Nguyễn Thị Hương Khánh Ly
Tìm hiểu Nho giáo1
TÌM HIỂU VỀ NHO GIÁO
Một trong những tư tưởng triết học Phương Đông có tầm ảnh hưởng cho đến tận
ngày nay đó là Nho giáo.
A, SỰ RA ĐỜI
Nho giáo được sáng lập bởi Khổng Tử vào khoảng những năm cuối thời
Xuân Thu, Trung Quốc (khoảng thế kỉ VI TCN). Sau thời Chiến Quốc, học thuyết
của Khổng Tử được Mạnh Tử, Tuân Tử phát triển theo hai xu hướng khác nhau.
Mỗi thời đại ở Trung Hoa lại có một kiểu Nho giáo khác nhau về mức độ và sắc
thái như Hán Nho, Tống Nho, Minh Nho,…càng về giai đoạn sau càng phong phú.
Nho giáo lấy con người làm trung tâm. Ngay từ khi sinh ra nó đã có những
điểm khác căn bản với các tư tưởng, tôn giáo khác. Đạo Nho đề cao sự sống và con
người trong khi Phật Giáo coi đời là bể khổ nên tìm cách giải thoát; Lão Giáo thì
yếm thế, bi quan,… Có lẽ chính vì thế mà Nho đạo giữ vị trí độc tôn và được ưu
chuộng trong thời gian rất của lịch sử.
Không có danh giới cụ thể nào để phân chia rạch ròi Nho giáo ở các quốc
gia trong khu vực Đông Bắc Á. Chỉ có nền tảng chính là Nho Giáo Trung Hoa, vì
đây là nơi nó sinh ra, phát triển, sau đó mới lan rộng. Do Việt Nam nằm gần Trung
Quốc, lại có chung nền văn hóa lúa nước nên sớm có sự giao lưu, gần gũi, Nho
Giáo có điều kiện để đi vào nước ta.
B, QUÁ TRÌNH XÂM NHẬP VÀO VIỆT NAM
Các giả thuyết cho rằng có 3 con đường Nho giáo truyền bá và gây ảnh
hưởng với các nước trong khu vực
1. Con đường thứ nhất:
Đó là sự ảnh hưởng tự nhiên của một hệ tư tưởng từ bên ngoài do sự phát
triển không đồng đều về trình độ xã hội giữa các dân tộc. Vào thời điểm Nho gia
được truyền bá, Trung Quốc (TQ) phát triển cao hơn hẳn láng giềng xung quanh. Ở
trong tình trạng kém phát triển hơn, Việt Nam (VN) khi gặp Nho giáo với toàn bộ
kiến thức và quan niệm trình bày mạch lạc, có lập luận dẫn chứng, được ghi lại
bằng văn tự thì nhân dân tự nguyên học tập và vận dụng sáng tạo nó.
2. Con đường thứ hai:
Là con đường mang tính qui luật xã hội.
Khi con người đã có sự ổn định về dân số, có trình độ thích ứng với tự nhiên thì sẽ
xuất hiện các chuyến di cư từ lãnh thổ này sang lãnh thổ khác. Tùy vào trình độ
1
Nguyễn Thị Hương Khánh Ly
Tìm hiểu Nho giáo2
phát triển của quốc gia mà nhóm người này sẽ tiếp thu hay truyền bá giá trị Văn
hóa của nơi họ từng sống tới vùng lãnh thổ mới. Trên thực tế thì có rất nhiều người
TQ đã di cư sang VN.
3. Con đường thứ 3:
Thì mang tính cưỡng ép, đồng hóa nhiều hơn. Nền văn minh Trung Hoa bấy
giờ đã đạt đến đỉnh cao, hình thành nhà nước quân chủ chuyên chế với quân đội
mạnh mẽ muốn đi bành trướng thế lực và lãnh thổ nên đã tiến hành các cuộc xâm
lược với các quốc gia lân cận đồng thời tiến hành “đồng hóa” về văn hóa.
