai cấp sớm thể hiện bản chất cách mạng và có khả năng to lớn trong việc
học tập, lôi kéo lực lượng. Ngay từ đầu, giai cấp công nhân đã thể hiện khả
năng lãnh đạo cách mạng, đây là một điểm hết sức quan trọng.
Dưới ách thống trị của thực dân- phong kiến, đã có hàng trăm cuộc đấu
tranh giải phóng dân tộc theo hệ tư tưởng phong kiến và tư tưởng tư sản diễn ra
nhưng đều bị thực dân Pháp nhanh chóng dập tắt. Nổi bật như: phong trào
Đông Du, phong trào Duy Tân hay Kinh Đông Nghĩa Thục…
Bước vào những năm 20 của thế kỷ XX, trong phong trào giải phóng dân
tộc ở Việt Nam đã xuất hiện nhiều tổ chức yêu nước mang sắc màu chính trị
khác nhau, như: Tâm tâm xã ( l923 - 1925), Hội phục Việt (1925), Đảng thanh
niên (1926), Thanh niên cao vọng Đảng (1926 - 1929), Tân Việt cách mạng
Đảng (1926 - 1930), Việt Nam quốc dân Đảng (1927 - 1980). Song, tất cả đều
thất bại do các tổ chức yêu nước này thiếu đường lối chính trị đúng đắn, thiếu
tổ chức chặt chẽ như một đảng cách mạng khoa học. Từ đó, yêu cầu đặt ra là
phải đưa cách mạng Việt Nam đi theo một con đường đúng đắn. Nhiều nhà yêu
nước đã ra đi tìm đường cứu nước, trong đó có Nguyễn Ái Quốc.
1.3 Bối cảnh ra đời của tác phẩm
Năm 1920, Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác-Lênin. Khi nghiên cứu chủ
nghĩa Mác-Lênin, Bác mới nhận thức đầy đủ và rút ra kết luận “ Bây giờ học
thuyết nhiều, chủ nghĩa lắm, thế nhưng chỉ có chủ nghĩa Mác-Lênin là chân
chính nhất, chắc chắn nhất, cách mạng nhất” và Người quyết định đi theo chủ
nghĩa Mác-Lênin, Người đã tìm ra con đường cứu nước cho dân tộc là con
đường cách mạng vô sản. Từ đó Bác Hồ bắt đầu tìm cách truyền bá chủ nghĩa
Mác-Lênin và con đường cứu nước vào trong nước để tổ chức vận động nhân
dân đấu tranh, chuẩn bị cho việc thành lập Đảng.
Tác phẩm Đường cách mệnh được chuẩn bị vào những năm 1925 - 1926 và
được xuất bản vào năm 1927. Đây là thời kỳ hoạt động đầy sôi nổi và hiệu quả
của Nguyễn Ái Quốc.
Tháng 11 năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đến Quảng Châu (Trung Quốc). Tại
đây, Người tập hợp những người Việt Nam yêu nước, thành lập Hội Việt Nam
cách mạng thanh niên. Công việc đầu tiên mà Nguyễn Ái Quốc làm là mở các
lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Người vừa là giảng viên chính, vừa là người tổ
chức và hướng dẫn lớp học. Thời gian từ 1925 đến 1927, Nguyễn Ái Quốc đã
tổ chức được 3 lớp với tổng số 75 học viên. Các bài giảng của Người là tài liệu
chính cho học viên nghiên cứu, trao đổi.
Đầu năm 1927, các bài giảng của Nguyễn Ái Quốc tại các lớp học ở Quảng
Châu được Bộ Tuyên truyền của Hội Liên hiệp các dân tộc bị áp bức tập hợp
lại và xuất bản thành sách với tên gọi Đường cách mệnh.
2) Chủ đề tư tưởng của tác phẩm
Mục đích tác phẩm được tác giả chỉ rõ: “Muốn sống thì phải cách mệnh”.
“Hơn hai mươi triệu đồng bào hấp hối trong vòng tử địa. Phải kêu to, làm
chóng để cứu lấy giống nòi”. Thà chết tự đo còn hơn sống nô lệ, quyết chiến
đấu cho nền độc lập tự do của dân tộc là tinh thần của tác phẩm. Có thể nói,
“Không có gì quý hơn độc lập tự do” là quan điểm bao trùm toàn bộ tác phẩm.
Tác phẩm cũng chỉ rõ kẻ thù nguy hiểm nhất của độc lập tự do và vạch con
đường cụ thể để giành thắng lợi.
Tinh thần xuyên suốt toàn bộ tác phẩm là vì độc lập tự do của dân tộc, vì
hạnh phúc của nhân dân, phải giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân ra khỏi
ách áp bức bóc lột của chủ nghĩa đế quốc.
Kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội là quan điểm tư tưởng chỉ đạo
con đường cách mạng Việt Nam. Giải phóng nhân dân phải gắn với sự nghiệp
giải phóng giai cấp vô sản. Cách mạng giải phóng dân tộc phải theo quỹ đạo
của cách mạng vô sản, kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa xã hội, lợi ích
của dân tộc với lợi ích của giai cấp vô sản phải gắn bó với nhau. Thực hiện
nhiệm vụ giải phóng dân tộc đều phải giải quyết trên cơ sở quan điểm cách
mạng vô sản để đưa cách mạng giải phóng dân tộc tiến lên cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Cách mạng giải phóng dân tộc chuẩn bị cho cách mạng xã hội chủ
nghĩa. Cách mạng xã hội chủ nghĩa chi phối cách mạng giải phóng dân tộc.
