TR ƯỜ
N G ĐẠI H Ọ
C NGO Ạ
I TH ƯƠ
N G THÀNH PH ỐH ỒCHÍ MINH
QUAN H ỆKINH T ẾQU Ố
C TẾ
-o0o-
TI ỂU LU Ậ
N
ĐỀ TÀI: TÍNH HAI M Ặ
T CỦ
A TOÀN C Ầ
U
HÓA KINH T ẾĐỐI V Ớ
I NỀ
N KINH T Ế
VI ỆT NAM
NHÓM THỰC HIỆN: S.A.N.G
GVHD: TRẦN THỊ PHƯƠNG THỦY
TP. HCM, ngày 18 tháng 09 năm 2018
NHÓM:
S.A.N.G
THÀNH VIÊN THỰC HIỆN:
TRẦN HỒNG ANH – 1701015038
CAO THÙY DƯƠNG – 1701015125
VÕ THỊ XUÂN HẢO – 1701015219
PHẠM NGUYỄN ÁI MỸ - 1701015493
TRẦN THỊ CẨM NGÂN – 1701015518
NGUYỄN THỊ THẢO NGUYÊN – 1701015553
TRẦN THỊ HUỲNH NHƯ – 1701015615
ĐOÀN THỊ THU PHƯỢNG – 1701015691
NGUYỄN NGỌC THÁI SANG – 1701015718
PHẠM TIẾN THẮNG - 1701015759
TÍNH HAI MẶT CỦA TOÀN CẦU HÓA ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
2
MỤC LỤC
TÍNH HAI MẶT CỦA TOÀN CẦU HÓA ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
3
1
CHƯƠNG I. MỞ ĐẦU
1.1 TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Ngày nay, những cuộc cải cách, chuyển giao công nghệ, phát minh lớn của nhân
loại trên toàn thế giới đòi hỏi mỗi quốc gia cần nỗ lực không ngừng để hoàn thiện mình.
Bên cạnh những vấn đề trên thì toàn cầu hóa kinh tế là một xu hướng nổi trội hơn cả, ảnh
hưởng sâu rộng đến mọi mặt nền kinh tế quốc gia. Đứng trước xu hướng đó đòi hỏi quốc
gia phải có sự chuẩn bị kĩ lưỡng, trang bị tốt về mọi mặt, bởi vì dù muốn dù không thì
mỗi quốc gia trên thế giới đều sẽ bị ảnh hưởng bởi tiến trình này vì đây là con đường duy
nhất giúp cho kinh tế mỗi quốc gia phát triển. Muốn thế thì chỉ có cách chủ động hội
nhâp vào nền kinh tế thế giới, bắt kịp những xu hướng thay đổi và cách thức vận động
của xu hướng toàn cầu hóa kinh tế.
Đứng trước một vấn đề, bao giờ cũng tồn tại nhũng mặt đối lập với nhau, toàn cầu
hóa kinh tế cũng vậy. Một mặt giúp cho nền kinh tế của mỗi quốc gia phát triển tạo nên
sự hợp tác thương mại, kích thích sự giao lưu văn hóa giữa quốc gia với nhau, một mặt
tạo nên sự phân hóa giàu nghèo giữa những cường quốc lớn với những quốc gia đang
phát triển. Vì thế, toàn cầu hóa kinh tế tạo nên một môi trường cạnh tranh vô cùng khốc
liệt giữa các quốc gia trên thế giới. Dù thế nào thì toàn cầu hóa kinh tế đã và sẽ diễn ra,
chi phối dưới hình thức khác nhau, mức độ khác nhau đối với tất cả lĩnh vực kinh tế, xã
hội và văn hóa ở hầu hét nước.