Con đường Nho Giáo du nhập vào Việt Nam đầu tiên và chủ yếu qua quá trình xâm
lược, đô hộ “đồng hóa”. Năm 111 TCN, nhà Hán thôn tính Nam Việt. Ngay từ thời
Tây Hán, Nho giáo đã được truyền bá. Các vị quan đô hộ mở trường dạy Nho học
và truyền bá phong tục Hán tộc. Tuy nhiên Nho giáo và chữ Hán trong suốt thời kì
Bắc thuộc chỉ phát triển trong bộ phận quan lại đô hộ và tầng lớp trên của xã hội,
chưa có ảnh hưởng lớn đến dân chúng ở các làng xóm mà chủ yếu hòa nhập do
khuynh hướng thích nghi và hòa nhập tín ngưỡng dân gian cổ truyền của người
Việt.
C, Đặc điểm của Nho học VN
1. Nho giáo đối với xã hội VN phong kiến.
Nho giáo phục vụ nhu cầu phát triển của xã hội phong kiến
Dù các triều đình VN đã kế thừa, cải tạo lý luận Nho giáo cho phù hợp song
nguyên lý cơ bản của nó vẫn phục vụ chế độ phong kiến, dùng Nho giáo để xây
dựng triều đại. Nho giáo với các lý thuyết như mệnh vua do trời sắp đặt, bề tôi phải
trung với vua, vua ra vua,… đã được nhà Lý cũng như các triều đại sau vận dụng
chặt chẽ, giúp quyền lực tập trung vào triều đình.
Giáo dục:
Nho giáo ngoài có công trong việc dựng nước về mặt chế độ còn cung cấp
kiến thức cho các nhà Nho đấu tranh yêu nước, nhiều mệnh đề, khái niệm của Nho
giáo dựa trên lập trường yêu nước, có tác dụng tích cực đối với công cuộc cứu
nước của dân tộc VN như “đại trượng phu” thì có “nhân nghĩa”, mang “mệnh
trời”…
Nho giáo có đầy đủ lý thuyết và qui chế về giáo dục: thi cử để tuyển quan
lại, nhân tài phục vụ nhà nước. “Ngũ kinh”, “Tứ thư”, “Tam sử” làm tài liệu giáo
dục con người, tăng cường học vấn, bồi dưỡng con người.
Phương pháp kết hợp học đi đôi với hành (lời nói kết hợp với việc làm, thực
hành điều đã học và đem tri thức của mình vận dụng vào trong cuộc sống). phương
pháp coi trọng tinh thần tự giác, sự nỗ lực của người học: "Bất phẫn, bất khải; bất
phỉ, bất phát. Cử nhứt ngung, bất dĩ tam ngung phản, tắc bất phục giã" (Kẻ nào
2
Nguyễn Thị Hương Khánh Ly
Tìm hiểu Nho giáo3
chẳng phấn phát lên để hiểu thông, thì ta chẳng giúp cho hiểu thông được. Kẻ nào
chẳng ráng lên để tỏ ý kiến mình, thì ta chẳng khai phát cho được. Kẻ nào đã biết
rõ một góc, nhưng chẳng chịu căn cứ vào đó để biết luôn ba góc kia, thì ta chẳng
dạy kẻ ấy nữa)
Tuy nhiên Nho giáo vẫn còn nhiều giáo điều, khuôn sáo dập khuôn, làm kìm
hãm phát triển xã hội, nhất là ở các vùng nông thôn. Một số phương pháp giáo dục
được coi là tích cực thời bấy giờ hiện nay nếu không biết vận dụng sáng tạo sẽ dẫn
đến sai lầm, quá trình dạy học sẽ không có hiệu quả thậm chí hiệu quả ngược lại.