Cách mạng phải triệt để, tích cực, chủ động và sáng tạo. Tác giả đưa dẫn
chứng các cuộc cách mạng trên thế giới để đi đến khẳng định rằng, cách mạng
Việt Nam phải giành thắng lợi triệt để: “Muốn cách mệnh thành công thì phải
dân chúng (công nông) làm gốc, phải có Đảng vững bền, phải bền gan, phải hy
sinh; phải thống nhất. Nói tóm lại là phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và
Lênin”. Cách mạng phải độc lập và sáng tạo, tự lực, tự cường, không ỷ lại ngồi
chờ; phải tích cực tấn công, chủ động tiến công, quyết giành thắng lợi. Biết
tranh thủ sự giúp đỡ của cách mạng thế giới, nhưng cũng phải có đóng góp cho
cách mạng thế giới, cùng cách mạng thế giới đạp đổ chủ nghĩa đế quốc tư bản,
xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Những tư tưởng cơ bản trên đã nâng giá trị của tác phẩm lên tầm cao.
3) Kết cấu của tác phẩm
3.1 Về mặt hình thức
Ngoài lời đề tựa, cuốn sách được phân chia theo từng vấn đề, số trang cũng
được đánh theo từng vấn đề, không đánh liền cho cả cuốn sách. Trong tác
phẩm này, Nguyễn Ái Quốc đã tập trung đề cập 15 vấn đề (1) Tư cách một
người cách mệnh; (2); Vì sao phải viết sách này? (3) Cách mệnh; (4) Lịch sử
cách mệnh Mỹ; (5) Cách mệnh Pháp; (6) Lịch sử cách mệnh Nga; (7) Quốc tế;
(8) Phụ nữ quốc tế; (9) Công nhân quốc tế; (10) Cộng sản thanh niên quốc tế;
(11) Quốc tế giúp đỡ; (12) Quốc tế cứu tế đỏ (13) Cách tổ chức công hội; (14)
Tổ chức dân cày; (15) Hợp tác xã.
3.2 Về nội dung
Tác phẩn được triển khai theo ba nội dung cơ bản: Những vấn đề lý luận
cách mạng chung; tổng kết các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới, rút ra
bài học cho cách mạng Việt Nam; xác định phương pháp tổ chức và hoạt động
cách mạng.
4) Nội dung cơ bản của tác phẩm
4.1 Những vấn đề lý luận chung về cách mạng xã hội
Trên tờ bìa cuốn sách, ngay dưới tên sách là câu trích trong tác phẩm Làm
gì? Của V.I.Lênin, khẳng định vai trò và tầm quan trọng của lý luận đối với sự
phát triển của phong trào cách mạng nói chung: “Không có lý luận cách mệnh,
thì không có cách mệnh vận động…Chỉ có theo lý luận cách mệnh tiền phong,
đảng cách mệnh mới làm nổi trách nhiệm cách mệnh tiền phong”.
Trong phần mở đầu cuốn sách, Nguyễn Ái Quốc nêu rõ: “Mục đích sách
này là để nsoi cho đồng bào ta biết rõ: (1) Vì sao chúng ta muốn sống thì phải
cách mệnh. (2) Vì sao cách mệnh là việc chung của cả dân chúng chứ không
phải việc một hai người. (3) Đem lịch sử cách mệnh các nước làm gương cho
chúng ta soi. (4) Đem phong trào thế giới nói cho đồng bào ta rõ. (5) Ai là bạn
ta? Ai là thù ta? (6) Cách mệnh thì phải làm thế nào?”. Để rồi đạt đến mục đích
cao nhất là: “đồng bào xem rồi thì nghĩ lại, nghĩ rồi thì tỉnh dậy, tỉnh dậy rồi thì
đứng lên đoàn kết nhau mà làm cách mệnh”.
Đường cách mệnh xác định chuẩn mục đạo đức của những người cách
mạng, những người tham gia trực tiếp vào sự nghiệp gian khổ, hy sinh, nhưng
vẻ vang của dân tộc. Ở đây, Hồ Chí Minh đã bước đầu thể hiện một quan niệm
trở thành triết lý nhân sinh: Lý luận cách mạng hàm chứa các giá trị nhân văn
cao cả; cách mạng là sự nghiệp hào hùng, oanh liệt, vẻ vang, người cách mạng
phải có nhân cách, đạo đức và phẩm hạnh mới tiếp thu được tinh thần của lý
luận, mới làm tròn nhiệm vụ cách mạng khó khăn.
Nguyễn Ái Quốc nêu ra 23 tiêu chuẩn, quy tụ trong ba mối quan hệ cơ bản
của một con người.
(1) Đối với mình, có 14 tiêu chuẩn: Cần kiệm. Hoà mà không tư. Cả quyết
sửa lỗi mình. Cẩn thận mà không nhút nhát. Hay hỏi. Nhẫn nại (chịu khó). Hay
nghiên cứu, xem xét. Vị công vong tư. Không hiếu danh, không kiêu ngạo. Nói
thì phải làm. Giữ chủ nghĩa cho vững. Hy sinh. Ít lòng ham muốn về vật chất.
Bí mật.
(2) Đối với người, có 5 chuẩn mực: Với từng người thì khoan thứ. Với đoàn
thể thì nghiêm. Có lòng bày vẽ cho người. Trực mà không táo bạo. Hay xem
xét người.
(3) Đối với công việc, có 4 tiêu chuẩn: Xem xét hoàn cảnh kỹ càng. Quyết
đoán. Dũng cảm. Phục tùng đoàn thể.
Những phẩm chất này làm thành các giá trị về nhân cách con người, nhân
cách làm người- Một mẫu người mới đang định hình và xuất hiện trong phong
trào cách mạng của dân tộc.
