Tải bản đầy đủ (.docx) (80 trang)

Nghiên cứu về dịch vụ công trực tuyến và xây dựng ứng dụng minh họa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.25 MB, 80 trang )

1
LỜI CẢM ƠN
Khóa luận được hoàn thành tại Trường đại học Hùng Vương. Trong
quá trình làm khóa luận tốt nghiệp em đã nhận được rất nhiều sự giúp đỡ để
hoàn tất khóa luận.
Xin gửi lời cảm ơn đến quý thầy cô khoa Kỹ thuật – Công nghệ,
Trường đại học Hùng Vương, những người đã truyền đạt kiến thức quý báu
cho em suốt trong thời gian học tập vừa qua. Đặc biệt em xin trân thành cảm
ơn thầy giáo Đinh Thái Sơn đã trực tiếp hướng dẫn, giúp đỡ em trong quá
trình làm khóa luận. Thầy đã truyền đạt cho em những kiến thức quý báu
cũng như các nhận xét, góp ý để em có thể hoàn thành tốt khóa luận tốt
nghiệp của mình.
Sau cùng xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè và các bạn sinh viên
lớp k12 đại học công nghệ thông tin đã luôn động viên, giúp đỡ em trong quá
trình làm khóa luận tốt nghiệp.
Tuy nhiên vì kiến thức chuyên môn còn hạn chế và bản thân còn thiếu
nhiều kinh nghiệm thực tiễn nên nội dung của báo cáo không tránh khỏi
những thiếu xót, em rất mong nhận sự góp ý, chỉ bảo thêm của quý thầy cô
cùng toàn thể các bạn sinh viên để báo cáo này được hoàn thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn!
Người thực hiện
Tô Anh Diễm


2
MỤC LỤC


3
DANH MỤC CÁC CỤM TỪ VIẾT TẮT
ST


T
1

2

3
4
5
6

7

8

9
10
11

12

Tên viết tắt

Ý nghĩa

Là ngôn ngữ đánh dấu siêu văn bản,
đây là một ngôn ngữ đánh dấu được
HTML: HyperText Markup
thiết kế ra để tạo nên các trang web với
Language
các mẩu thông tin được trình bày trên

World Wide Web.
Là cơ quan quyền lực nhà nước tại địa
HĐND: Hội đồng nhân dân phương, từ cấp xã tới cấp tỉnh, thuộc
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam.
Là mạng nội bộ, giao thức này có thể
cho phép các thiết bị kết nối với nhau
LAN: Local Area Network
để làm việc, chơi game, hay chia sẻ gửi
dữ liệu với nhau.
NITF: National Imagery
Là định dạng truyền hình ảnh quốc gia.
Transmission Format
NĐ – CP: Nghị định chính Là loại văn bản thuộc hệ thống văn bản
phủ
quy phạm pháp luật Việt Nam.
Là máy tính cá nhân, đây là một thiết
PC: Personal Computer
bị điện tử thực hiện các thao tác toán
học, logic học và đồ hoạ.
Là các thiết bị cầm tay vốn được thiết
PDA: Personal Digital
kế như một cuốn sổ tay cá nhân và
Assistant
ngày càng tích hợp thêm nhiều chức
năng.
Là một nhóm các đặc tả của tổ chức
RDF: Resource Description World Wide Web Consortium có nguồn
Framework
gốc được thiết kế như là mô hình dữ
liệu siêu liên kết.

Là một định dạng tập tin thuộc họ
RSS: Really Simple
XML dùng trong việc chia sẻ tin tức
Syndication
Web (Web syndication) được dùng bởi
nhiều website tin tức và weblog.
Là cổng thông tin ứng dụng chuyên
SAP: Specialized portals
biệt.
Là hệ quản trị cơ sở dữ liệu tự do
MySQL: Structured Query nguồn mở phổ biến nhất thế giới và
Language
được các nhà phát triển rất ưa chuộng
trong quá trình phát triển ứng dụng.
Là định vị tài nguyên thống nhất, được
URL: Uniform Resource
dùng để tham chiếu tới tài nguyên trên
Locator
Internet.


4

13

UBND: Uỷ ban nhân dân

14

WML: Wireless Markup

Language

15

XML: eXtensible Markup
Language

Là một cơ quan hành chính nhà nước
của hệ thống hành chính Cộng hòa Xã
hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây là cơ
quan thực thi pháp luật tại các cấp tỉnh,
huyện và xã.
Đó là một ngôn ngữ đánh dấu kế thừa
từ HTML, nhưng WML được dựa trên
XML, do đó nó có cấu trúc chặt chẽ
hơn HTML.
Là ngôn ngữ đánh dấu mở rộng, đây là
ngôn ngữ đánh dấu với mục đích chung
do World Wide Web Consortium đề
nghị, để tạo ra các ngôn ngữ đánh dấu
khác.

DANH MỤC HÌNH ẢNH


5
A. MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề nghiên cứu
1.1. Sự cần thiết của vấn đề nghiên cứu
Bảo đảm cung cấp dịch vụ hành chính công là một chức năng quan

trọng của nhà nước. Trong bối cảnh công nghệ thông tin đang phát triển hết
sức mạnh mẽ, thâm nhập vào mọi mặt của đời sống xã hội, nhu cầu về cung
cấp dịch vụ hành chính công trực tuyến có hiệu quả là một nhiệm vụ quan
trọng cần phải tập trung giải quyết được đặt ra như một ưu tiên quan trọng
trong chiến lược phát triển kinh tế, xã hội bền vững và vì con người. Để có
thể giải quyết nhiệm vụ xây dựng dịch vụ công trực tuyến một cách hiệu quả,
phù hợp với mục tiêu xây dựng chính phủ điện tử của Việt Nam và xu hướng
phát triển cần phải có nghiên cứu và đánh giá một cách nghiêm túc và toàn
diện các mặt kinh nghiệm, lý luận và thực tiễn triển khai liên quan tới hoạt
động cung cấp dịch vụ hành chính công trực tuyến.
Cùng với đó, thông tin về thực trạng hạ tầng công nghệ thông tin, cải
cách hành chính gắn với ứng dụng công nghệ thông tin tại một số cơ quan nhà
nước được thu thập, cho phép việc phân loại, đánh giá nhu cầu phát triển dịch
vụ hành chính công trực tuyến phục vụ người dân, doanh nghiệp được thực
hiện. Căn cứ trên thông tin bài học kinh nghiệm và các đánh giá thực trạng,
các yêu cầu chung về hệ thống thông tin để đảm bảo tính khả thi, phù hợp và
giảm thiểu chi phí khi xây dựng dịch vụ hành chính công trực tuyến được xác
định.
Hiện nay với sự phát triển nhanh chóng của khoa học công công nghệ
đặc biệt là ngành công nghệ thông tin thì việc sử dụng và khai thác hơn nữa
thế mạnh của ứng dụng công nghệ trên toàn quốc, tạo một phương thức mới
trong quan hệ giữa chính quyền với công dân, doanh nghiệp và các tổ chức xã
hội. Với nhu cầu ngày một tăng mạnh về các dịch vụ hành chính thì việc triển
khai dịch vụ hành chính công “một cửa điện tử”, đây là một hình thức mới
được chính phủ triển khai bằng việc ứng dụng công nghệ thông tin giúp tạo


