SỰ KIẾN TẠO THỜI THƠ
ẤU TRONG VĂN HỌC
LÃNG MẠN VIỆT NAM TỪ
ĐẦU THẾ KỶ XX ĐẾN 1945
- Thời thơ ấu trong văn hóa Việt Nam đầu thế kỉ XX
Để tạo nên sự bùng nổ của chủ đề thời thơ ấu trong văn
học lãng mạn Việt Nam từ đầu thế kỷ XX đến 1945 cần phải có
những nhân tố chuẩn bị từ trước. Đó là sự xuất hiện hình ảnh
trẻ thơ trong văn học trung đại và trong nhiều loại hình diễn
ngôn những năm đầu thế kỷ XX.
- Trong khi trên thế giới, văn học thiếu nhi ra đời khoảng
thế kỉ XVIII – XIX thì ở Việt Nam, văn học viết về trẻ em, viết
cho trẻ em cũng như các áng văn chương viết về thời thơ ấu ra
đời muộn hơn, khoảng những năm đầu thế kỉ XX. Trong suốt
thời trung đại, trẻ em và thời thơ ấu chưa được coi là đối tượng
quan tâm của văn học. Trải qua hàng nghìn năm Bắc thuộc và
những cuộc chiến tranh xâm lược cùng với âm mưu đồng hóa
của Trung Quốc, văn học trung đại Việt Nam chịu ảnh hưởng
sâu đậm từ văn học Trung Quốc từ những môtip nghệ thuật đến
những truyền thống tư tưởng. Văn học trung đại Việt Nam là
nền văn học phi ngã, văn học để tỏ chí, tỏ lòng, mang nặng tính
chất giáo huấn. Để chuyển tải những nội dung đó, nhân vật
trung tâm của văn học trung đại là người trưởng thành già dặn
trong suy nghĩ và hành động. Hiếm hoi lắm mới thấy nhân vật
trẻ em xuất hiện nhưng trẻ em không được miêu tả như là chính
nó, người viết không đặt điểm nhìn ở trẻ em mà đều xuất phát
từ điểm nhìn của người lớn, điểm nhìn bên ngoài để miêu tả
thế giới trẻ thơ. Trẻ em không có tiếng nói riêng, không trở
thành một thế giới riêng mà chỉ như một "người lớn thu nhỏ".
Trong nhiều tác phẩm, trẻ em xuất hiện như một chức năng hơn
là một số phận, tính cách. Khi cần, trẻ em hiện lên trong một
thời điểm, khoảnh khắc, khi chức năng hoàn tất, nhân vật biến
mất. Nhân vật bao giờ cũng hoàn toàn trùng khít với chức năng
của nó. Bé Đản trong Chuyện người con gái Nam Xương của
Nguyễn Dữ là một ví dụ điển hình. Nó không được miêu tả
đúng như đặc điểm thể chất và tâm lí của tuổi thơ, không có suy
nghĩ, cảm xúc mà chỉ giống như một "công cụ" nhằm giúp cho
nhà văn thực hiện ý đồ thắt nút và cởi nút cho câu chuyện. Câu
nói ngây thơ của Đản với cha khi cha vừa đi lính trở về: "Trước
đây, thường có một người đàn ông, đêm nào cũng đến, mẹ Đản
đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản
cả" đã vô tình gieo oan cho Vũ Nương, khiến Trương Sinh ghen
tuông mù quáng dẫn đến cái chết đau lòng của nàng. Rồi cũng
chính câu nói ngây thơ của Đản: "Cha Đản lại đến kia kìa" cùng
hành động chỉ tay vào cái bóng của Trương Sinh trên vách đã vô
tình giải oan cho Vũ Nương, khiến cho Trương Sinh tỉnh ngộ,
thấu hiểu nỗi oan ức của vợ cho dù mọi chuyện đã quá muộn
màng. Nguyễn Dữ đã miêu tả lời nói và hành động của bé Đản
hết sức ngắn gọn, vừa đủ để thực hiện chức năng mà nhà văn
giao cho nhân vật.
Bài thơ Chiều hôm nhớ nhà của Bà huyện Thanh Quan
cũng nhắc đến hình ảnh trẻ em trong bộ tứ: ngư, tiều, canh, mục
nhưng hoàn toàn chỉ mang tính chất ước lệ như một công thức,
môtip quen thuộc chứ không được tả thực với những đặc điểm
riêng biệt của trẻ thơ:
Gác mái ngư ông về viễn phô
Gõ sừng mục tử lại cô thôn
Đến Cao Bá Quát và Nguyễn Du, hình ảnh trẻ thơ bắt đầu
được miêu tả chân thực hơn, có thể đặt nền tảng đầu tiên cho
văn học viết về trẻ em sau này. Trong thơ Cao Bá Quát, ngoài
những chủ đề xã hội còn có những bài thơ ông viết về vợ con,
bài nào cũng thắm thiết xúc động. Hình ảnh những đứa trẻ cũng
hiện lên trong ánh nhìn chan chứa yêu thương của người cha.