Tác phẩm giải quyết các vấn đề về nguyên nhân dẫn đến cách mạng, các
loại cách mạng và vai trò của nó trong lịch sử.
Về Đảng chính trị, Đường cách mệnh xem đảng cách mệnh, đảng cộng sản
là nhân tố quyết định sự thành công của cách mệnh. Người viết: “Cách mệnh
trước hết phải có cái gì? Trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận
động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản
giai cấp mọi nơi. Đảng có vững thì cách mệnh mới thành công, cũng như người
cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ nghĩa làm
cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa ấy. Đảng mà
không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu không có bàn chỉ
nam.
“Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính
nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”.
Luận điểm này của Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định một vấn đề có tính
nguyên tắc, đặt nền móng lâu dài cho công tác xây dựng đảng về tư tưởng – lý
luận.
Đường cách mệnh chỉ rõ cách mệnh là sự nghiệp của toàn dân tộc chứ
không phải của một vài cá nhân. Lần đầu tiên trong tác phẩm này, Nguyễn Ái
Quốc đã xác định khái niệm lực lượng cách mạng một cách đúng đắn, khoa học
dựa vào tiêu chí “bị áp bức”: “ai mà bị áp bức càng nặng thì lòng cách mệnh
càng bền, chí cách mệnh càng quyết”. Theo tiêu chí đó, Người xếp “công nông
là gốc cách mệnh”, không chỉ họ chiếm số đông trong dân chúng mà cơ bản là
họ bị áp bức, bốc lột nặng nề nhất, tàn bạo nhất. Nguyễn Ái Quốc coi “học trò,
nhà buôn nhỏ, điền chủ nhỏ…là bầu bạn cách mệnh của công nông”. Những
chỉ dẫn cơ bản này là nền tảng lý luận hình thành khối liên minh công nông và
Mặt trận dân tộc thống nhất trong cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam.
Đường cách mệnh coi đoàn kết như một nhân tố quan trọng bảo đảm thắng
lợi của cách mạng Việt Nam. Theo Người, “An Nam dân tộc cách mệnh thành
công thì tư bản Pháp yếu, tư bản Pháp yếu thì công nông Pháp là giai cấp cách
mệnh cũng dễ. Và nếu công nông Pháp cách mệnh thành công, thì dân tộc An
Nam sẽ được tự do”. Mỗi quan hệ đó chính là hai cánh của con chim cách
mạng bay cao và bay xa.
4.2 Tổng kết kinh nghiệm các cuộc cách mạng điển hình trên thế
giới và rút ra bài học cho cách mạng Việt Nam
Đường cách mệnh giới thiệu tính chất, nội dung các cuộc cách mạng điển
hình trên thế giới, cách mạng Mỹ năm 1776, Cách mạng Pháp 1789, lịch sử
cách mạng Nga 1917. Từ sự phân tích tính chất, nội dung các cuộc cách mạng
Mỹ, Pháp, Nguyễn Ái Quốc đi đến kết luận mang tính so sánh với tiến trình
vận động lịch sử: Mặc dầu có ý nghĩa to lớn trong tiến trình phát triển của nhân
loại, nhưng các cuộc cách mạng này vẫn là những cuộc cách mạng “không đến
nơi”, không triệt để. Trong quan niệm của Người, chỉ có cuộc Cách mạng
Tháng Mười Nga là cuộc cách mạng triệt để.
Nguyễn Ái Quốc viết “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mạng Nga là đã
thành công, và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh
phúc tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc
chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam. Cách mệnh Nga đã đuổi được vua,
tư bản, địa chủ rồi, lại ra sức cho công, nông các nước và dân bị áp bức các
thuộc địa làm cách mệnh để đập đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa và tư bản trên thế
giới”.
Việc phân tích các cuộc cách mạng điển hình trên thế giới, đối chiếu với
nhu cầu khách quan của cách mạng Việt Nam là độc lập cho dân tộc, tự do,
hạnh phúc cho nhân dân, Nguyễn Ái Quốc đã rút ra bài học lớn: Dân tộc ta
phải đi theo con đường cách mạng vô sản, con đường độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội.
4.3 Phương pháp tổ chức hoạt động cách mạng
Đường cách mệnh giới thiệu công lao to lớn của Quốc tế I, Quốc tế II; phê
phán đường lối phi mác xít của những người cơ hội trong Quốc tế II. Nguyễn
Ái Quốc vạch rõ cách mạng Việt Nam là một bộ phận khăng khít của phong
trào cách mạng thế giới và để bảo đảm sự thắng lợi, cách mạng nước ta phải
dựa vào Quốc tế III, tức Quốc tế Cộng sản.
Học tập kinh nghiệm của thế giới, tác phẩm hướng dẫn cách thức tổ chức,
vận động quần chúng: Cách mạng Việt Nam phải tổ chức ra các đoàn thể quần
chúng như công hội, nông hội, phụ nữ, thanh niên… theo đường lối Cách mạng
Tháng Mười Nga, của Quốc tế Cộng sản.
CHƯƠNG 2: Hồ Chí Minh viết về đảng Cộng sản trong tác phẩm
Đường kách mệnh
Đảng cộng sản là nhân tố quyết định sự thành công của cách mệnh
Đảng ta ra đời là sự kết hợp của chủ nghĩa Mác-Lênin với phong trào
công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Từ khi xuất hiện trên vũ đài
chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam đã tỏ rõ là một đảng cách mạng chân chính
nhất, có sức hội tụ lớn nhất mọi sức mạnh của dân tộc, của giai cấp, sớm trở
thành đội tiên phong của giai cấp và của dân tộc trong cuộc đấu tranh chống đế
quốc, phong kiến. Có thể nói, sứ mệnh lịch sử của Đảng Cộng sản Việt Nam là
do thời đại, do giai cấp và dân tộc quy định.