Việt Nam cũng không ngoại lệ, đứng trước xu hướng toàn cầu hóa kinh tế, Việt
Nam đang dần thay đổi, hội nhập và phát triển để bắt kịp với thế giới. Sự thật cho thấy
những thành tựu đáng kể sau khi chuyển sang nền kinh tế thị trường tại Việt Nam. Trước
đó, nền kinh tế Việt Nam lạc lõng, trì trệ thông qua những dẫn chứng cụ thể - ở giai đoạn
đầu thập niên 1980, khủng hoảng kinh tế xã hội diễn ra, lạm phát tăng lên ở mức phi mã
đặc biệt sau hai cuộc điều chỉnh giá - lương - tiền. Từ năm 1986, mở cửa nền kinh tế,
khuyến khích đầu tư nước ngoài, tham gia những tổ chức kinh tế thế giới và khu vực như
WTO, BTA, AFTA là những động thái cụ thể cho thấy Việt Nam đang dần thay đổi chính
TÍNH HAI MẶT CỦA TOÀN CẦU HÓA ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
4
mình để hòa vào xu hướng chung trên thế giới. Tuy nhiên, toàn cầu hóa kinh tế sẽ khiến
cho sự phân hóa giàu nghèo trong cộng đồng ngày càng cao, sự chênh lệch về mức sống
sẽ diễn ra trên mọi phương diện khác trong cuộc sống, sự tha hóa về đạo đức văn hóa sẽ
cứ thế kéo theo. Nhìn chung, toàn cầu hóa kinh tế có những tác động rất lớn vào nền kinh
tế Việt Nam. Nhận thức được những thay đổi rõ rệt đó của vấn đề, nhóm chúng tôi nhận
thấy “Tính hai mặt của toàn cầu hóa kinh tế đối với nền kinh tế Việt Nam” là nội dung
cần thiết và cần quan tâm đúng cách. Từ đó, giúp cho quốc gia có những bước đi thích
hợp trên con đường hợp tác quốc tế, khắc phục những mặt tích cực của toàn cầu hóa kinh
tế, đồng thời phát huy những mặt tích cực của nó, bắt kịp trình độ phát triển chung của
thế giới.
1.2 TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
1.2.1 CÁC NGHIÊN CỨU TRÊN THẾ GIỚI
Thuật ngữ toàn cầu hoá xuất hiện vào những năm 1950, với sự phổ biến các
phương tiện vận tải có động cơ và sự gia tăng các trao đổi thương mại; và được chính
thức sử dụng rộng rãi từ những năm 1990 của thế kỷ thứ XX, song trên thế giới đã có khá
nhiều nhà kinh tế đã và đang nghiên cứu về những mặt thuận lợi cũng như khó khăn từ
chiến lược Toàn cầu hóa.
Nhà kinh tế học Joseph E.Stigltz, người từng nhận giải Nobel Kinh tế học năm
2001 đã khẳng định trong quyển sách “Vận hành toàn cầu hóa”: “Vào đầu những năm
1990, toàn cầu hóa được đón nhận với tất cả sự phấn khởi. Nguồn gốc chảy vào các nước
đang phát triển tăng gấp 6 lần trong vòng 6 năm, từ năm 1990 đến 1996. Sự thành lập Tổ
chức Thương mại Thế giới vào năm 1995 – mang lại dáng vẻ quyền lực của luật pháp
trong thương mại quốc tế. Mọi người ở cả thế giới đã phát triển hay đang phát triển đều
nghĩ mình là kẻ chiến thắng. Toàn cầu hóa mang lại sự thịnh vượng chưa từng thấy cho
mọi người”. Nhưng với quyển sách của chính tác giả này được ông cho ra đời trước đó
không lâu với nhan đề “Toàn cầu hóa và những mặt trái”, Joseph lại cho rằng: “ Toàn cầu
hóa và sự áp dụng kinh tế thị trường cũng đã không đem lại kết quả hứa hẹn ở Nga và
hầu hết các quốc gia chuyển đổi từ kinh tế kế hoạch sang thị trường. Những nước này đã
TÍNH HAI MẶT CỦA TOÀN CẦU HÓA ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
5
được các nước phương Tây hứa hẹn rằng, hệ thống kinh tế mới sẽ đem lại sự thịnh vượng
chưa từng có. Thay vì vậy, nó lại mang đến sự nghèo đói chưa từng có. Trên nhiều mặt và
với hầu hết mọi người , toàn cầu hóa tỏ ra thậm chí tồi tệ hơn điều mà những nhà lãnh
đạo cộng sản từng dự đoán”. Chỉ từ quan điểm của một cá nhân nhưng Joseph có thể nhìn
nhận ra cả mặt lợi và hại của quá trình toàn cầu hóa. Ông không phủ định “sự thịnh
vượng chưa từng thấy” nhưng cũng không quên đề cập đến “ sự đói nghèo chưa từng có”
mà toàn cầu hóa mang lại.
Trong tác phẩm “Chiếc xe Lexus và cây Ôliu”, Thomas L.Friedman tuyên bố rằng:
“Toàn cầu hoá không chỉ đơn giản là một trào lưu thời thượng mà đúng ra là một hệ
thống quốc tế. Hệ thống này bây giờ đã thay thế hệ thống Chiến tranh Lạnh và cũng như
hệ thống Chiến tranh Lạnh, toàn cầu hóa có quy tắc và lôgic riêng hiện đang trực tiếp hay
gián tiếp ảnh hưởng đến chính trị, môi trường, địa chính trị và kinh tế của hầu như mọi
nước trên thế giới.” Điều đó cũng có nghĩa mặc dù toàn cầu hóa là một xu hướng tất yếu
mặc dù nó còn tồn tại nhiều mặt hạn chế.