Còn Nguyễn Du trong lần đi sứ sang Trung Quốc năm 18131814 đã đau xót khi chứng kiến cảnh ba đứa trẻ nghèo khổ cùng
mẹ lê la bên đường xin ăn, nhà thơ đã vẽ nên một bức tranh
hiện thực vô cùng cảm động trong Sở kiến hành:
Một mẹ cùng ba con
Lê la bên đường no
Đứa bé ôm trong lòng
Đứa lớn tay mang giỏ.
Trong giỏ đựng những gì?
Mớ rau lẫn tấm cám
Nửa ngày bụng vẫn không
Áo quần thật lam lũ,
Gặp người chẳng dám nhìn
Lệ sa vạt áo ướt
Mấy con vẫn cười đùa
Biết đâu lòng mẹ xót.
Trong khi đó, đối lập với tình cảnh đói khát thảm thương
đó của bốn mẹ con người ăn xin là yến tiệc xa hoa thừa thãi của
bọn thống trị:
Mâm cỗ sang vô kê
Nào vây cá, gân hươu
Lợn dê mâm đầy ngút
Quan lớn không choc đũa
Tùy tùng chỉ nếm chút
Thức ăn thừa đổ đi
Chó no ngấy món ngon
Nhà thơ vừa đau đớn vừa phẫn nộ trước tình cảnh bất
công mà nhân dân lao động phải gánh chịu. Trong bức tranh tả
thực được vẽ bằng nước mắt của cụ Nguyễn Tiên Điền, hình
ảnh những đứa trẻ nghèo tội nghiệp cứ ám ảnh mãi tâm trí
người đọc. Có lẽ đây là lần đầu tiên trong văn học trung đại
Việt Nam, trẻ em được miêu tả cụ thể mà chân thực đến như
vậy, có cảnh ngộ, số phận cụ thể, có cả sự hồn nhiên ngây thơ
của trẻ nhỏ. Tuy nhiên, mục đích chính của tác giả Sở kiến
hành vẫn chưa phải là miêu tả đời sống trẻ thơ mà thông qua
hình ảnh trẻ thơ để lên án sự bất công, thối nát của giai cấp
thống trị đương thời.
Trong Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác ta bắt gặp hình
ảnh một đứa trẻ, đó là ấu chúa Trịnh Cán, người sẽ kế vị Trịnh
Sâm. Bằng cái nhìn và ngòi bút miêu tả khách quan, trung thực
pha chút mỉa mai châm biếm đối với nhà chúa, Hải Thượng Lãn
Ông khắc họa Trịnh Cán trong dáng vẻ một con bệnh tội nghiệp
hơn là một thế tử oai phong: "Một người ngồi trên sập độ năm,
sáu tuổi, mặc áo lụa đỏ". "Bệnh mắc đã lâu, tinh khí khô hết,
da mặt khô, rôn lồi to, gân thời xanh, tay chân gầy gò". Nguyên
nhân gây bệnh là do được bao bọc quá kĩ trong giàu sang nhung
lụa, do "ăn quá no, mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi". Đứa trẻ
vốn gắn với những gì tự nhiên nhất nhưng Trịnh Cán bị tách
biệt hoàn toàn với khí trời, với cuộc sống tự nhiên, thậm chí
còn bị những phép tắc lễ nghi cầu kì, kiểu cách chốn cung đình
làm cho già trước tuổi. Đứa trẻ trong Thượng kinh kí sự cũng
chưa được miêu tả đúng như lứa tuổi của nó. Một đứa trẻ còn
"vắt mũi chưa sạch" mà khen một ông lão bảy mươi "ông này
lạy khéo" thì đúng là thứ quả bị bắt "chín ép" một cách đáng
thương. Thế tử Trịnh Cán giống như con tằm được bọc trong tổ
kén vàng son, chính là hình ảnh biểu tượng cho giai cấp thống
trị ốm yếu, yểu mệnh đương thời. Trịnh Cán cũng chính là dự
báo của Hải Thượng Lãn Ông về tương lai của chính quyền vua
Lê chúa Trịnh, tất yếu sẽ chết yểu vì sự ốm yếu, bạc nhược vì
nguy cơ diệt vong vốn đã tiềm ẩn ngay khi nó mới ra đời.
Như vậy, trước khi có văn học hiện đại Việt Nam, trẻ em
đã có mặt đây đó trong một số tác phẩm văn học nhưng hầu
như chỉ là những nét vẽ thoáng qua, ước lệ hoặc tả thực nhưng
chưa được đặt ở vị trí trung tâm, tiêu điểm của bức tranh đời
sống được miêu tả trong văn học. Từ các sáng tác có xuất hiện
thấp thoáng hình ảnh trẻ em này, có thể thấy một diễn ngôn về
thời thơ ấu trong văn hóa trung đại. Trẻ em không phải là một
thực thể độc lập, mà phụ thuộc vào trật tự xã hội được tạo dựng
bởi người lớn. Trong cán cân quyền lực của xã hội, trẻ em
không có tiếng nói, không được quyền phát ngôn. Và vì thế,
thời thơ ấu là một thời kì phụ thuộc, chưa trưởng thành, còn
non nớt của con người, với đầy rẫy những sai lầm, tội nghiệp.