Trong tác phẩm "Đường Cách mệnh" Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ ra
có ba thứ cách mệnh là: Tư bản cách mệnh, dân tộc cách mệnh và giai cấp cách
mệnh. Ở các nước dân tộc chủ nghĩa và tư bản chủ nghĩa, ba cuộc cách mạng
này không tiến hành đồng thời; mỗi cuộc cách mạng đều do một giai cấp cách
mạng lãnh đạo . Ở Việt Nam, do tính quy định của lịch sử, cả ba cuộc cách
mạng đó đều thuộc phạm trù cách mạng vô sản. Sự kiện Hồ Chí Minh đến với
chủ nghĩa Mác-Lênin đã đánh dấu bước ngoặt trong quá trình phát triển tư
tưởng và cuộc đời hoạt động cách mạng của Người: Chủ nghĩa yêu nước chân
chính đã bắt gặp chủ nghĩa quốc tế vô sản. Hồ Chí Minh khẳng định: "Muốn
cứu nước giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách
mạng vô sản". Để thực hiện được mục tiêu đó, Hồ Chí Minh khẳng định:
"Trước hết phải có Đảng Cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân
chúng, ngoài thì liên lạc với các dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp ở mọi nơi.
Đảng có vững, cách mệnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thì
thuyền mới chạy"
Đảng Cộng sản Việt Nam có vai trò lãnh đạo nhân dân Việt Nam cùng
một lúc vừa làm tư sản cách mạng, vừa làm dân tộc cách mạng và làm giai cấp
cách mạng. Đây là đặc điểm lớn nhất của cách mạng vô sản ở Việt Nam do
Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo và cũng là một đặc điểm của sứ mệnh lịch
sử của Đảng đối với giai cấp và dân tộc Việt Nam.
1.1.
Chủ nghĩa Mác – Lênin là chủ nghĩa chân chính nhất, chắc
chắn nhất để lãnh đạo cách mạng
Trên cơ sở nhận thức sâu sắc bản chất của thời đại mới, về nhiệm vụ và sứ
mệnh lịch sử của giai cấp vô sản, về vai trò của những nhân tố đảm bảo cho
cuộc cách mạng giải phóng dân tộc theo quỹ đạo của cách mạng vô sản đi đến
thắng lợi cuối cùng, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Trước hết phải có Đảng cách mệnh,
để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp
bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững cách mệnh mới thành công, cũng
như người cầm lái có vững thuyền mới chạy. Đảng muốn vững thì phải có chủ
nghĩa làm cốt... Bây giờ học thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa
chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin”. Luận
điểm này của Nguyễn Ái Quốc đã khẳng định một vấn đề có tính nguyên tắc,
đặt nền móng lâu dài cho công tác xây dựng đảng về tư tưởng - lý luận.
1.2.
Đường cách mệnh có vai trò trong việc lựa chọn mô hình nhà
nước trong tương lai
Mặc dù đồng ý với tư tưởng dân chủ tiến bộ mà cách mạng Mỹ và cách
mạng Pháp đã tuyên bố trong Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của Mỹ và
Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp năm 1791, nhưng theo
Hồ Chí Minh: "Cách mệnh Pháp cũng như cách mệnh Mỹ, nghĩa là cách
mệnh tư bản, cách mệnh không đến nơi", nên: Muốn dân tộc được độc lập,
muốn nhân dân lao động thoát khỏi thân phận người nô lệ, thì phải làm
cách mạng một cách triệt để. Không thể đi theo con đường cách mạng tư
sản, không thể thiết lập mô hình nhà nước cộng hòa tư sản, nơi chính
quyền chủ yếu thuộc về giai cấp hữu sản, Người đã viết: "Chúng ta đã
hy sinh làm cách mệnh thì nên làm cho đến nơi, nghĩa là làm sao cách
mệnh rồi thì quyền giao cho dân chúng số nhiều, chớ để trong tay một
bọn ít người. Thế mới khỏi hy sinh nhiều lần, thế dân chúng mới được
hạnh phúc".
Ðường Kách mệnh khẳng định cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng
lợi phải đi theo con đường của cách mạng tháng Mười Nga với một
phương pháp cách mạng mới: Ðể tiến hành một cuộc cách mạng mà khi
chính quyền được thành lập là của quảng đại quần chúng, Hồ Chí Minh
đã hướng về một cuộc cách mệnh "đến nơi", và nhấn mạnh, muốn cách
mệnh thành công thì dân chúng (công nông) làm gốc, phải có đảng vững
bền, phải bền gan, phải hy sinh, phải thống nhất.
Vì vậy, cách mạng giải phóng dân tộc Việt Nam theo quỹ đạo cách mạng
vô sản, nhằm thiết lập một thể chế quyền lực thuộc về nhân dân, chính là
con đường: Ðộc lập dân tộc gắn liền với CNXH, để đi tới xã hội cộng sản
chủ nghĩa, với phương pháp vận động quần chúng, phương pháp tổ chức
đấu tranh cách mạng, cách thức xây dựng các tổ chức quần chúng, v.v...
theo những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Thông qua việc nêu
rõ vai trò và cách thức tổ chức Công hội, tổ chức Dân cày, và Hợp tác
xã, Phụ nữ quốc tế, Công nhân quốc tế, v.v... Ðường Kách mệnh khẳng
định đó là nơi quy tụ, tập hợp, phát huy vai trò các tổ chức quần chúng
của Ðảng, nhằm huy động mọi nguồn sức mạnh nội lực cho sự nghiệp
cách mạng
1.3. Tác phẩm Đường cách mệnh có vai trò quan trọng trong
việc chuẩn bị về tư tưởng, chính trị, tổ chức cho sự thành lập chính Đảng
cách mạng ở Việt Nam.