Ví dụ, phương pháp “ôn cố nhi tri tân” với nguyên tắc “thuật nhi bất tác” thì có thể
sẽ dẫn đến lối học vẹt, thụ động, thiếu sáng tạo. Nếu “ôn cổ” theo kiểu thuộc lòng
mọi câu chữ của “cổ nhân”, thuật lại, lặp lại, làm y nguyên lại mà “bất tác”, không
sáng tạo, không làm ra cái mới và việc quá đề cao “ôn cố nhi tri tân” một cách
phiến diện, một chiều thì điều đó sẽ tạo nên sự trì trệ, bảo thủ trong quá trình giáo
dục và trong lĩnh vực hoạt động tinh thần nói chung.
2. Nho giáo với văn hóa VN
“Lễ” là một tư tưởng quan trọng của Nho giáo. Nhiều phong tục tập
quán của người Việt chịu ảnh hưởng không nhỏ như: tế lễ, đám cưới, ma chay, hội
hè,… Tục lệ Hán đã làm phong phú thêm tục lệ Việt. Tất nhiên nó vẫn gắn với đời
sống cơ bản là nghề lúa nước. Song nhiều phong tục có phần cổ hủ, lạc hậu, “trọng
nam kinh nữ”.
Văn học, nghệ thuật: Có rất nhiều tác phẩm mang màu sắc Nho giáo
như: thơ Đường, chữ Hán,…
3. Hoạt động đối ngoại và Nho giáo
Cứ hàng năm VN phải có đoàn sang TQ tiến cống và TQ cử sứ giả sang
phong vương. Sự đi lại trên là dịp để 2 bên trao đổi Văn hóa, học tập không ngừng
của VN với Nho học TQ.
Thế nhưng về sau này, Nho giáo lại là nguyên nhân cốt yếu làm cản trở sự
giao thương, tiếp cận cái mới với phương Tây.
4. Nho học với kinh tế
Do ý thức hệ Nho giáo, một số nghề nghiệp trong xã hội Việt Nam đã bị coi
khinh, mặc dù cần thiết, có ích cho cuộc sống của con người như nghề xướng ca,
nghề thương mại... Ý thức hệ Nho giáo hoàn toàn thắng thế, chính sách “trọng
nông ức thương”, “bế quan tỏa cảng” trở thành một thứ quốc sách, kìm hãm đất
nước trong vòng lạc hậu đói nghèo, là một trong những nguyên nhân dẫn đến mất
nước về tay Pháp.
5. Phong cách tư duy của Nho giáo VN
Hướng tới cái thực tế, xa lánh cái siêu hình, cao xa.
3
Nguyễn Thị Hương Khánh Ly
Tìm hiểu Nho giáo4
Đa số Nho sĩ chỉ quan tâm đến vấn đề chính trị, đạo đức, ít sáng tạo, tư duy trừu
tượng. Chính bởi vậy nên học ít có cống hiến to lớn, mới mẻ , chỉ có số ít các nhà
văn hóa lớn như Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm,…
Thói quen thích đơn giản, ngắn gọn
Tài liệu Nho giáo từ TQ thường được biên soạn lại cho ngắn gọn. Đơn giản, súc
tích có ưu điểm là dễ nhớ, dễ truyền đạt nhưng cũng là mặt hạn hcees, làm giảm đi
tính phong phú, đa dạng của học thuyết.
Nho giáo VN còn thiếu tính học thuật, lệ thuộc vào phương Bắc, vận
dụng đơn điệu, một chiều.
Nho gia VN thiếu sự vận động bên trong, phản tỉnh bản thân. Lại thêm tập tính
sùng bái thánh hiền, lối tư duy giáo điều, máy móc. Nên trì trệ là điều không tránh
khỏi.
D, Tổng kết
Không thể phủ nhận rằng Nho giáo đã tham gia vào việc tạo nên diện mạo tính
thần dân tộc và sự hình thành văn hóa dân tộc dù nhiều quan điểm đã trở nên cổ
hủ, lỗi thời, kìm hãm phát triển dân tộc. Nhưng chúng ta không hổ thẹn khi nói
rằng chúng ta đi lên CNXH là kế thừa truyền thống Nho xưa, những quan điểm “
tín nghĩa” “ham học” “hiếu thảo” đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
4