6
điều kiện thuận lợi cho các cá nhân, tổ chức có nhu cầu giải quyết các thủ tục
hành chính một cách nhanh chóng tại một địa chỉ truy cập duy nhất. Người

dân có thể thông qua mạng internet kiểm tra, giám sát về tình trạng giải quyết
hồ sơ. Hệ thống cung cấp một nền tảng ứng dụng để từng bước cho phép các
cơ quan hành chính nhà nước phối hợp giải quyết thủ tục hành chính trên môi
trường mạng một cách xuyên suốt, nhất quán theo tinh thần “một cửa liên
thông”. Dịch vụ công trực tuyến giúp làm thay đổi phương thức làm việc,
nâng cao hiệu lực hiệu quả của các cơ quan nhà nước, tạo điều kiện dễ dàng
cho người dân, chính phủ và doanh nghiệp kết nối với nhau, trao đổi thông tin
và cộng tác với nhau dễ dàng, hiệu quả. Từ những vấn đề cấp thiết nói trên
em đã chọn “Nghiên cứu về dịch vụ công trực tuyến và xây dựng ứng dụng
minh họa” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình.
1.2. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn
Cung cấp dịch vụ chất lượng cao nhằm đáp ứng nhu cầu của người dân
và doanh nghiệp là mục tiêu đầu tiên khi xây dựng chính phủ điện tử. Đảm
bảo luông thông tin thông suốt là vấn đề ưu tiên hàng đầu để chính phủ hoạt
động một cách hiệu lực, hiệu quả. Như vậy, các quy chuẩn kỹ thuật cũng cần
được nghiên cứu ban hành nhằm đảm bảo tính liên thông, tính tích hợp dữ
liệu, tốc độ kết nối các dịch vụ trực tuyến, cơ chế hoạt động v.v..
Kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan
nhà nước xây dựng nền tảng phục vụ chính phủ điện tử của trong đó có nội
dung xây dựng, ban hành tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về công
nghệ thông tin áp dụng trong các cơ quan nhà nước.
Đề tài nghiên cứu xây dựng triển khai dịch vụ hành chính công trực
tuyến tại Việt Nam nói chung cũng như tỉnh Phú Thọ nói riêng là hết sức cần
thiết và đóng góp một phần cho những nỗ lực thúc đẩy xây dựng chính phủ
điện tử của nước ta trong giai đoạn hiện nay.
2. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài


7
2.1. Mục tiêu chung

Nghiên cứu về dịch vụ công trực tuyến và xây dựng ứng dụng minh
họa.
2.2. Mục tiêu cụ thể
- Có cái nhìn tổng quan về dịch vụ công trực tuyến.
- Nghiên cứu các dịch vụ công được cung cấp trực tuyến trên mạng
thông tin điện tử hành chính nhà nước nói chung và tỉnh Phú Thọ nói riêng.
- Xây dựng ứng dụng minh họa dịch vụ công trực tuyến về lĩnh vực
hành chính.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Nghiên cứu những nội dung căn bản về dịch vụ
công trực tuyến. Tìm hiểu phân tích hiện trạng và nhu cầu phát triển của các
hệ thống dịch vụ công đã được triển khai tại một số tỉnh thành của nước ta.
Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu dịch vụ công trực tuyến tại tỉnh phú
thọ và một số tỉnh lận cận.
4. Phương pháp nghiên cứu
Hiện nay có rất nhiều phương pháp nghiên cứu khoa học khác nhau.
Trong đề tài này em sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau:
• Phương pháp nghiên cứu phân tích và tổng hợp lý thuyết: Đọc và
nghiên cứu tài liệu, các thông tư văn bản pháp lý của nhà nước có liên quan
đến việc triển khai dịch vụ hành chính công trực tuyến.
• Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: Qua việc triển khai dịch vụ hành
trính công trực tuyến đã được thực hiện ở một số tính thành của nước ta đưa
ra những ưu điểm hạn chế còn tồn tại từ đó rút ra kinh nghiệm để áp dụng vào
việc nghiên cứu.
• Phương pháp lấy ý kiến chuyên gia: Lấy ý kiến của giảng viên trực
tiếp hướng dẫn, các giảng viên khác để hoàn thiện về mặt nội dung và hình
thức của khóa luận.
5. Bố cục đề tài



8
Bao gồm 3 chương:
- Chương 1: Tổng quan về dịch vụ công trực tuyến
- Chương 2: Hiện trạng và nhu cầu phát triển dịch vụ công trực tuyến
tại Việt Nam nói chung và tỉnh Phú Thọ nói riêng
- Chương 3: Xây dựng ứng dụng minh họa về dịch vụ công trực tuyến


9
B. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ DỊCH VỤ CÔNG TRỰC TUYẾN
1.1. Giới thiệu chung về dịch vụ công
1.1.1. Khái niêm dịch vụ công
Dịch vụ công có quan hệ chặt chẽ với phạm trù hàng hóa công cộng.
Theo ý nghĩa kinh tế học, hàng hóa công cộng có một số đặc tính cơ bản như:
1. Là loại hàng hóa mà khi đã được tạo ra thì khó có thể loại trừ ai ra
khỏi việc sử dụng nó.
2.Việc tiêu dùng của người này không làm giảm lượng tiêu dùng của
người khác.
3.Và không thể vứt bỏ được, tức là ngay khi không được tiêu dùng thì
hàng hóa công cộng vẫn tồn tại.
Nói một cách giản đơn, thì những hàng hóa nào thỏa mãn cả ba đặc tính
trên được gọi là hàng hóa công cộng thuần túy, và những hàng hóa nào không
thỏa mãn cả ba đặc tính trên được gọi là hàng hóa công cộng không thuần túy.
Từ giác độ chủ thể quản lý nhà nước, các nhà nghiên cứu hành chính
cho rằng dịch vụ công là những hoạt động của cơ quan nhà nước trong việc
thực thi chức năng quản lý hành chính nhà nước và đảm bảo cung ứng các
hàng hóa công cộng phục vụ nhu cầu chung, thiết yếu của xã hội. Cách hiểu
này nhấn mạnh vai trò và trách nhiệm của nhà nước đối với những hoạt động
cung cấp hàng hóa công cộng cho rằng đặc trưng chủ yếu của dịch vụ công là

hoạt động đáp ứng nhu cầu thiết yếu của xã hội và cộng đồng, còn việc tiến
hành hoạt động ấy có thể do nhà nước hoặc tư nhân đảm nhiệm.
Khái niệm và phạm vi dịch vụ công sẽ biến đổi tùy thuộc vào bối cảnh
của mỗi quốc gia. Chẳng hạn, ở Canada, có tới 34 loại hoạt động được coi là
dịch vụ công, từ quốc phòng, an ninh, pháp chế, đến các chính sách kinh tế –
xã hội (tạo việc làm, quy hoạch, bảo vệ môi trường, và các hoạt động y tế,
giáo dục, văn hóa, bảo hiểm xã hội,…). Trong đó, Pháp và Italia đều quan
niệm dịch vụ công là những hoạt động phục vụ nhu cầu thiết yếu của người
dân do các cơ quan nhà nước đảm nhiệm hoặc do các tổ chức cá nhân thực
hiện theo những tiêu chuẩn, quy định của nhà nước. Ở Pháp, khái niệm dịch