1.3.1. Về tư tưởng
Tác phẩm có ý nghĩa giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
của Nguyễn Ái Quốc cho cán bộ và đông đảo quần chúng nhân dân, nhằm xây
dựng sự thống nhất trong nhận thức tư tưởng, chuẩn bị thành lập Đảng. Tác
phẩm khắc phục tư tưởng sai lầm, ám sát cá nhân, chủ nghĩa cải lương, chủ
nghĩa quốc gia; xác lập hệ tư tưởng mới - tư tưởng của giai cấp công nhân.
1.3.2. Về chính trị
Tác phẩm xây dựng lập trường, quan điểm của giai cấp công nhân
cho cán bộ và quần chúng công nông. Vạch ra được đường hướng cơ bản của
cách mạng Việt Nam, làm cơ sở cho việc xây dựng Cương lĩnh chính trị của
Đảng. Tác phẩm Đường Kách mệnh ra đời đã chấm dứt cuộc khủng hoảng về
đường lối của cách mạng Việt Nam; thúc đẩy phong trào yêu nước, phong trào
công nhân phát triển mạnh mẽ.
1.3.3.Về tổ chức
Đào tạo ra một lớp cán bộ cách mạng kiểu mới chuẩn bị cho việc
thành lập Đảng. Tác phẩm cũng đưa ra hệ thống tổ chức của Đảng và các tổ
chức quần chúng như công hội, nông hội, thanh niên, phụ nữ... để Đảng tập
hợp quần chúng, chuẩn bị về mặt tổ chức cho sự ra đời của Đảng.
CHƯƠNG 3: VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẢNG
CỘNG SẢN TRONG XÂY DỰNG ĐẢNG CSVN TRONG THỜI
KỲ ĐỔI MỚI ( 1986 -2010)
3.1/ Xây dựng Đảng về tư tưởng, lí luận
Để đạt được mục tiêu cách mạng, Hồ Chí Minh chỉ rõ: phải dựa vào lí luận
cách mạng và khoa học của chủ nghĩa Mác- Lênin. Khi huấn luyện cho cán bộ
cách mạng từ năm 1925 – 1927, Người khẳng định: “Đảng muốn vững thì phải
có chủ nghĩa làm cốt, trong đảng ai cũng phải hiểu, ai cũng phải theo chủ nghĩa
ấy. Đảng mà không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn,tàu không
có bàn chỉ nam”; “chủ nghĩa” ấy là chủ nghĩa Mác – Lênin, Hồ Chí Minh ví
như trí khôn của con người, như bàn chỉ nam định hướng con tàu đi, nói lên vai
trò cực kỳ quan trong của lí luận ấy trong tất cả các thời kì cách mạng. Với ý
nghĩa đó, theo Người, chủ nghĩa Mác Lê-nin trở thành “ cốt”, nền tảng tư tưởng
và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam
Việc tiếp nhận và vận dụng chủ nghĩa Mác- Lênin, Hồ Chí Minh lưu ý:
Một là, học tập, nghiên cứu tuyên truyền chủ nghĩa Mác- Lênin, phù hợp với
từng đối tượng
Hai là phải phù hợp với từng hoàn cảnh. Theo Hồ Chí Minh, vận dụng chủ
nghĩa Mác- Lênin phải tránh giáo điều, chống lại việc xa rời các nguyên tắc cơ
bản. Điều này đúng với lời dặn của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I. Lênin đối với
những người cộng sản trên thế giới các ông cho rằng: những qua điểm của các
ông chỉ là phương pháp chỉ dẫn hành động trong thực tế
Ba là, trong quá trình hoạt động, Đảng ta phải chú ý học tập, kế thừa những
kinh nghiệm tốt của các đảng cộng sản khác, phải tổng kết kinh nghiệm của
mình để bổ sung vào chủ nghĩa Mác- Lênin.Chủ nghĩa Mác – Lênin là học
thuyết nêu những vấn đề cơ bản nhất, trên đó mỗi đảng vận dụng vào hoàn
cảnh, điều kiện riêng của mình. Trong vận dụng, mỗi đảng giải quyết thành
công những vấn đề mới, tổng kết thành vấn đề lí luận bổ sung và làm giàu nội
dung của lí luận Mác- Lênin. Đây là thái độ và trách nhiệm của Đảng.
Bốn là, Đảng phải tăng cường đấu tranh bảo vệ sự trong sang của chủ nghĩa
Mác- Lênin, chống luận điểm sai trái, xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa MácLênin.
3.2/ Xây dựng Đảng về chính trị
Tư tưởng Hồ Chí Minh trong việc xây dựng Đảng về chính trị gồm: xây
dựng đường lối chính trị, bảo vệ chính trị, xây dựng và thực hiện nhị quyết, xây
dựng và phát triển hệ tư tưởng chính trị, củng có lập trường chính trị, nâng cao
bản lĩnh chính trị… Trong đó, theo Hồ Chí Minh, đường lối chính trị là vấn đề
cốt tử trong tồn tại và phát triển của Đảng. Hoạch định đường lối chính trị trở
thành một trong những vấn đề cực kỳ quan trọng trong xây dựng Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền có vai trò định hướng phát triền toàn
xã hội. Đảng thực hiện vai trò lãnh đạo toàn chính trị bằng việc đề ra cương
lĩnh, đường lối chiến lược, phương hướng phát triển kinh tế - xã hội sách lược
và quy định những mục tiêu phát triển của xã hội theo hướng lâu dài cũng như
từng giai đoạn. Muốn xây dựng đường lối chính trị đúng đắn cần coi trọng
những vấn đề: đường lối chính trị dựa trên lí luận của chủ nghĩa Mác- Lê-nin,
vận dụng vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta từng thời kỳ; trong xây dựng đường
lối chính trị, học tập kinh nghiệm của các Đảng cộng sản anh em, tính đến
những điều kiện cụ thể của đất nước, thời đại từng giai đoạn hoặc cả thời kì dài;
để có đường lối chính trị đúng, Đảng phải là đội tiên phong dung cảm, bộ tham
mưu sang suốt của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và cả dân tộc.