- Đến đầu thế kỉ XX, văn học dành cho trẻ em mới thực
sự được chú ý. Đây là thời kỳ văn hóa Việt Nam tiếp nhận ảnh
hưởng khá sâu đậm của phân tâm học Freud trong cách cắt
nghĩa về thời thơ ấu. Phân tâm học cho rằng thời thơ ấu là giai
đoạn quan trọng, để lại dấu ấn sâu đậm, lâu dài góp phần tạo
nên cấu trúc nhân cách của con người. Thậm chí, toàn bộ tâm lý
của con người lúc trưởng thành chịu ảnh hưởng bởi những ẩn
ức của thời thơ ấu. Freud cũng tìm ra mối liên hệ giữa những ẩn
ức thơ ấu và hoạt động sáng tạo nghệ thuật của các nghệ sĩ lớn
như Leona De Vinci... Những tư tưởng này của Freud đã được
truyền bá vào Việt Nam qua con đường dịch thuật và ảnh hưởng
lớn đến các trí thức Việt Nam thời bấy giờ. Về tư tưởng văn
hóa, thế kỷ XX ở Việt Nam cũng là thời kỳ có rất nhiều điểm
tương đồng với thời kỳ Khai sáng ở phương Tây, khi những
diễn ngôn về giáo dục trẻ em bắt đầu xuất hiện. Đây là thời kì
của những khởi đầu mới, có nhiều nhân tố tác động khiến cho
người lớn phải có cái nhìn mới về giáo dục trẻ thơ. Thay vì dạy
trẻ em bằng Tam tự kinh, Luận ngữ như trước đây, các học giả
đầu thế kỉ hướng tới những nhu cầu, sở thích cụ thể, đúng với
lứa tuổi của trẻ thơ. Nguyễn Văn Vĩnh - "một trong những
người đã có những đóng góp lớn nhất trong việc phát triên văn
hoc và văn hóa Việt Nam đầu thế kỷ 20" - đã dịch nhiều truyện
cổ nước ngoài như Ngụ ngôn La - phông - ten, "Truyện cổ Pê rôn sang các thể thơ ngũ ngôn, lục bát để trẻ em có thể dễ dàng
ngâm lên hay đọc thuộc. Đặc biệt, Nguyễn Văn Vĩnh còn soạn
Trẻ con hát trẻ con chơi, trong đó vừa có phần chữ quốc ngữ
vừa có tranh ảnh sinh động kèm theo. Điều này cho thấy, lần
đầu tiên trẻ em trở thành tâm điểm, những sở thích như hát,
chơi của trẻ em được người lớn quan tâm sâu sắc. "Tập sách
mỏng mảnh song ý nghĩa" này được chia làm hai phần: hát và
chơi. Phần hát là một bản tinh tuyển những bài đồng dao phổ
thông thú vị nhất từ lâu đã trở nên quen thuộc với các em nhỏ
trên mọi miền quê đất Việt, như : Mèo trèo cây cau, Cái cò cái
vạc, Cò con, Nấu canh tôm, Cái bông bang, Ai lên xứ Lạng,
Con gà cục tác lá chanh, Con kiến kiện củ khoai,... Phần chơi
tập hợp những trò chơi dân gian mà trẻ em yêu thích kèm theo
những hướng dẫn cụ thể, đơn giản để các em có thể chơi được
ngay, như Dung dăng dung dẻ, Nu na nu nông, Chi chi chành
chành, Xỉa cá mè, Thả đỉa, Pháo tập tàng,... Phạm Quỳnh cũng
dịch Hoc rùng mình (truyện cổ Grimm) sang chữ quốc ngữ,
thành truyện Chu du thiên hạ đê hoc rùng mình cho trẻ em đọc.
Các tác giả Nguyễn Văn Ngọc, Nguyễn Đổng Chi sưu tầm, san
định truyện cổ tích nước Nam phục vụ độc giả nhỏ tuổi. Hồ
Biểu Chánh cải biên tác phẩm Không gia đình của H. Malot
thành Cay đắng mùi đời. Tản Đà viết Lên sáu, Lên tám, cả hai
cuốn sách này được dùng làm sách giáo khoa để dạy trẻ em
những đạo lý thông thường như lòng biết ơn cha mẹ, thày cô,
biết sống hòa thuận với anh chị em, biết quý trọng bạn bè, biết
làm việc nghĩa, chăm chỉ học hành, sống ngay thẳng và giàu
lòng nhân ái. Khái Hưng, một trong những thành viên trụ cột
của Tự lực văn đoàn cũng cho ra đời những tác phẩm viết cho
thiếu nhi. Lúc đầu các truyện này được in rải rác trên các tờ báo
Phong hóa, Ngày nay, cơ quan ngôn luận của Tự lực văn đoàn
hoặc được xuất bản thành tập riêng trong tủ sách soạn cho thiếu
nhi, gọi là sách hồng. Sau này Vương Trí Nhàn sưu tầm, biên
soạn tập hợp thành Truyện viết cho thiếu nhi của Khái Hưng.