10
vụ công được hiểu rộng, bao gồm các hoạt động phục vụ nhu cầu về tinh thần
và sức khỏe của người dân (như giáo dục, văn hóa, y tế, thể thao,… thường
được gọi là hoạt động sự nghiệp), các hoạt động phục vụ đời sống dân cư
mang tính công nghiệp (điện, nước, giao thông công cộng, vệ sinh môi
trường,… thường được coi là hoạt động công ích), hay các dịch vụ hành chính
công bao gồm các hoạt động của cơ quan hành chính về cấp phép, hộ khẩu,
hộ tịch,… mà cả hoạt động thuế vụ, trật tự, an ninh, quốc phòng,…; còn ở
Italia dịch vụ công được giới hạn chủ yếu ở hoạt động sự nghiệp (y tế, giáo
dục) và hoạt động kinh tế công ích (điện, nước sạch, vệ sinh môi trường) và
các hoạt động cấp phép, hộ khẩu, hộ tịch do cơ quan hành chính thực hiện.
Ở Việt Nam, tập trung nhiều hơn vào chức năng phục vụ xã hội của nhà
nước, mà không bao gồm các chức năng công quyền, như lập pháp, hành
pháp, tư pháp, ngoại giao,… qua đó nhấn mạnh vai trò chủ thể của nhà nước
trong việc cung cấp các dịch vụ cho cộng đồng. Điều quan trọng là chúng ta
phải sớm tách hoạt động dịch vụ công (lâu nay gọi là hoạt động sự nghiệp) ra
khỏi hoạt động hành chính công quyền như chủ trương của chính phủ đã đề ra
nhằm xóa bỏ cơ chế bao cấp, giảm tải cho bộ máy nhà nước, khai thác mọi

nguồn lực tiềm tàng trong xã hội, và nâng cao chất lượng của dịch vụ công
phục vụ người dân. Điều 22 của luật tổ chức chính phủ (2001) quy định: “Bộ,
cơ quan ngang bộ là cơ quan của chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà
nước các dịch vụ công thuộc ngành, lĩnh vực v.v..”. Điều này không có nghĩa
là nhà nước độc quyền cung cấp các dịch vụ công mà trái lại nhà nước hoàn
toàn có thể xã hội hóa một số dịch vụ, qua đó trao một phần việc cung ứng
một phần của một số dịch vụ, như y tế, giáo dục, cấp thoát nước v.v.. cho khu
vực phi nhà nước thực hiện.
Có thể thấy rằng khái niệm và phạm vi các dịch vụ công cho dù được
tiếp cận ở nhiều góc độ khác nhau, chúng đều có tính chất chung là nhằm
phục vụ cho nhu cầu và lợi ích chung thiết yếu của xã hội. Ngay cả khi nhà
nước chuyển giao một phần việc cung ứng dịch vụ công cho khu vực tư nhân


11
thì nhà nước vẫn có vai trò điều tiết nhằm đảm bảo sự công bằng trong phân
phối các dịch vụ này và khắc phục các bất cập của thị trường.
Từ những tính chất trên đây, “dịch vụ công” được hiểu theo nghĩa rộng
và nghĩa hẹp.
Theo nghĩa rộng, dịch vụ công là những hàng hoá, dịch vụ mà chính
phủ can thiệp vào việc cung cấp nhằm mục tiêu hiệu quả và công bằng. Theo
đó, dịch vụ công là tất cả những hoạt động nhằm thực hiện các chức năng vốn
có của chính phủ, bao gồm từ các hoạt động ban hành chính sách, pháp luật,
toà án,… cho đến những hoạt động y tế, giáo dục, giao thông công cộng.
Theo nghĩa hẹp, dịch vụ công được hiểu là những hàng hoá, dịch vụ
phục vụ trực tiếp nhu cầu của các tổ chức và công dân mà chính phủ can thiệp
vào việc cung cấp nhằm mục tiêu hiệu quả và công bằng.
1.1.2. Đặc điểm của các dịch vụ công
- Là những hoạt động có tính chất xã hội, phục vụ lợi ích chung của cả
cộng đồng. Đây là những dịch vụ phục vụ các lợi ích tối cần thiết của xã hội

để bảo đảm cuộc sống được bb́ình thường và an toàn.
- Là những hoạt động do các cơ quan công quyền hay những chủ thể được
chính quyền ủy nhiệm đứng ra thực hiện.
- Việc trao đổi dịch vụ công thông qua quan hệ thị trường đầy đủ. Thông
thường, người sử dụng dịch vụ công không trực tiếp trả tiền, hay nói đúng
hơn là đã trả tiền dưới hb́ình thức đóng thuế vào ngân sách nhà nước để nhà
nước tổ chức việc cung ứng một cách đều đặn như một sự "thỏa thuận trước".
Nhưng cũng có những dịch vụ mà người sử dụng vẫn phải trả thêm một phần
hoặc toàn bộ kinh phí. Tuy nhiên, đối với các loại dịch vụ này, nhà nước vẫn
có trách nhiệm bảo đảm việc cung ứng không nhằm vào mục tiêu thu lợi
nhuận.
- Để cung ứng các dịch vụ công, các cơ quan nhà nước và tổ chức được ủy
nhiệm cung ứng có sự giao tiếp với người dân ở những mức độ khác nhau khi
thực hiện cung ứng dịch vụ.
- Mọi người dân (bất kể đóng thuế nhiều hay ít, hoặc không phải đóng
thuế) đều có quyền hưởng sự cung ứng dịch vụ công ở một mức độ tối thiểu,
với tư cách là đối tượng phục vụ của chính quyền. Lượng dịch vụ công cộng