Hồ Chí Minh lưu ý cần giáo dục đường lối, chính sách Đảng và thông tin
thời sự cho cán bộ, đảng viên để họ kiên định lập trường, giữ vững bản lĩnh
chính trị trong mọi hoàn cảnh. Người cũng cảnh báo nguy cơ sai lầm về đường
lối chính trị gây hậu quả nghiêm trong với vận mệnh Tổ Quốc, sinh mệnh
chính trị hàng triệu đảng viên, hàng triệu nhân dân lao động.
3.3/ Xây dựng Đảng về tổ chức, bộ máy, công tác cán bộ
3.3.1/ Hệ thống tổ chức của Đảng
- Hồ Chí Minh khẳng định sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ tổ chức- tổ chức
tiên phong chiến đấu của giai cấp công nhân. Hệ thông tổ chức của Đảng từ
trung ương đến cơ sở phải chặt chẽ, có tính kỷ luật cao. Mỗi cấp độ có tổ chức
có chức năng, nhiệm vụ riêng.
- Trong hệ thống tổ chức của Đảng, Bác rất coi trọng vai trò của chi bộ. Bởi vì,
đối với bản thân Đảng, chi bộ là tổ chức hạt nhân, quyết định chất lượng lãnh
đạo của Đảng; là môi trường tu dưỡng, rèn luyện và cũng là nơi giám sát đảng
viên; chi bộ có vai trò quan trọng trong việc gắn kết giữa Đảng với quần chúng
nhân dân.
3.3.2/ Các nguyên tắc tồ chức sinh hoạt đảng
+ Tập trung dân chủ: là nguyên tắc cơ bản trong xây dựng Đảng. Giữa “tập
trung” và “dân chủ” có mối quan hệ khăng khít với nhau, đó là hai vấn đề của
một nguyên tắc. Người viết về mối quan hệ đó như sau: Tập trung trên nền tảng
dân chủ; dân chủ dưới sự chỉ đạo tập trung. Hay Bác viết: “Chế độ ta là chế độ
dân chủ, tư tưởng phải được tự do.” Hay khi mọi người đã phát biểu ý kiến, đã
tìm thấy chân lí, lúc đó quyền tự do tư tưởng hóa ra “quyền tự do phục tùng
chân lí”
+ Tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách
Hồ Chí Minh giải thích về tập thể cá nhân lãnh đạo như sau: “Vì sao phải có
tập thể lãnh đạo”
Vì một người dù khôn ngoan tài giỏi mấy, dù nhiều kinh ngiệm đến đâu,
cũng chỉ trông thấy, chỉ xem xét được một hoặc nhiều mặt của một vấn đề,
không thể trông thấy và xem xét tất cả mọi mặt của một vấn đề.
Vì vậy, cần phải có nhiều người. Nhiều người thì nhiều kinh nghiệm. Người
thì thấy rõ mặt này, người trông thấy rõ mặt khác của vấn đề đó. Góp kinh
ngiệm và sự xem xét của nhiều người, thì vấn đề đó được thấy rõ khắp mọi mặt
cho nên vấn đề mới được giải quyết chu đáo, khỏi sai lầm.
Về cá nhân phụ trách, Hồ Chí Minh cho rằng: Việc gì đã được đông người
bàn bạc kĩ lưỡng rồi, thì cần phải giao cho 1 người hoặc 1 nhóm ít người phụ
trách theo kế hoạch đó mà thi hành. Như thế mới có chuyên trách, công việc
mới chạy. Nếu không có cá nhân phụ trách thì sẽ sinh cái tệ người này ỷ cho
người kia, người kia ủy cho người nọ, kết quả là không ai thi hành. Như thế thì
việc gì cũng không xong.”
Thực hiện nguyên tắc này trong công tác xây dựng Đảng phải chú ý khắc
phục tệ độc đoán, chuyên quyền, đồng thời phải chống trả lại cả tình trạng dựa
dẫm tập thể, không dám quyết đoán, không dám chịu trách nhiệm.
+ Tự phê bình và phê bình:
Làm cho phần tốt của mỗi người nảy nở như hoa mùa xuân, làm cho tổ chức
tốt lên, phần xấu bị mất dần đi, vươn tới chân, thiện, mỹ. Mục đích này được
quy định bởi tính tất yếu trong quá trình hoạt động của Đảng ta. Bởi vì, Đảng là
một thực thể của Xã hội, đội ngũ của Đảng bao gồm những người ưu tú, nhưng
trong Đảng cũng không tránh khỏi những khuyết điểm, không phải mọi người
đều tốt, mọi việc đều hay, mỗi con người đều có cái thiện và cái ác ở trong lòng.
Chính vì vậy, Hồ Chí Minh cho rằng, thang thuốc tốt nhất tự phê bình và phê
bình.