Tác phẩm thể hiện rõ sự ưu ái của một nhà văn lãng mạn đối
với thế giới trẻ thơ, trong đó có những truyện cổ dân gian được
Khái Hưng kể lại bằng ngôn ngữ hiện đại dễ hiểu như Cây tre
trăm đôt, Vợ cóc, Ai mua hành tôi, Véo von tiếng địch; có
những truyện đồng thoại hoặc vở kịch mà nhân vật là loài vật,
loài hoa như Hoa ăn tết, Con rắn, Bông hoa thài lài, Cóc tía;
có những truyện mô tả sinh hoạt của các em nhỏ như Cắm trại;
lại có cả mấy đoạn hồi kí kể lại những kỷ niệm sâu sắc lúc tác
giả còn nhỏ như Thời xưa với câu chuyện đi tàu đáng nhớ đã để
lại bài học về cách ứng xử, cách làm người. Một số hoạt động
văn hóa dành cho trẻ em ra đời mà nổi bật là phong trào hướng
đạo sinh. Trong lĩnh vực âm nhạc, xuất hiện nhiều bài hát viết
cho thiếu nhi với giai điệu rộn ràng vui tươi như Hè về của
Hùng Lân, Reo vang bình minh của Lưu Hữu Phước,... Nếu giai
đoạn trước trẻ em đã có mặt trong các tác phẩm hội họa nhưng
còn mang tính chất ước lệ thì đến đầu thế kỷ XX, lần đầu tiên
hình ảnh trẻ em được vẽ bằng bút pháp tả thực, trở thành tâm
điểm của bức tranh đời sống, có diện mạo riêng, có tên riêng,
như bức tranh Em Thúy của họa sĩ Trần Văn Cẩn. Trò chơi dành
riêng cho trẻ em cũng được ghi lại trong Ô ăn quan của họa sĩ
Lê Văn Miến,... Các tờ báo Nam Phong, Phong hóa cũng dành
nhiều trang, chuyên mục để viết về trẻ em. Nxb Đời nay còn
dành hẳn một tủ sách hồng cho trẻ em. Năm 1941, Đội thiếu
niên tiền phong Hồ Chí Minh được thành lập, trẻ em đã thực sự
trở thành một lực lượng xã hội độc lập. Trong một bầu không
khí và văn hóa coi trọng trẻ em như vậy, từ đầu thế kỉ XX trở
đi, trẻ em đã trở thành tiêu điểm của nhiều loại diễn ngôn khác
nhau, trong đó có văn học.
- Thời thơ ấu trong văn học lãng mạn Việt Nam từ đầu thế
kỷ XX đến 1945
- Văn học lãng mạn Việt Nam
- Bôi cảnh ra đời
Đã manh nha từ đầu thế kỷ XX nhưng văn học lãng mạn
Việt Nam chính thức ra đời, tồn tại và phát triển trong khoảng
15 năm (1930 – 1945). Sự ra đời của trào lưu văn học lãng mạn
gắn với một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt của đất nước ta những
năm đầu thế kỷ. Làn sóng xâm lăng của thực dân Pháp tràn vào
nước ta từ năm 1858 và lần lượt các cuộc khai thác thuộc địa
với quy mô lớn đã ảnh hưởng sâu sắc, dẫn đến những biến động
không nhỏ trong đời sống xã hội. Cơ cấu xã hội Việt Nam thay
đổi, từ thuần phong kiến chuyển sang thực dân nửa phong kiến.
Ý thức hệ cũng dần thay đổi, bên cạnh ảnh hưởng từ văn hóa
Nho giáo Trung Hoa đã tồn tại hàng nghìn năm với quan niệm
coi trọng cộng đồng, chúng ta bắt đầu tiếp thu văn hóa phương
Tây mà tư tưởng cốt lõi của nó là sự đề cao tự do và vai trò của
cái tôi cá nhân cá thể. Trong xã hội xuất hiện những giai cấp
tầng lớp mới, đặc biệt là giai cấp tiểu tư sản với những nhu cầu
khẳng định bản ngã giữa cuộc đời. Họ hầu hết là những trí thức
Tây học, đã hấp thụ những tinh hoa văn hóa phương Tây, có ý
thức dân tộc và lòng yêu nước, một mặt muốn cống hiến cho
đất nước mặt khác vẫn có thể phát huy cao độ và khẳng định
được tài năng giữa cuộc đời. Tuy nhiên, những mong ước thiết
tha chính đáng đó của họ vấp phải thực tế phũ phàng, chính
quyền thực dân không để cho giai cấp tiểu tư sản thực hiện
những hoài bão cao cả, vừa cống hiến vừa thể hiện khiến họ rơi
vào tình trạng bế tắc, u uất. Đặc biệt, sau khi Phan Bội Châu và
phong trào Đông du đã rút khỏi vũ đài chính trị, cuộc khởi
nghĩa Yên Bái bị dìm trong máu với cơn khủng bố trắng 19301931 thì "sự buồn rầu u uất tràn ngập tâm hồn nhân dân Việt
Nam". Giữa cái không khí bi quan, dao động của phong trào
cách mạng tạm lắng đó, phong trào Thơ Mới và văn chương Tự
lực văn đoàn ra đời. Không có được dũng khí đấu tranh như các
chiến sĩ cách mạng, các trí thức tiểu tư sản đành gửi cả những
nỗi niềm sâu kín vào trong thơ văn. Đó là một con đường thoát
ly trong sạch, cũng là một cách để tỏ rõ lòng yêu nước. Đúng
như đồng chí Trường Chinh đã nhận định: "Các tầng lớp tư sản
dân tộc và tiêu tư sản trí thức Việt Nam tìm thấy trong chủ
nghĩa lãng mạn một tiếng thở dài chông chế độ thuộc địa". Như
vậy, văn học lãng mạn ra đời là một tất yếu lịch sử, phản ánh
những nhu cầu bức thiết của một bộ phận không nhỏ trí thức
tiểu tư sản của ta lúc bấy giờ. So với chủ nghĩa lãng mạn
phương Tây, tuy tiền đề cụ thể dẫn đến sự ra đời của chủ nghĩa
lãng mạn trong văn học Việt Nam có khác, thời gian ra đời
muộn hơn khoảng một thế kỷ nhưng đều gặp gỡ nhau ở điểm
chung, đó là: trào lưu lãng mạn ra đời khi những khát khao của
con người vấp phải thực tế bất như ý, khi bầu không khí xã hội
trở nên ngột ngạt trói buộc kìm kẹp, bất lợi đối với sự phát triển
tự do của mỗi con người.