12
mà mỗi người tiêu dùng không phụ thuộc vào mức thuế mà người đó đóng
góp.
- Khác với những loại dịch vụ thông thường được hiểu là những hoạt động
phục vụ không tạo ra sản phẩm mang hb́ình thái hiện vật, dịch vụ công là
những hoạt động của bộ máy nhà nước phục vụ các nhu cầu thiết yếu của xã
hội, bất kể các sản phẩm được tạo ra có hb́ình thái hiện vật hay phi hiện vật.
- Xét trên góc độ kinh tế học, dịch vụ công là các hoạt động cung ứng cho
xã hội những hàng hóa công cộng. Theo nghĩa hẹp, hàng hóa công cộng là
loại hàng hóa mà khi nó đă được tạo ra thb́ ì khó có thể loại trừ ai ra khỏi việc
sử dụng nó; và việc tiêu dùng của mỗi người không làm giảm lượng tiêu dùng

của người khác. Hàng hóa công cộng mang lại lợi ích không chỉ cho những
người mua nó, mà cho cả những người không phải trả tiền cho hàng hóa này.
Đó là nguyên nhân dẫn đến chỗ chính phủ trở thành người sản xuất hoặc bảo
đảm cung cấp các loại hàng hóa công cộng.
Theo nghĩa rộng, hàng hóa công cộng là "những hàng hóa và dịch vụ được
Nhà nước cung cấp cho lợi ích của tất cả hay đa số nhân dân". Dịch vụ công
là những hoạt động cung ứng các hàng hóa công cộng xét theo nghĩa rộng,
bao gồm cả những hàng hóa có tính cá nhân thiết yếu được nhà nước bảo đảm
cung ứng như điện, nước sinh hoạt,...
1.1.3. Các loại dịch vụ công
Dịch vụ công có thể phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau, xét theo tiêu
chí chủ thể cung ứng, dịch vụ công được chia thành 3 loại, như sau:
- Dịch vụ công do cơ quan nhà nước trực tiếp cung cấp: Đó là những dịch
vụ công cộng cơ bản do các cơ quan của nhà nước cung cấp. Thí dụ, an ninh,
giáo dục, phổ thông, chăm sóc y tế công cộng, bảo trợ xã hội,…
- Dịch vụ công do các tổ chức phi chính phủ và khu vực tư nhân cung cấp,
gồm những dịch vụ mà nhà nước có trách nhiệm cung cấp, nhưng không trực
tiếp thực hiện mà ủy nhiệm cho tổ chức phi chính phủ và tư nhân thực hiện,
dưới sự đôn đốc, giám sát của nhà nước. Thí dụ các công trình công cộng do
chính phủ gọi thầu có thể do các công ty tư nhân đấu thầu xây dựng.


13
- Dịch vụ công do tổ chức nhà nước, tổ chức phi chính phủ, tổ chức tư
nhân phối hợp thực hiện. Loại hình cung ứng dịch vụ này ngày càng trở nên
phổ biến ở nhiều nước. Như ở Trung Quốc, việc thiết lập hệ thống bảo vệ trật
tự phối hợp thực hiện.
Dựa vào tính chất và tác dụng của dịch vụ được cung ứng, có thể chia dịch
vụ công thành các loại sau:
- Dịch vụ hành chính công: Đây là loại dịch vụ gắn liền với chức năng

quản lý nhà nước nhằm đáp ứng yêu cầu của người dân.
Do vậy, cho đến nay, đối tượng cung ứng duy nhất các dịch vụ công này là
cơ quan công quyền hay các cơ quan do nhà nước thành lập được ủy quyền
thực hiện cung ứng dịch vụ hay dịch vụ công. Đây là một phần trong chức
năng quản lý nhà nước, để thực hiện chức năng này, nhà nước phải tiến hành
những hoạt động phục vụ trực tiếp như cấp giấy phép, giấy chứng nhận, đăng
ký, công chứng, thị thực, hộ tịch,…(Ở một số nước, dịch vụ hành chính công
được coi là một loại hoạt động riêng, không nằm trong phạm vi dịch vụ công.
Ở nước ta, một số nhà nghiên cứu cũng có quan điểm như vậy). Người dân
được hưởng những dịch vụ này không theo quan hệ cung cầu, ngang giá trên
thị trường, mà thông qua việc đóng lệ phí hoặc phí cho cơ quan hành chính
nhà nước. Phần lệ phí này mang tính chất hỗ trợ ngân sách nhà nước.
- Dịch vụ sự nghiệp công: Bao gồm các hoạt động cung cấp phúc lợi xã
hội thiết yếu cho người dân như giáo dục, văn hóa, khoa học, chăm sóc sức
khỏe, thể dục thể thao, bảo hiểm, an sinh xã hội,…
Xu hướng chung hiện nay trên thế giới là nhà nước chỉ thực hiện những
dịch vụ công nào mà xã hội không thể làm được hoặc không muốn làm nên
nhà nước đã chuyển giao một phần việc cung ứng loại dịch vụ công này cho
khu vực tư nhân và các tổ chức xã hội.
- Dịch vụ công ích: Là các hoạt động cung cấp các hàng hóa, dịch vụ cơ
bản, thiết yếu cho người dân và cộng đồng như: Vệ sinh môi trường, xử lý rác
thải, cấp nước sạch, vận tải công cộng đô thị, phòng chống thiên tai,… chủ
yếu do các doanh nghiệp nhà nước thực hiện. Có một số hoạt động ở địa bàn


14
cơ sở do khu vực tư nhân đứng ra đảm nhiệm như vệ sinh môi trường, thu
gom vận chuyển rác thải ở một số đô thị nhỏ, cung ứng nước sạch ở một số
vùng nông thôn.
1.2. Dịch vụ công trực tuyến

1.2.1. Các khái niệm cơ bản liên quan đến dịch vụ công trực tuyến
Dịch vụ hành chính công: là những dịch vụ liên quan đến hoạt động
thực thi pháp luật, không nhằm mục đích lợi nhuận, do cơ quan nhà nước
(hoặc tổ chức, doanh nghiệp được ủy quyền) có thẩm quyền cấp cho tổ chức,
cá nhân dưới hình thức các loại giấy tờ có giá trị pháp lý trong các lĩnh vực
mà cơ quan nhà nước đó quản lý.
Dịch vụ công trực tuyến: là dịch vụ hành chính công và các dịch vụ
khác của cơ quan nhà nước được cung cấp cho các tổ chức, cá nhân trên môi
trường mạng.
Dịch vụ công trực tuyến mức độ 1: là dịch vụ đảm bảo cung cấp đầy đủ
các thông tin về quy trình, thủ tục, hồ sơ, thời hạn, phí và lệ phí thực hiện dịch
vụ.
Dịch vụ công trực tuyến mức độ 2: là dịch vụ công trực tuyến mức độ 1
và cho phép người sử dụng tải về các biểu mẫu văn bản và khai báo để hoàn
thiện hồ sơ theo yêu cầu. Hồ sơ sau khi hoàn thiện được gửi trực tiếp hoặc
qua được bưu điện đến cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ.
Dịch vụ công trực tuyến mức độ 3: là dịch vụ công trực tuyến mức độ 2
và cho phép người sử dụng điền và gửi trực tiếp các mẫu văn bản đến cơ
quan, tổ chức cung cấp dịch vụ. Các giao dịch trong quá trình xử lý hồ sơ và
cung cấp dịch vụ được thực hiện trên môi trường mạng. Việc thanh toán lệ phí
(nếu có) và nhận kết quả được thực hiện trực tiếp tại cơ quan, tổ chức cung
cấp dịch vụ.
Dịch vụ công trực tuyến mức độ 4: là dịch vụ công trực tuyến mức độ 3
và cho phép người sử dụng thanh toán lệ phí (nếu có) được thực hiện trực
tuyến. Việc trả kết quả có thể được thực hiện trực tuyến, gửi trực tiếp hoặc
qua đường bưu điện đến người sử dụng.