Thái độ, phương pháp rự phê bình và phê bình được Người nêu rõ ở những
điểm như: phải tiến hành thường xuyên như người ta rửa mặt hằng ngày; phải
thẳng thắn, chân thành, trung thực, không nể nang, không giấu giếm và cũng
không thêm bớt khuyết điểm, phải có tình yêu thương lẫn nhau”
+ Kỷ luật nghiêm minh tự giác
Sức mạnh của một tổ chức cộng sản và của mỗi đảng viên bắt nguồn từ ý thức
tổ chức kỹ luật nghiêm minh, tự giác. Tính nghiêm minh của kỷ luật Đảng đòi
hỏi tất cả tổ chức đảng, tất cả đảng viên đều bình đẳng trước điều lệ Đảng,
trước pháp luật của nhà nước, trước mọi quyết định của Đảng. Đồng thời Đảng
ta là một tổ chức gồm những người tự nguyện phấn đấu cho ly tưởng cộng sản
chủ nghĩa cho nên tự giác là một yêu cầu bắt buộc đối với mọi tổ chức đảng và
đảng viên. Tính nghiêm minh, tự giác đòi hỏi đảng viên phải gương mẫu trong
cuộc sống, công tác. Uy tín của Đảng bắt nguồn từ sự gương mẫu của mỗi đảng
viên trong việc tự giác tuân thủ kỷ luật của Đảng, của Nhà nước, của đoàn thể
nhân dân.
+ Đoàn kết thống nhất trong Đảng
Sự đoàn kết thống nhất của Đảng phải dựa trên cơ sở lí luận của Đảng là chủ
nghĩa Mác – Lênin; cương lĩnh, điều lệ Đảng; đường lối, quan điểm của Đảng;
nghị quyết của tổ chức đảng các cấp. Đồng thời, muốn đoàn kết thống nhất
trong Đảng phải thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng, thường xuyên và
nghiêm chỉnh phê bình và tự phê bình, thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách
mạng, chống chủ nghĩa cá nhân và các biểu hiện tiêu cực khác, phải “ sống với
nhau có tình có nghĩa”. Có đoàn kết tốt thì mới tạo ra cơ sở vững chắc để thống
nhất ý chí và hành động, làm cho “ Đảng ta tuy đông người nhưng khi tiến
đánh chỉ như một người”
3.3.3/ Cán bộ, công tác cán bộ của Đảng
Hồ Chí Minh đưa ra một hệ thống các quan điểm về cán bộ và công tác
cán bộ. Người nhận thức rất rõ vị trí, vai trò của cán bộ trong sự nghiệp cách
mạng. Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy, là mắt khâu trung gian nối liền
giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Muôn việc thành công hay thất bại là do
cán bộ tốt hay kém. Người cán bộ phải có đầy đủ đức và tài, phẩm chất và năng
lực, trong đó, đức, phẩm chất là gốc.
Người cho rằng, công tác cán bộ là công tác gốc của Đảng. Nội dung của
nó bao gồm các mắc khâu liên hoàn, có quan hệ chặt chẽ với nhau: tuyển chọn
cán bộ; đào tạo, huấn luyện, bồi dưỡng cán bộ; đánh giá đúng cán bộ; tuyển
dụng, sắp xếp, bố trí cán bộ; thực hiện chính sách đối với cán bộ.
3.4/ Xây dựng Đảng về đạo đức
Hồ Chí Minh khẳng định: Một Đảng chân chính cách mạng phải có đạo đức.
Đạo đức tạo nên uy tín, sức mạnh của Đảng, giúp Đảng đủ tư cách lãnh đạo,
hướng dẫn quần chúng nhân dân
Xét về thực chất, đạo đức của Đảng ta là đạo đức mới, đạo đức cách mạng.
Đạo đức đó mang bản chất của giai cấp công nhân, cũng là đạo đức Mác –
Lênin, đạo đức cộng sản chủ nghĩa mà nội dung cốt lõi là chủ nghĩa nhân đạo
chiến đấu. Vì thế, Hồ Chí Minh chỉ rõ: Đảng ta là một đảng cầm quyền. Mỗi
đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Có đạo đức cách mạng trong sang, Đảng ta
mới lãnh đạo nhân dân đấu trang giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu
mạnh, đồng bào sung sướng. Đó là mục tiêu, lý tưởng của Đảng và cũng là tư
cách của một số Đảng cầm quyền.
Giáo dục đạo đức cách mạng là nội dung quan trọng trong việ tu dưỡng, rèn
luyện của cán bộ, đảng viên. Nó gắn chặt với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa
cá nhân dưới mọi hình thức nhằm làm cho Đảng luôn luôn thật sự trong sạch.
Đặc biệt quan tâm đến vấn đề đạo đức, gắn đạo đức với tư cách của một
Đảng chân chính cách mạng, Hồ Chí Minh đã góp phần bổ sung, mở rộng, phát
triển quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin về nội dung công tác xây dựng
Đảng phù hợp vơi truyền thống văn hóa lịch sử của các nước phương Đông,
trong đó có Việt Nam.