- Tư tưởng côt lõi
Bản thân thuật ngữ "lãng mạn" đã phần nào chỉ ra đặc
điểm bản chất của trào lưu văn học này. "Sóng tràn bờ" hay
chính là sự thoát vượt khỏi giới hạn của hiện thực đời sống.
Quả nhiên, văn học lãng mạn Việt Nam, bao gồm cả Thơ Mới
và văn xuôi Tự lực văn đoàn, chính là những đợt sóng cảm xúc
ào ạt, vừa khởi nguồn từ hiện thực vừa vượt ra ngoài, lên trên
hiện thực. Nhà văn nhà thơ lãng mạn không chỉ vượt lên trên
thực tại đen tối của xã hội mà họ còn vượt ra khỏi những khuôn
khổ ràng buộc từ lâu trong tư tưởng dưới sự chi phối nặng nề
của ý thức hệ phong kiến với những nguyên tắc cứng nhắc. Thơ
Mới nói riêng và văn học lãng mạn nói chung, ra đời, nói như
Hoài Thanh "nó mang theo một quan niệm chưa từng thấy ở xứ
này: quan niệm cá nhân". Trước kia trong văn học chỉ có cái ta,
bây giờ mới có cái tôi. Trước kia, cá nhân bị hòa lẫn trong trong
cộng đồng, văn thơ chủ yếu dùng để tỏ chí, tỏ lòng, tải đạo.
Những tác phẩm đi chệch khỏi khuôn khổ đó đều bị xem nhẹ.
Vì thế, cả một thời gian dài những gì thuộc về cá nhân, về riêng
tư của con người không được lưu tâm đúng mức. Thảng hoặc
có một vài cá nhân xuất chúng xuất đầu lộ diện như Nguyễn
Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ dám đem cái tôi của
mình ra để chuyện trò cùng thiên hạ nhưng cũng là những
trường hợp hi hữu, mà không phải bài nào cũng có. Chỉ bắt đầu
khi văn học lãng mạn ra đời, các nhà thơ nhà văn mới nói lên
được "một nhu cầu lớn về tự do và phát huy bản ngã" (Tố
Hữu). Những gì thuộc về cá nhân đều được trân trọng, từ một
cảm xúc mong manh mơ hồ đến những khát khao cao cả. Con
người được nhìn nhận trong một quá trình, có quá khứ, hiện tại,
và có thể cả tương lai. Các tác giả lãng mạn, bằng chính thực
tiễn sáng tác của mình, đã đấu tranh và bảo vệ quyền tự do cho
mỗi cá nhân cả trong đời sống lẫn trong sáng tạo. Tư tưởng bao
trùm văn học lãng mạn chính là tư tưởng đề cao cái tôi cá nhân.
- Sự bùng nổ chủ đề thời thơ ấu
Chủ nghĩa lãng mạn, ngay khi mới ra đời, đã thể hiện một
tiếng nói mới có ý nghĩa tiến bộ khi trân trọng đề cao những gì
thuộc về phần riêng tư của mỗi con người, điều mà trước đây bị
xem nhẹ hoặc chỉ được nhắc đến một cách dè dặt. Đề cao cá
nhân là chính đáng, song càng ngày, tiếng nói cá nhân trong văn
học lãng mạn càng tỏ ra lạc lõng khi không thể hòa điệu với
tiếng nói chung, khi nghệ sĩ lãng mạn hoàn toàn tách mình ra
khỏi phong trào đấu tranh chung của quảng đại quần chúng.
Trong Thơ Mới, khi chủ nghĩa cá nhân bị đẩy lên đến mức
cực đoan, nhà thơ lãng mạn chỉ còn biết đào sâu vào cái tôi, thì,
nói như Hoài Thanh, đó là một thế giới mà "càng đi sâu càng
lạnh". Cái tôi Thơ Mới rơi vào cô đơn, bế tắc đến tận cùng. Có
lẽ các nhà Thơ Mới cũng mang trong mình tâm sự của Lưu
Trọng Lư: "từ thâm tâm tôi ghét cay ghét đắng cuộc sông mòn
mỏi cúi đầu trong cái trật tự đương thời. Tôi đã thoát mình
khỏi những lễ giáo và công thức, ngấy đến cực độ cái văn
chương rỗng tuếch trong các nhà trường, ngấy đến cực độ cái
lôi sông công thức, công chức đang bao trùm ở quanh mình.