1.2.2 CÁC NGHIÊN CỨU TẠI VIỆT NAM
Toàn cầu hóa có sức hấp dẫn vì nó làm cho nền kinh tế của các quốc phát huy
được lợi thế của mình, được bổ sung những yếu tố mới, hình thành một cơ cấu kinh tế
hợp lý và hiệu quả hơn, thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế trong nước. Chính vì vậy mà đây
luôn là đề tài hấp dẫn được các nhà nghiên cứu tìm tòi, khám phá. Ở Việt Nam, có rất
nhiều tác giả quan tâm, nghiên cứu đến vấn đề này.
Luận án “Tác động của toàn cầu hóa kinh tế đối với dòng vốn đầu tư trực tiếp
nước ngoài vào Việt Nam” – tác giả Đỗ Hoàng Long, tác giả đã nghiên cứu ra các kênh
tác động của toàn cầu hóa kinh tế đối với sự vận động của dòng FDI và trên cơ sở đó xây
dựng mô hình cơ chế tác động của toàn cầu hóa đối với dòng FDI. Ngoài ra, tác giả phân
tích xu hướng, giá trị và cơ cấu của dòng FDI trên toàn cầu. Theo đó, tiến trình toàn cầu
hóa kinh tế đã làm tăng tổng giá trị FDI trên toàn cầu, chuyển dịch cơ cấu FDI nghiêng
về khu vực dịch vụ và ngành tri thức và công nghệ. Bên cạnh đó, tác giả cũng nêu ra một
số bất cập trong quá trình thu hút FDI của Việt Nam, trong đó nhấn mạnh việc Việt Nam
TÍNH HAI MẶT CỦA TOÀN CẦU HÓA ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
6
chưa thành cong trong việc sử dụng yếu tố nội lực để thu hút và định hướng dòng FDI
vào những lĩnh vực mong muốn để phát huy lợi thế so sánh của mình.
Luận văn “Tác động của toàn cầu hóa kinh tế với doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt
Nam” – anh Nguyễn Hoàng Hải – cựu sinh viên Đại học Ngoại thương, công trình đã
nghiên cứu rõ tác động của toàn cầu hóa kinh tế tới các yếu tố nội tại ảnh hưởng tới năng
lực cạnh tranh của các doanh nghiệp (bao gồm nguồn vốn, nhân lực, công nghệ, nguyên
vật liệu, chi phí,…), tác động đến chiến lược kinh doanh (chiến lược thị trường, chiến
lược sản phẩm, chiến lược xây dựng và phát triển thương hiệu…) và môi trường kinh
doanh của doanh nghiệp.
Toàn cầu hóa kinh tế cũng có tác động không nhỏ tới môi trường, bài nghiên cứu
“Tác động của nền kinh tế toàn cầu hóa đối với môi trường” – nhóm sinh viên Đại học
Đà Nẵng - đã chỉ rõ cả những tác động tích cực như: thúc đẩy tìm kiếm và khai thác
nguồn năng lượng sạch hơn, an toàn hơn; gắn kết các quốc gia cùng chung tay giải quyết
các vấn đề mang tính toàn cầu;… và những tác động tiêu cực: tài nguyên ngày càng hạn
hẹp, biến đổi khí hậu môi trường ảnh hưởng đến cuộc sống,…
Ngoài ra, còn rất nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này như: “ Xu thế phát
triển chủ yếu của toàn cầu hóa kinh tế trong thế kỷ 21 và tác động của nó tới quan hệ
thương mại của Việt Nam với các nước” của ThS. Hà Quốc Hội – Học viện công nghệ
Bưu chính Viễn thông, luận văn “Toàn cầu hóa kinh tế và các vấn đề đặt ra với Việt
Nam” – Phạm Tuấn Hải,… Tuy nhiên, mỗi tác phẩm, mỗi công trình còn nghiên cứu độc
lập mỗi vấn đề, hiện tượng khác nhau. Cũng đã có nhóm sinh viên nghiên cứu về “Tính
hai mặt của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế”, tác phẩm phân tích tác động của toàn cầu
hóa đến hầu hết các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, xã hội… nhưng chưa cụ thể hóa tác động
của toàn cầu hóa kinh tế đến các lĩnh vực đó như thế nào và mối quan hệ giữa các tác
động ra sao.