PHẦN 3: KẾT LUẬN
Hồ Chí Minh là người sáng lập, đồng thời là người giáo dục và rèn luyện Đảng
Cộng sản Việt Nam trong gần 40 năm. Từ nhu cầu giải phóng dân tộc theo con
đường cách mạng vô sản, vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa MácLênin, Hồ Chí Minh đã kết hợp chặt chẽ giữa nhận thức lý luận và hoạt động,
tổng kết thực tiễn, xác lập nên một hệ thống quan điểm, tư tưởng về Đảng
Cộng sản và xây dựng Đảng Cộng sản trong điều kiện một nước thuộc địa nửa
phong kiến, kinh tế nông nghiệp lạc hậu với các đạc điểm văn hóa truyền thống
phương Đông. Những quan điểm, tư tưởng đó bao gồm các vấn đề có tính quy
luật có liên quan đến sự hình thành, vị trí, vai trò, bản chất của Đảng Cộng sản
và những vấn đề có tính nguyên tắc liên quan đến việc xây dựng Đảng Cộng
sản Việt Nam trong sạch, vững mạnh, nhất là trong điều kiện Đảng trở thành
Đảng cầm quyền. Trong hệ thống các quan điểm đó, Hồ Chí Minh có những
phát kiến đặc biệt sáng tạo, phản ánh mối quan hệ biện chứng giữa tính phổ
biến và tính đạc thù của quy luật hình thành Đảng vô sản kiểu mới trong điều
kiện từng nước; quan điểm về sự thống nhất biện chứng giữa bản chất giai cấp
công nhân với tính dân tộc và tính nhân dân của Đảng; quan niệm về Đảng
Cộng sản cầm quyền và các yếu tố đảm bảo vai trò cầm quyền của Đảng.
Những quan điểm này thật sự là sáng tạo riêng của Hồ Chí Minh, góp phần cụ
thể hóa và phát triển lý luận Mác-Lênin về Đảng Cộng sản.
Trong giai đoạn cách mạng mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân
chủ, công bằng, văn minh, dân tộc ta đang đứng trước nhiều thời cơ, văn hội,
nhưng cũng không ít khó khăn, thách thức. Vai trò lãnh đạo của Đảng càng
được khẳng định, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng cần được nâng
cao hơn bao giờ hết để ngang tầm với các yêu cầu, nhiệm vụ mà lịch sử dân tộc
giao phó. Trong bối cảnh mới, Đảng ta xác định rõ nhiệm vụ xây dựng kinh tế
là trọng tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt gắn chặt với xây dựng nền
văn hóaViệt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, tạo nền tảng tinh thần cho
sự phát triển Xã hội. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta đẩy mạnh công
tác xây dựng Đảng trên tất cả các mặt: tư tưởng – lí luận, chính trị, tổ chức và
cán bộ, đạo đức, làm cho Đảng thật sự trong sạch, đạt đến tầm cao về đạo đức,
trí tuệ, bản lĩnh chính trị, vững vàng trước mọi thử thách của lịch sử.
- Về chính trị, đó là đường lối chính trị đúng đắn, bản lĩnh chính trị vững
vàng trong mọi tình huống phức tạp, mọi bước ngoặt hiểm nghèo, mọi giai
đoạn Cách mạng khác nhau. Trên cở sở kiên định mục tiêu độc lập dân tộc
và CNXH, Đảng biết tập trung giành thắng lợi cho từng bước đi lên của
Cách mạng. Đó là đường lối cứng rắn về chiến lược, mềm dẻo về sách
lược, linh hoạt về biện pháp đấu tranh, tập hợp được lực lưởng của toàn
dân, tranh thủ được sự đồng tình và ủng hộ của quốc tế, tạo thành sức
mạnh vô địch của Cách mạng.
- Về tư tưởng, đó là tư tường cách mạng triệt để, tư tưởng cách mạng tiến
công, chống chủ nghĩa cơ hội, xét lại, giáo điều, bảo thủ. Trên nền tảng
chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng phải biết làm giàu trí
tuệ của mình bằng việc kế thừa và phát huy những truyền thống tốt đẹp
của dân tộc, thâu thái những tinh hoa văn hóa của nhân loại để giành thắng
lợi cho cách mạng.
- Về tổ chức, đó là một tổ chức chính trị trong sạch, vững nạnh; một tổ chức
chiến đấu kiên cường với các nguyên tắc nền móng được tuân thủ nghiêm
ngặt để khi hành động thì muôn người như một. Đó là một tổ chức trọng
chất lượng hơn sô lượng, lấy việc nâng cao vai trò lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng là nhiệm vụ thường xuyên của mỗi cán bộ, Đảng viên và
của toàn Đảng.
- Về đạo đức, lối sống, cán bộ, đảng viên của Đảng coi trọng việc tu dưỡng
đạo đức, cần, kiêm, liêm, chính, chí công vô tư, nâng cao năng lực, gắn bó
máu thịt với nhân dân, dám hy sinh, xả thân vì sự nghiệp cách mạng.
Trong mọi mối quan hệ, cán bộ, Đảng viên không ngừng học tập và làm
theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh để không ngừng hoàn thiện nhân
cách, giành được niềm tin yêu trọn vẹn của nhân dân.
Chúng ta đã đạt được rất nhiều thành tựu trong công tác xây dựng Đảng cầm
quyền, nhưng bất cập, yếu kém, hạn chế cũng không phải ít, nhất là sự suy
thoái về tư tường chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng
viên chưa được ngăn chặn và đẩy lùi. Những hạn chế này đang làm giảm sút
niềm tin của nhân dân đối với Đảng, hạn chế năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của Đảng. Được chiếu rọi bởi ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta
quyết tâm xây dựng về mọi mặt một cách thiết thực; xác định đổi mới và chỉnh
đốn Đảng đáp ứng nhu cầu phát triển của giai cấp và dân tộc là quy luật tồn tại
sống còn của Đảng. Chính trên ý nghĩa đó, việc tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứ,
tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng và xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh phải được quán triệt đến từng tổ chức cơ sở Đảng, từng cán
bộ, đảng viên.
PHẦN 4: PHẦN PHỤ LỤC
Tài liệu tham khảo trên mạng Internet
PHẦN 5: TƯ LIỆU, TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tác phẩm “Đường Kách Mệnh” của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản
chính trị quốc gia, năm 2006, trang 43