Nhưng rồi thoát đâu được cái vòng luẩn quẩn". Mọi nỗ lực
thay đổi đều vô ích khi họ đã bị cắt đứt khỏi phong trào cách
mạng của quần chúng. Nghệ sĩ lãng mạn tìm đến những con
đường thoát li khác nhau để trốn tránh thực tại: tình yêu, tôn
giáo, thiên nhiên, quá khứ... Trốn vào tình yêu là con đường
phổ biến nhất, bất cứ nhà thơ mới nào cũng có mươi, mười lăm
bài thơ tình, ở một số thi sĩ, tình yêu là nguồn cảm hứng duy
nhất, thậm chí, ở một số nhà thơ mới khác, tình yêu còn là lẽ
sống duy nhất ở đời. Nhưng tình yêu không giải tỏa được cảm
giác cô đơn, chính ông hoàng thơ tình Xuân Diệu đã xác nhận
thấm thía điều này: "Trăng sáng, trăng xa, trăng lạnh quá/Hai
người nhưng chẳng bớt bơ vơ". Khi cô đơn, nhà Thơ Mới
thường tìm về quá khứ để ca ngợi, tiếc nuối cả những cái vàng
son rực rỡ và cái đổ nát hoang tàn. Trên hành trình trở về quá
khứ ấy, ta thấy hiện diện khá nhiều trên những trang văn của
chủ nghĩa lãng mạn mô tả diện mạo thời thơ ấu đã qua của con
người gắn liền với cảm thức hoài niệm ngậm ngùi. Từ trong sâu
thẳm, thời thơ ấu chính là cõi nhớ và cõi về của nhiều nhà thơ
lãng mạn. Nếu coi trở về quá khứ là con đường thoát li đấu
tranh mang tính tiêu cực thì ít nhất những trang viết về thời ấu
thơ vẫn là những gì còn lại trong trẻo, đáng trân quý nhất.
So với Thơ Mới, nhìn bề ngoài, văn chương Tự lực văn
đoàn có phần gắn bó hơn với đời sống xã hội và con người. Với
chủ trương sử dụng văn chương vào mục đích cải tạo xã hội,
những thành viên chủ chốt của Tự lực văn đoàn tích cực phản
ánh cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới qua xung đột mẹ
chồng - nàng dâu. Họ cổ vũ cho tự do yêu đương của thanh
niên nam nữ. Họ luôn khao khát cải cách xã hội, làm thay đổi
cuộc đời cho dân quê. Họ giương cao ngọn cờ nhân văn, đấu
tranh đòi quyền sống cho con người, đòi giải phóng cá nhân ra
khỏi đại gia đình phong kiến song những cải cách của họ còn
mang tính cải lương, nửa vời, không đi đến kết quả cuối cùng.
Cái tôi cá nhân trong Tự lực văn đoàn cuối cùng cũng không
tìm được hướng đi, cũng rơi vào bế tắc, muốn tìm đến một
điểm tựa tinh thần để trốn cô đơn. Một trong những điểm tựa
đó, lại cũng chính là thời thơ ấu với những gì thân thuộc gần
gũi nhất của mỗi con người. Trong Tự lực văn đoàn cũng có
những nhà văn lãng mạn như Thạch Lam không đi vào khai
thác cuộc đấu tranh giữa cái cũ và cái mới mà chủ yếu hướng
ngòi bút và "chân cảm" đến với những người nghèo, hướng đến
phụ nữ và trẻ em hoặc tìm về thời thơ ấu để hoài niệm, đó cũng
là một cách bày tỏ thái độ phản kháng, bất mãn trước thực tại
đen tối.
Hơn nữa, ngoài Thơ Mới và Tự lực văn đoàn, 45 năm đầu
thế kỷ XX ở Việt Nam còn xuất hiện nhiều cây bút sáng tác
theo khuynh hướng lãng mạn cũng tìm về quá khứ, về tuổi thơ
để đối lập với thực tại tầm thường.
Như vậy, đối với văn học lãng mạn Việt Nam, tìm về tuổi
thơ là một xu hướng phổ biến. Có thể nói, đây là thời kì bùng
nổ các tác phẩm viết về thời thơ ấu. Lưu Trọng Lư viết Nắng
mới, Chiếc cáng xanh; Xuân Tâm với Lời tim non; Tô Hoài với
Cỏ dại; Hàn Mặc Tử viết Chơi giữa mùa trăng; Xuân Diệu với
Hoa hoc trò; ngoài ra còn có thể kể đến nhiều bài thơ của
Nguyễn Bính, Bàng Bá Lân, Anh Thơ, các truyện ngắn của
Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh,…Đó là còn chưa kể đến
những ảnh hưởng của xu hướng tìm về tuổi thơ từ văn học lãng
mạn đã lan sang đến nhiều nhà văn hiện thực: Nguyên Hồng
viết Những ngày thơ ấu được Tự lực văn đoàn trao giải, Nam
Cao, Bùi Hiển viết nhiều truyện ngắn cảm động về trẻ con,…
Vấn đề đặt ra là: Tại sao đến văn học lãng mạn, ý niệm về thời
thơ ấu lại trỗi dậy mạnh mẽ như vậy?