Nhìn chung, các tác phẩm chưa vẽ ra được bức tranh tổng thể về những tác động
của toàn cầu hóa kinh tế đến nhiều vấn đề khác như lĩnh vực chính trị, an ninh quốc gia;
về các vấn đề xã hội như bất công trong xã hội đến sự phân cách giàu nghèo giữa các
TÍNH HAI MẶT CỦA TOÀN CẦU HÓA ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
7
quốc gia, mọi hoạt động và đời sống con người trở nên kém an toàn, từ an toàn của từng
con người, từng gia đình đến an toàn quốc gia và an toàn của hệ thống thương mại, hệ
thống tài chính toàn cầu. Mặc dù đề tài của nhóm không phải là chủ đề mới trong nghiên
cứu, nhưng bài nghiên cứu này sẽ vẽ ra bức tranh cụ thể hơn về những tác động của toàn
cầu hóa kinh tế, đem đến cho người đọc một cái nhìn rộng hơn về đề tài này.
1.3 MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
Toàn cầu hóa kinh tế là xu thế khách quan đối với tất cả các nước trên thế giới.
Tính tất yếu khách quan của toàn cầu hóa kinh tế được thúc đẩy bởi các tiến bộ mạnh mẽ
của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, đặc biệt là sự phát triển như vũ bão
của công nghệ thông tin. Trong hơn một thập kỷ lại đây, xu hướng toàn cầu hoá nền kinh
tế thế giới có sự gia tăng mạnh mẽ, gắn liền với sự phát triển của khoa học công nghệ.
Sự gia tăng mạnh của toàn cầu hoá kinh tế đặt ra là yêu cầu khách quan, đòi hỏi
các quốc gia phải có chiến lược hội nhập phù hợp vào nền kinh tế thế giới và khu
vực.Trong bối cảnh này, các quốc gia không thể phát triển nếu như không hội nhập. Tuy
vậy, hội nhập một mặt sẽ đón nhận được những cơ hội phát triển, song mặt khác cũng
phải đối mặt với hàng loạt thách thức do chính xu thế toàn cầu hoá đặt ra.
Việt Nam đang trong quá trình đổi mới, chuyển sang phát triển nền kinh tế thị
trường định hướng Xã hội chủ nghĩa. Việc đẩy mạnh tham gia và hội nhập vào nền kinh
tế thế giới cũng như khu vực là một nội dung, một khía cạnh quan trọng của công cuộc
đổi mới hiện nay.
Do vậy, việc nghiên cứu tìm hiểu sâu về những tác động của toàn cầu hoá kinh tế
là một vấn đề không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa thực tiễn rất quan
trọng.
Trên cơ sở thu thập, xử lí và phân tích các số liệu, nhóm muốn hướng đến mục
đích tìm hiểu các tác động tích cực và các tác động tiêu cực của toàn cầu hóa kinh tế đối
với nền kinh tế Việt Nam .
TÍNH HAI MẶT CỦA TOÀN CẦU HÓA ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
8
Quan trọng hơn, nhóm sẽ nghiên cứu, phân tích các chiến lược của những nước
trên thế giới và học hỏi kinh nghiệm từ những thành công của họ trong lĩnh vực hội nhập
kinh tế, đưa ra những biện pháp mang tính chiến lược trong tương lai, những chính sách
phù hợp nhằm hạn chế những tác động tiêu cực mà Việt Nam phải trải qua trong thời kì
hội nhập kinh tế hiện nay.
Đây là công trình mang tính thực tiễn cao. Vì vậy, nhóm cũng đặt ra mục tiêu là có
thể nghiên cứu hoàn thiện đề tài này để có thể áp dụng vào công việc sau này, nhằm tạo
ra lợi thế cho nền kinh tế Việt Nam trong quá trình hội nhập.
1.4 ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.4.1 ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
Đối tượng nghiên cứu của đề tài: “Tính hai mặt của toàn cầu hóa kinh tế đối với
nền kinh tế Việt Nam.”
1.4.2 PHẠM VI NGHIÊN CỨU
1.4.2.1 PHẠM VI THỜI GIAN
Phạm vi thời gian được nhóm thống nhất lựa chọn cho bài nghiên cứu là từ năm
1986 đến nay.
Cuối thập niên 70 của thế kỷ trước, nền kinh tế Việt Nam vẫn còn vận hành theo
mô hình kế hoạch hóa tập trung, cùng với đó là cơ chế quan liêu bao cấp đã bắt đầu bộc
lộ nhiều bất cập, gây tác động tiêu cực đến sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và đời
sống xã hội.