15
Qua đó, với việc triển khai dịch vụ công trực tuyến ở mức độ 3 và dịch

vụ công trực tuyến mức 4 người dân và doanh nghiệp có thể làm việc với các
cơ quan hành chính nhà nước ở mọi nơi, mọi lúc chỉ cần có kết nối internet.
Các giao dịch trong quá trình xử lý hồ sơ và cung cấp dịch vụ sẽ được thực
hiện trên môi trường mạng. Người dân chỉ cần đến duy nhất 1 lần để nhận kết
quả và thanh toán lệ phí tại cơ quan cung cấp dịch vụ.
1.2.2. Ưu điểm của dịch vụ công trực tuyến
Việc áp dụng các dịch vụ công trực tuyến sẽ giúp các đơn vị, cơ quan
nhà nước giảm thiểu được các áp lực công việc, giải quyết được các công việc
nhanh hơn, thuận tiện hơn và khoa học hơn. Qua đó, người dân có thể tiết
kiệm được thời gian và chi phí đăng ký, làm các thủ tục hành chính. Đặc biệt
việc áp dụng các dịch vụ công trực tuyến sẽ tránh được những tệ nạn tham
nhũng, quan liêu từ những cán bộ công quyền. Người dân có thể thông qua
mạng internet kiểm tra, giám sát về tình trạng giải quyết hồ sơ. Hệ thống cung
cấp một nền tảng ứng dụng để từng bước cho phép các cơ quan hành chính
nhà nước phối hợp giải quyết thủ tục hành chính trên môi trường mạng một
cách xuyên suốt, nhất quán theo tinh thần “một cửa liên thông”. Công dân, tổ
chức chỉ phải đến duy nhất 1 lần để thanh toán lệ phí và nhận kết quả được
thực hiện trực tiếp tại bộ phận “một cửa” của cơ quan, đơn vị. Từ kết quả ứng
dụng, công dân có thể đăng ký hồ sơ trực tuyến mọi lúc mọi nơi và được hỗ
trợ, thông tin trực tuyến (hệ thống tổng đài tin nhắn, hệ thống hỗ trợ kỹ
thuật,...). Việc đẩy mạnh dịch vụ công trực tuyến còn giúp khai thác tối đa dữ
liệu dân cư trong việc cung cấp dịch vụ công trực tuyến đến công dân, doanh
nghiệp. Thông qua đó, giảm bớt các thông tin, dữ liệu cần phải cung cấp khi
làm thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho công dân, doanh nghiệp. Đồng thời,
làm cơ sở để hình thành công dân điện tử và hồ sơ, dữ liệu điện tử của công
dân.
1.2.3. Cổng thông tin điện tử - Portal
1.2.3.1. Khái niệm



16
Cổng thông tin điện tử - Portal là điểm truy cập tập trung và duy nhất;
tích hợp các kênh thông tin dịch vụ, ứng dụng; là một sản phẩm hệ thống
phần mềm được phát triển dựa trên một sản phẩm phần mềm cổng lõi (portal
core) thực hiện trao đổi thông tin, đồng thời thực hiện cung cấp trao đổi với
người sử dụng thông qua một phương thức thống nhất trên nền tảng web tại
bất kì thời điểm nào và bất kỳ đâu.

Hình 1. 1. Hệ thống cổng thông tin điện tử.
1.2.3.2. Các tính năng cơ bản của cổng thông tin điện tử
Tuy có nhiều loại cổng thông tin khác nhau, cung cấp nhiều loại dịch
vụ và ứng dụng khác nhau, nhưng tất cả các loại cổng thông tin đều có chung
một số tính năng cơ bản. Các tính năng này là được sử dụng như là một tiêu
chuẩn để phân biệt giữa cổng thông tin với một website tổng hợp tin tức, với
ứng dụng quản trị nội dung web, hoặc với một ứng dụng chạy trên nền tảng
web.
Các tính năng cơ bản của cổng thông tin điện tử:
a. Khả năng cá nhân hoá:
Cổng thông tin điện tử - Web Portal hiển thị hay thể hiện theo nhiều
cách khác nhau tuỳ thuộc vào nhóm người sử dụng.
Mỗi cá nhân có thể tự chỉnh sửa, tái lập lại các hiển thị thông tin, ứng
dụng, nội dung theo sở thích hoặc để phù hợp với công việc của mình.
b. Khả năng phân loại nội dung:


17
Cho phép tổ chức nội dung và ứng dụng theo nhiều cách khác nhau để
đáp ứng những yêu cầu không giống nhau của các nhóm bên trong một tổ
chức.
c. Khả năng tìm kiếm và chỉ mục:

Portal cung cấp hoặc tích hợp được các hệ thống tìm kiếm và đánh chỉ
mục các văn bản, tài liệu để giúp người sử dụng có thể nhanh chóng truy xuất
đến những thông tin họ cần.
d. Khả năng quản lý nội dung:
Là một tính năng hữu hiệu cho phép người sử dụng không cần hiểu biết
về kỹ thuật có thể tạo lập được nội dung.
Portal cũng phải kiểm soát được các truy xuất đến từng nội dung để
đảm bảo chỉ những người có quyền mới có thể truy nhập được các văn bản
mà họ được cấp phép.
e. Tích hợp nhiều loại thông tin:
Cho phép xây dựng nội dung thông tin từ nhiều nguồn khác nhau cho
nhiều đối tượng sử dụng.
Sự khác biệt giữa các nội dung thông tin sẽ được xác định qua các ngữ
cảnh hoạt động của người dùng.
Ví dụ như: Đối với từng đối tượng sử dụng sau khi thông qua quá trình
xác thực thì sẽ được cung cấp các thông tin khác nhau, hoặc nội dung thông
tin sẽ được cung cấp khác nhau trong quá trình cá nhân hoá thông tin.
f. Khả năng tích hợp các ứng dụng:
Portal cung cấp một môi trường tích hợp toàn bộ các ứng dụng Website
đang có. Khía cạnh tích hợp này bao gồm hỗ trợ truy cập một lần (một cổng),
kể cả các tài nguyên, trang Web bên ngoài, hỗ trợ các dịch vụ Website và có
thể hiểu Portal mạng lại một ứng dụng được tích hợp.
g. Các công cụ phát triển:
Sản phẩm Portal cung cấp các công cụ phát triển mạnh mẽ và dựa trên
các tiêu chuẩn, cho phép kỹ thuật viên tích hợp các ứng dụng và các chức
năng Portal mở rộng khác.
Các tính năng của một ứng dụng lớn: Portal đáp ứng được các tính
năng chuẩn của một phần mềm ứng dụng lớn như: Khả năng đáp ứng được dư
thừa dữ liệu, khả năng chịu lỗi, khả năng cân bằng tải (chia luồng xử lý), khả
năng sao lưu.