Lý giải cho thấu đáo điều này cần dựa vào nhiều nguyên
nhân, cả nguyên nhân khách quan và nguyên nhân chủ quan.
Trước tiên phải kể đến việc tiếp nhận ảnh hưởng từ văn học
lãng mạn phương Tây trong văn học lãng mạn Việt Nam trên
nhiều phương diện, trong đó có xu hướng quay về thời thơ ấu.
Émile hay là về giáo dục, cuốn tiểu thuyết – sư phạm của
Rouseau ra đời trong thế kỉ Ánh sáng đúng như một tia sáng đắt
giá, một hồi chuông cảnh tỉnh, đánh thức, làm cho phương Tây
như bừng tỉnh và nhận ra cần phải thay đổi cách nhìn nhận,
quan tâm và giáo dục trẻ em. Trẻ em và những gì liên quan đến
nó lần đầu tiên trở thành tâm điểm của thế giới. Thêm vào đó,
thời kì trào lưu văn học lãng mạn ra đời lịch sử đất nước ta trải
qua nhiều biến động thăng trầm, các trí thức tiểu tư sản tỏ ra
chán ghét thực tại, họ tìm đến niềm an ủi trong quá khứ. Thời
thơ ấu với họ giống như một "bến náu" để quay về, để tìm lại
cảm giác bình yên giữa những giông bão cuộc đời. Đó là thế
giới trong lành nhất có thể trở thành một điểm tựa tinh thần
vững chãi cho họ, nơi họ có thể trải lòng với những hoài niệm
về những người yêu thương. Bản thân các nghệ sĩ lãng mạn là
những con người có tâm hồn bay bổng, nhạy cảm, tinh tế, họ ý
thức sâu sắc sự tồn tại của cá nhân, trân quý từng khoảnh khắc
sống trên đời, cả những cái đã qua và cái đang hiện hữu. Nếu tư
duy trung đại quan tâm nhiều đến kết thúc, sự hoàn thành, cái
khép kín thì tư duy hiện đại, nhất là tư duy của các nghệ sĩ lãng
mạn lại rất coi trọng sự khởi nguyên, sự bắt đầu. Họ cho rằng
cái đẹp nhất không phải ở độ chín bởi dễ gây cảm giác bất an,
cái đẹp nhất phải ở trạng thái của sự sống mới bắt đầu, manh
nha e ấp cần được nâng niu, trân trọng. Đối với chủ nghĩa lãng
mạn, đứa trẻ, thời thơ ấu chính là khởi đầu của thế giới gắn liền
với những gì trong trẻo, hồn nhiên, tự nhiên nhất. Các nghệ sĩ
lãng mạn viết về thời thơ ấu không phải chỉ là viết cho trẻ em
mà quan trọng hơn là viết cho chính mình, để nói về những
điều sâu xa hơn, vượt ra khỏi phạm vi giải trí hay những bài
học đạo đức dành cho trẻ em, đó là những thông điệp sâu sắc về
đời sống xã hội và nhân sinh.
- Thời thơ ấu trong văn học lãng mạn Việt Nam
- Thời thơ ấu như một thiên đường đã mất
Như đã nói, văn học viết về thời thơ ấu không hoàn toàn
đồng nhất với văn học thiếu nhi, dù đứa trẻ vẫn là hình ảnh
trung tâm. Thế giới trẻ thơ trong thời thơ ấu không phải là thế
giới được miêu tả ở thời hiện tại mà được ngoái nhìn về, thế
giới của hoài niệm. Luôn có một người trưởng thành xuất hiện
với tâm thế hồi cố, trao điểm nhìn và quyền trần thuật cho một
đứa trẻ mà đứa trẻ đó thường là ánh xạ của chính nhà văn để kể
lại, ôn lại quãng đời thơ ấu đã qua. Tất cả đều hiện lên trong
hoài niệm, mà hoài niệm dù buồn hay vui đều lung linh, thậm
chí lý tưởng khi nó được phủ lên lớp sương khói huyền ảo của
ký ức.
Văn học lãng mạn Việt Nam từ đầu thế kỉ XX đến năm
1945 ra đời khi người nghệ sĩ lãng mạn ở trong tâm thế trốn
tránh hiện tại, đổ vỡ niềm tin vào thực tại. Họ hướng về quá
khứ, về tuổi thơ bởi họ tìm thấy ở đó một bến náu, nơi trú ẩn
bình yên cho tâm hồn. Dĩ vãng ấu thơ là một thế giới mong
manh của hoài niệm, dễ vỡ, dễ tan biến, là một thiên đường đã
mất luôn thôi thúc họ quay về. Họ miêu tả thời ấu thơ như một
thiên đường bởi cái đẹp trong thế giới ấy dù đã trôi qua, đã
thuộc về quá khứ nhưng đó lại là một lãnh địa an toàn, có thể
chở che, nâng đỡ, làm điểm tựa tinh thần cho họ. Thiên đường
ấy không cao siêu, xa vời, ảo ảnh mà là những gì quen thuộc
thân thương từng gắn bó với tuổi thơ của họ như ngôi nhà, khu
vườn, quê hương xứ sở hay một nét cười, khuôn mặt, giọng nói,
…của một người thân nào đó.