h. Xuất bản thông tin:


18
Thu thập thông tin từ nhiều nguồn khác nhau, cung cấp cho người dùng
thông qua các phương pháp hoặc giao thức một cách thích hợp.
Một hệ thống xuất bản thông tin chuyên nghiệp phải có khả năng xuất
bản thông tin với các định dạng đã được quy chuẩn, ví dụ như RDF, RSS,
NITF và NewsXML. Ngoài ra, các tiêu chuẩn dựa trên XML cũng phải được
áp dụng để quản trị và hiển thị nội dung một cách thống nhất, xuyên suốt
trong quá trình xuất bản thông tin.
Các tiêu chuẩn dựa trên XML này cho phép đưa ra giải pháp nhanh
nhất để khai thác và sử dụng thông tin trên các Website khác nhau thông qua
quá trình thu thập và bóc tách thông tin với các định dạng đã được quy chuẩn.
i. Hỗ trợ nhiều môi trường hiển thị thông tin:
Portal phải có khả năng vận hành đa nền, đa phương tiện. Cho phép
người sử dụng có thể sử dụng nhiều hệ điều hành khác nhau, thông qua các
trình duyệt web khác nhau để truy xuất vào Portal.
Portal cho phép hiển thị cùng một nội dung thông tin trên nhiều loại
thiết bị khác nhau như màn hình máy tính (PC), thiết bị di động (Mobile
phone, Wireless phone, PDA), sử dụng để in hay cho bản fax,… một cách tự
động bằng cách xác định thiết bị hiển thị thông qua các thuộc tính khác nhau.
Ví dụ: cùng một nội dung đó, khi hiển thị trên màn hình máy tính thì sử
dụng HTML, nhưng khi hệ thống xác định được thiết bị hiển thị là PDA hay
mobile phone, hệ thống sẽ loại bỏ các ảnh có trong nội dung và tự động
chuyển nội dung đó sang định dạng WML (Wireless Markup Language) để
phù hợp cho việc hiển thị trên màn hình của thiết bị di động.
k. Khả năng đăng nhập một lần:
Cho phép dịch vụ xuất bản thông tin hoặc các dịch vụ khác của portal
lấy thông tin về người dùng khi hoạt động mà không phải yêu cầu người dùng

phải đăng nhập lại mỗi khi có yêu cầu.
Đây là một tính năng rất quan trọng vì các ứng dụng và dịch vụ trong
portal sẽ phát triển một cách nhanh chóng khi xuất hiện nhu cầu, mà các ứng
dụng và dịch vụ này tất yếu sẽ có các nhu cầu về xác thực hoặc truy xuất
thông tin người dùng.
l. Khả năng bảo mật:


19
Portal cung cấp được các hệ thống xác thực và cấp phép mạnh. Bất kỳ
sự tích hợp các hệ thống nào, với khả năng nhập một lần, đều phải được bảo
mật và ngăn chặn các giao dịch không hợp lệ của người sử dụng trên các ứng
dụng khác nhau.
m. Quản trị portal:
Xác định cách thức hiển thị thông tin cho người dùng cuối. Tính năng
này không chỉ đơn giản là thiết lập các giao diện người dùng với các chi tiết
đồ hoạ, với tính năng này, người quản trị phải định nghĩa được các thành phần
thông tin, các kênh tương tác với người sử dụng cuối, định nghĩa nhóm người
dùng cùng với các quyền truy cập và sử dụng thông tin khác nhau.
n. Quản trị người dùng:
Cung cấp các khả năng quản trị người dùng cuối, tuỳ thuộc vào đối
tượng sử dụng của portal.
Tại đây, người sử dụng có thể tự đăng ký trở thành thành viên tại một
cổng thông tin công cộng (như Yahoo, MSN,…) hoặc được người quản trị tạo
lập và gán quyền sử dụng tương ứng đối với các công thông tin doanh nghiệp.
Mặt khác, tuỳ vào từng kiểu portal mà số lượng thành viên có thể từ vài nghìn
tới hàng triệu.
Hiện tại phương pháp phân quyền sử dụng dựa trên vai trò được sử
dụng như một tiêu chuẩn để cung cấp thông tin phân quyền sử dụng cho các
đối tượng khác nhau trong các portal cũng như các ứng dụng Web.

1.2.3.3. Phân loại cổng thông tin điện tử
Các trang web cổng thông tin điện tử thường được sử dụng cho các cơ
quan hành chính nhà nước, các cơ quan trực thuộc chính phủ. Hiện
nay, website cổng thông tin điện tử được mở rộng sang thị trường các doanh
nghiệp, tổ chức lớn, thậm chí các doanh nghiệp vừa và nhỏ, ngân hàng,
trường học,… Dựa vào các loại dịch vụ và nhu cầu sử dụng khác nhau
để phân loại các dạng cổng thông tin điện tử đang có hiện nay. Cổng thông tin
cung cấp cho người dùng cuối nhiều loại dịch vụ khác nhau với nhiều nhu cầu
khác nhau, có thể phân loại các dạng cổng thông tin điện tử (portal) như sau:


20
Cổng thông tin công cộng (Public portals): ví dụ như Yahoo, loại cổng
thông tin này thường được sử dụng để ghép nối các thông tin lại với nhau từ
nhiều nguồn, nhiều ứng dụng và từ nhiều người, cho phép cá nhân hoá
(personalization) các website theo tuỳ từng đối tượng sử dụng.
Cổng thông tin doanh nghiệp (“Enterprise portals” hoặc “Corporate
Desktops”): được xây dựng để cho phép các thành viên của doanh nghiệp sử
dụng và tương tác trên các thông tin và ứng dụng nghiệp vụ tác nghiệp của
doanh nghiệp.
Cổng thông tin ứng dụng chuyên biệt (Specialized portals): ví dụ như
SAP portal, cổng thông tin loại này cung cấp các ứng dụng chuyên biệt khác
nhau.
Cổng giao dịch điện tử (Marketplace portals): cổng thông tin liên kết
giữa người bán và người mua. Ví dụ: các trang webeBay, ChemWeb.
1.2.3.4. Các cấp độ của Portal
Ở Việt Nam cổng điện tử có thể gọi dưới nhiều cái tên khác nhau là
cổng thông tin điện tử hoặc cổng giao tiếp điện tử hoặc cổng giao dịch điện tử
cả ba tên gọi này lần lượt thể hiện ba cấp độ phát triển khác nhau từ thấp đến
cao.

a. Cổng thông tin điện tử:
Khái niệm này tự nó giải thích, nghĩa là một dạng website tổ chức theo
hướng portal và sử dụng công nghệ portal, chủ yếu mang tính chất thông tin.
Đây là bước phát triển đầu tiên của quá trình xây dựng cổng giao tiếp điện tử
và cổng giao dịch điện tử sau này.
b. Cổng giao tiếp điện tử:
Là bước kế thừa của một cổng thông tin điện tử, nhưng giàu dịch vụ
hơn, và điều căn bản là cung cấp các khả năng giao tiếp 2 chiều giữa người
cung cấp và người sử dụng. Bên trong của hình thức này là các khả năng giao
tiếp ngang có tính chất liên thông và tự động cao.
c. Cổng giao dịch điện tử:
Là bước kế thừa của một cổng giao tiếp điện tử, nhưng giàu dịch vụ
thương mại, dịch vụ trực tuyến hơn, hướng tới một “cuộc sống trực tuyến”
cho mỗi người.


21
Ngày càng nhiều dịch vụ được ghép thêm vào cổng, kể cả các ứng dụng
thương mại điện tử hay chính phủ điện tử của địa phương.
Cổng giao dịch còn thực hiện các chức năng giao dịch với các nhà cung
cấp dịch vụ khác, các cổng khác, một cách tự động thông qua các dịch vụ
công nghệ bên dưới hệ thống mà người dùng không cần quan tâm.
Portal cho phép cung cấp nhiều loại dịch vụ Internet trên cùng một
trang chủ, sử dụng mô hình cổng, ngoài nhiệm vụ chính còn cung cấp một số
dịch vụ miễn phí như công cụ tìm kiếm, tin tức trong và ngoài nước, nơi truy
tìm hàng bán, thư điện tử hay phòng thoại (chat room) và các diễn đàn. Đây là
một mô hình tổng hợp nhiều chức năng, ngày càng được ưa chuộng vì sự đa
dạng của nó. Mô hình này có nhiều ưu điểm, nhưng cũng đòi hỏi phải đầu tư
rất lớn và quản lý chuyên nghiệp để có thể là một “khu phố” trên mạng của
mọi người.

1.2.3.5. Sự khác biệt giữa website thông thường và Portal
Cổng thông tin điện tử là một phương tiện để truy cập đến số lượng lớn
dịch vụ. Trong khi đó, website là một điểm đến tham khảo thông tin.
Thuật ngữ website thường ám chỉ đến một vị trí trên mạng toàn cầu (Internet)
duy nhất và có thể truy cập đến thông qua một địa chỉ (thuật ngữ tin học gọi là
URL). Với định nghĩa này, cổng thông tin điện tử thực tế cũng là một website
mà thôi. Có thể xem đây là điểm giống nhau cơ bản của hai sản phẩm này.
Sự khác biệt chính giữa cổng thông tin điện tử khác với Website là:
Website được xây dựng như một đơn vị thông tin độc lập, còn cổng
thông tin được thiết kế để trở thành trung tâm tích hợp thông tin, ứng dụng và
dịch vụ mạng.
Với cổng thông tin điện tử người dùng có thể tìm được mọi dịch vụ cần
thiết để khai thác và xử lý thông tin chỉ cần đăng nhập một lần theo cơ chế
một cửa.
Phân tích điểm khác biệt của Website và cổng thông tin điện tử theo
những tiêu chuẩn sau:
 Tính xác thực:
Cổng thông tin điện tử:


22
Cung cấp đặc tính Logging-In. Từ đó, cổng thông tin điện tử sẽ cung
cấp những thông tin tương ứng với việc xác thực bạn là ai.
Rõ ràng, nếu một doanh nghiệp thành lập một cổng thông tin điện
tử: Khách hàng, đối tác sẽ nhận những thông tin khác nhau.
Ví dụ: gmail.com
Website:
Không cần thiết phải có chức năng login.
 Tính cá nhân hóa:
Cổng thông tin điện tử:

Nội dung hạn chế và tập trung. Cắt giảm nhu cầu truy cập đến nhiều
website khác. Chỉ tập trung vào nội dung của cổng thông tin điện tử đó.
Khi chúng ta đăng nhập vào hòm thư gmail, chúng ta chỉ nhận và nhìn
thấy các thư của chúng ta mà thôi.
Website:
Nội dung mở rộng và không tập trung, viết cho tất cả mọi người.
 Tính tùy biến :
Cổng thông tin điện tử:
Được phép tổ chức và chọn lựa những nội dung mà bạn cần muốn sử
dụng cũng như truy cập.
Website:
Vì nội dung dàn trải nên được cung cấp thêm tính năng tìm kiếm nhưng
không tùy chỉnh theo mong muốn của bản thân được tốt nhất. Nội dung dành
cho tất cả người truy cập.
CHƯƠNG 2: HIỆN TRẠNG VÀ NHU CẦU PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ
CÔNG TRỰC TUYẾN TẠI VIỆT NAM NÓI CHUNG VÀ TỈNH
PHÚ THỌ NÓI RIÊNG
2.1. Đặc trưng của dịch vụ hành chính công Việt Nam
Dịch vụ hành chính công Việt Nam có những đặc trưng riêng biệt, để
phân định nó với các loại dịch vụ công khác, thì cần căn cứ vào những đặc
trưng cơ bản sau:
Thứ nhất, việc cung ứng dịch vụ hành chính công luôn gắn với thẩm
quyền mang tính quyền lực pháp lý, gắn với các hoạt động của các cơ quan
hành chính nhà nước trong việc cấp các loại giấy phép, giấy khai sinh, chứng