Trong tác phẩm Chiếc cáng xanh của Lưu Trọng Lư, thiên
đường đã mất là cả một khoảng không gian và thời gian gắn
liền với tuổi thơ bình yên của đứa trẻ và hình ảnh của những
người thân yêu như ông bà nội ngoại, cha mẹ, các dì, những
người bạn như Mượn, Nguyệt, những người hầu cận trong
phủ… Cậu bé Doãn là một đứa trẻ con quan, được hưởng sự
chăm chút nâng niu của cha mẹ và những người hầu cận ở trong
phủ. Quá khứ với bất kỳ ai cũng đều có vui, có buồn. Doãn
cũng không phải là ngoại lệ. Kỷ niệm tuổi thơ mà cậu bé lưu
giữ bên cạnh niềm vui còn có cả nỗi đau nhưng đều là những
trải nghiệm qúy giá cho tương lai. Tình bạn thắm thiết với
Mượn có thể coi là một điểm sáng trong thiên đường ấu thơ của
Doãn, nó đi theo Doãn cho đến mãi sau này. Thiên đường của
Doãn trong Chiếc cáng xanh kết tinh trong một hình ảnh biểu
tượng cho mọi vẻ đẹp, đó chính là người mẹ. Người mẹ hiện
diện trong suốt tuổi thơ của đứa trẻ như một điểm tựa, gần gũi,
thân thiết mà trang trọng, không suồng sã. Người mẹ luôn đi
cùng những năm tháng tuổi thơ của Doãn, ở bên Doãn lúc vui
sướng hạnh phúc và cả lúc buồn đau, ủng hộ cậu cả lúc thành
công hay khi thất bại. Mẹ đẹp ở ngoại hình, đẹp ở tâm hồn,
nhân cách, trí tuệ nhưng quan trọng nhất với đứa con đó là tình
yêu thương và sự hi sinh thầm lặng, vô điều kiện dành cho gia
đình, vì chồng vì con. Cuộc đời của Doãn hạnh phúc nhất là khi
còn mẹ. Cho nên, đến lúc mẹ ra đi là lúc Doãn thấm thía một
nỗi đau đến rụng rời, tê dại tâm hồn và cảm giác trống vắng
không gì bù đắp nổi. Thậm chí đến tận lúc trưởng thành, khi đã
lấy vợ thì "người đàn bà thứ hai" ấy cũng không thể lấp đầy
khoảng trống vắng mà người mẹ quá cố để lại. Chỉ đến khi một
đứa trẻ ra đời, cái tình cha con bắt đầu nảy nở trong lòng Doãn,
Doãn yêu nó "với tất cả sự âu yếm của một bà mẹ" thì nỗi nhớ
mẹ mới nguôi ngoai.
Nắng mới là bài thơ Lưu Trọng Lư đề tặng hương hồn
thầy me. Ba khổ thơ ngắn gọn nhưng là những dòng hoài niệm
miên man về dĩ vãng, về những tháng ngày thơ ấu êm đềm bên
gia đình, cha mẹ. Trong bức tranh thơ ấu ấy, hình ảnh người mẹ
trở thành tâm điểm được miêu tả giản dị mà tuyệt đẹp:
Mỗi lần nắng mới hắt bên song
Xao xác gà trưa gáy não nùng
Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng
Chập chờn sông lại những ngày không.
Tôi nhớ me tôi, thuở thiếu thời
Lúc người còn sông tôi lên mười
Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội
Áo đỏ người đưa trước dậu phơi
Hình dáng me tôi chửa xóa nhòa
Hãy còn mường tượng lúc vào ra
Nét cười đen nhánh sau tay áo
Trong nắng trưa hè trước giậu thưa.
Hoài Thanh từng cảm nhận rất tinh tế rằng: nhiều bài thơ
của Lưu Trọng Lư không phải là thơ, là công trình nghệ thuật
mà "chính là tiếng lòng thổn thức cùng hòa theo tiếng thổn
thức của lòng ta". Bài thơ Nắng mới là một trong số đó. Nó đã
rọi vào tình cảm thiêng liêng muôn thuở của con người, tình
cảm dành cho người mẹ thân yêu. Những dòng hồi tưởng về mẹ
tự nhiên tuôn trào, chảy tràn trên trang giấy. Thông thường,
hoài niệm dĩ vãng dễ khiến người ta lan man nhưng ở đây
người mẹ đã trở thành tâm điểm. Ngoài khổ thơ đầu nêu lên
hoàn cảnh cảm xúc, hai khổ thơ còn lại là những ấn tượng sâu
đậm về mẹ, từ hình dáng cho đến hành động, nét cười. Người
mẹ hiện lên trong dòng hồi tưởng ấu thơ giữa một không gian
chan hòa ánh nắng, tươi tắn, rạng rỡ và ấm áp. Chiếc áo đỏ mẹ
phơi làm sáng lên cả câu thơ, làm ấm nóng tâm hồn nhà thơ khi
phiêu dạt về tuổi thơ. Chi tiết gây ấn tượng đặc biệt nhất của bài