23
minh thư nhân dân; công chứng, xử lý và xử phạt hành chính, kiểm tra, thanh
tra hành chính,… Do dịch vụ hành chính công gắn liền với thẩm quyền hành
chính pháp lý của bộ máy nhà nước nên loại dịch vụ này chỉ có thể do các cơ

quan hành chính nhà nước thực hiện.
Thứ hai, phục vụ cho hoạt động quản lý của nhà nước. Dịch vụ hành
chính công bản thân nó không thuộc về chức năng quản lý nhà nước, song lại
là những hoạt động nhằm phục vụ cho chức năng quản lý dịch vụ hành chính
công là những dịch vụ mà nhà nước bắt buộc và khuyến khích người dân phải
làm để bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Nhu cầu được cấp các loại giấy tờ trên
không xuất phát từ nhu cầu tự thân của họ, mà xuất phát từ những quy định có
tính chất bắt buộc của nhà nước. Càng nhiều người sử dụng dịch vụ hành
chính công thì càng tạo điều kiện cho hoạt động quản lý nhà nước được thực
hiện tốt hơn.
Thứ ba, dịch vụ hành chính công là những hoạt động không vụ lợi, nếu
có thu tiền thì thu dưới dạng lệ phí để nộp ngân sách nhà nước. Lệ phí không
mang tính chất bù đắp hao phí lao động cho bản thân người cung cấp dịch vụ,
mà chủ yếu là nhằm tạo ra sự công bằng giữa người sử dụng dịch vụ với
người không sử dụng dịch vụ.
Thứ tư, mọi người dân có quyền ngang nhau trong việc tiếp cận và sử
dụng các dịch vụ này với tư cách là đối tượng phục vụ của chính quyền. Nhà
nước có trách nhiệm và nghĩa vụ cung cấp dịch vụ để phục vụ cho mọi người
dân, không phân biệt đó là người như thế nào.
2.2. Các loại hình cơ bản của dịch vụ hành chính công Việt Nam
Dịch vụ hành chính công Việt Nam có những đặc trưng riêng gắn với
từng loại hình riêng biệt, cụ thể như sau:
- Các hoạt động cấp các loại giấy phép. Giấy phép là một loại giấy tờ
do các cơ quan hành chính nhà nước cấp cho các tổ chức và công dân đề thừa
nhận về mặt pháp lý, thể hiện quyền của các chủ thể này được tiến hành một
hoạt động nào đó phù hợp với các quy định của pháp luật trong lĩnh vực được
cấp phép.


24

- Các hoạt động cấp các loại giấy xác nhận, chứng thực, bao gồm: Công
chứng, cấp chứng minh thư nhân dân, cấp giấy khai sinh, khai tử, cấp giấy
đăng ký kết hôn, cấp giấy phép lái xe, đăng ký ô tô, xe máy, tàu thuyền,...
- Các hoạt động cấp giấy đăng ký kinh doanh và chứng chỉ hành
nghề,... Giấy đăng ký kinh doanh được cấp cho chủ thể kinh doanh khi chủ
thể này thành lập doanh nghiệp hoặc cơ sở kinh doanh của mình. Giấy phép
hành nghề là một loại giấy tờ chứng minh chủ thể này có đủ khả năng và điều
kiện hoạt động theo quy định của pháp luật đối với một nghề nhất định nào
đó.
Ví dụ: Giấy phép hành nghề luật sư, hành nghề khám chữa bệnh,…
- Hoạt động thu các khoản đóng góp vào ngân sách và các quỹ của nhà
nước. Các hoạt động này gắn với nghĩa vụ mà nhà nước yêu cầu các chủ thể
trong xã hội phải thực hiện.
- Giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và xử lý các vi phạm hành
chính. Hoạt động này nhằm bảo vệ các quyền cơ bản của công dân trong mối
quan hệ giữa cơ quan hành chính nhà nước với công dân.
2.3. Thực trạng dịch vụ hành chính công Việt Nam
Trong nghị quyết số 53/2007/NQ-CP ngày 07/11/2007 của chính phủ
trong chương trình hành động thực hiện nghị quyết hội nghị lần thứ V ban
chấp hành trung ương đảng về đẩy mạnh cải cách nền hành chính, nâng cao
hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước là một chủ trương được đảng
và nhà nước ta chỉ đạo quyết liệt trong giai đoạn gần đây. Việt Nam chuẩn bị
đánh giá 10 năm thực hiện cải cách hành chính nhà nước, trong quá trình
hướng tới xây dựng mô hình cải cách hành chính phục vụ khách hàng, cán bộ,
công chức trong khu vực công và các bên kinh tế, xã hội liên quan cần tham
gia đầy đủ hơn nữa vào quá trình đánh giá này. Việc tự đánh giá kết quả công
việc và sự tham gia của Mặt trận tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể và các tổ
chức xã hội dân sự trong việc theo dõi, đánh giá vai trò của hành chính công
trong phát triển kinh tế là việc làm rất cần thiết.



25
Trong những năm qua, nhà nước đã chú trọng đổi mới và nâng cao chất
lượng cung ứng dịch vụ hành chính công, coi đó là một khâu quan trọng trong
thực hiện chương trình cải cách nền hành chính nhà nước theo hướng hiện
đại, chuyên nghiệp. Nhiều nơi đã áp dụng các phương tiện kỹ thuật điện tử,
tin học hiện đại để nâng cao chất lượng dịch vụ công như trong hoạt động cấp
giấy chứng đăng ký kinh doanh, cấp phép đầu tư, cấp đăng ký xe máy, giấy
chứng minh thư nhân dân,...; tổ chức đấu thầu các dự án chi tiêu công; rà soát
để loại bỏ những thủ tục hành chính không cần thiết, các giấy phép còn gây
phiền hà cho người dân khi tiếp cận dịch vụ hành chính công, rút ngắn thời
gian cung ứng dịch vụ. Đặc biệt là sáp nhập các đơn vị hành chính theo hướng
tinh gọn, ví dụ như việc tinh giảm biên chế tại các cơ quan hành chính nhà
nước, việc sáp nhập một số cơ quan hành chính tại bộ công thương, việc sáp
nhập các phòng đăng ký kinh doanh tại sở kế hoạch và đầu tư thành phố Hà
Nội.
Khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, hành chính nhà nước đang
thực hiện chuyển chức năng quản lý nhà nước sang các hình thức hoạt động
cung cấp dịch vụ công. Mặt khác, trong quá trình chuyển đổi, sự kết hợp giữa
nhà nước với các thành phần kinh tế trong hoạt động cung cấp dịch vụ đang
trở nên phổ biến. Hoạt động cung cấp dịch vụ thu phí vốn nằm trong tay nhà
nước đang được chuyển dịch dần sang khu vực tư (ví dụ: các văn phòng công
chứng tư), nhà nước chỉ đóng vai trò xúc tiến. Trong điều kiện chung hiện
nay, hoạt động cung cấp dịch vụ công đang được nhà nước thực hiện bằng
nhiều biện pháp khác nhau. Các cơ quan hành chính nhà nước chỉ tập trung
vào những loại hàng hóa và dịch vụ mà xã hội cần, nhưng thiếu người cung
cấp hoặc không muốn cung cấp và trong nhiều trường hợp cung cấp không
hiệu quả.
Cùng với sự phát triển của xã hội, chức năng cung cấp dịch vụ công từ
phía cơ quan nhà nước ngày càng trở nên quan trọng. Tuy nhiên, trong nền

kinh tế thị trường, việc cung cấp dịch vụ công thỏa mãn nhu cầu của người
dân không chỉ do nhà nước đảm nhiệm, mà nó còn dần được xã hội hóa với


×