Để giải quyết vấn đề đó, năm 1986 Việt Nam đã bắt đầu đưa ra những chính sách
đổi mới để phù hợp với quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Một thời gian sau hàng loạt
các chính sách đổi mới đó, kinh tế Việt Nam đã có những thay đổi tích cực ở nhiều mặt,
trong đó có khía cạnh đối ngoại. Trải qua hơn 27 năm,Việt Nam đã đạt được nhiều thành
công trong công tác đối ngoại, đặc biệt là về vấn đề hội nhập quốc tế.
TÍNH HAI MẶT CỦA TOÀN CẦU HÓA ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
9
Theo tiến sĩ Nguyễn Độ, Học viện Báo chí và tuyên truyền, tiền đề vô cùng quan
trọng cho chặng đường đổi mới và hội nhập đầy táo bạo này là đường lối đổi mới toàn
diện và sâu sắc trên mọi lĩnh vực của nền kinh tế, được đề ra tại Đại hội Đảng lần thứ VI
(1986) và chủ trương “Độc lập tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại”
với phương châm “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế,
phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển” được Đại hội Đảng lần thứ VII (1991) xác
định rõ.
Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) mở đầu cho thời kỳ đổi mới đất nước trong bối
cảnh quốc tế có nhiều thay đổi sâu sắc. Đảng ta đã đưa ra nhiều chủ trương, tranh thủ
những điều kiện thuận lợi về hợp tác kinh tế và khoa học kỹ thuật, tham gia ngày càng
rộng rãi vào việc phân công và hợp tác quốc tế trong Hội đồng tương trợ kinh tế và mở
rộng với các nước khác.
Tất cả những tiền đề này đã tạo nền tảng vững chắc và đánh dấu bước khởi đầu
tiến trình hội nhập trong giai đoạn mới của Việt Nam thông qua việc mở rộng quan hệ
hợp tác kinh tế đối ngoại song phương và đa phương với nhiều đối tác và trên nhiều lĩnh
vực, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi trong nước và khai thác hiệu quả các nguồn lực
bên ngoài phục vụ cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của đất
nước.
Chính vì vậy, nhóm đã lựa chọn phạm vi trong quãng thời gian từ 1986 (thời điểm
chính sách đổi mới kinh tế được đưa ra) đến nay cho bài nghiên cứu này.
1.4.2.2 PHẠM VI KHÔNG GIAN
Phạm vi không gian: Những tác động của toàn cầu hóa xoay quanh khu vực lãnh
thổ Việt Nam.
Do những hạn chế về thời gian, nguồn tài liệu tham khảo và phạm vi kiến thức
chuyên môn xung quanh vấn đề nghiên cứu nên nhóm chỉ tập trung nguồn lực để phân
tích về tác động của toàn cầu hóa xung quanh một quốc gia cụ thể.
TÍNH HAI MẶT CỦA TOÀN CẦU HÓA ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
10
Các thành viên thực hiện đề tài đều là công dân Việt Nam, sinh hoạt và học tập
trong không gian kinh tế Việt Nam nên có thể nhìn thấy được những biến đổi thưc tế khi
đất nước hội nhập. Chúng tôi được tiếp xúc và chịu những ảnh hưởng trực tiếp từ toàn
cầu hóa kinh tế nền kinh tế đối với kinh tế , văn hóa và xã hội Việt Nam .
Khi nhóm chỉ tập trung vào một quốc gia để phân tích thì sẽ có cái nhìn thực tiễn
và rõ ràng hơn về vấn đề , các số liệu đưa ra chính xác và sự phân tích sẽ cụ thể hơn.
2
CHƯƠNG II. CƠ SỞ LÍ LUẬN
2.1 TOÀN CẦU HÓA
2.1.1 KHÁI NIỆM TOÀN CẦU HÓA
Toàn cầu hóa là khái niệm dùng để miêu tả các thay đổi trong xã hội và trong
nền kinh tế thế giới, tạo ra bởi mối liên kết và trao đổi ngày càng tăng giữa các quốc gia,
các tổ chức hay các cá nhân ở góc độ văn hóa, kinh tế,... trên quy mô toàn cầu.
2.1.2 NHỮNG BIỂU HIỆN CỦA TOÀN CẦU HÓA
2.1.2.1 THƯƠNG MẠI THẾ GIỚI PHÁT TRIỂN NHANH
Tốc độ tăng trưởng thương mại của thế giới luôn cao hơn tốc độ tăng trưởng của
toàn bộ nền kinh tế thế giới, làm cho nền kinh tế thế giới phát triển năng động hơn.
Đã có rất nhiều hiệp định tự do thương mại được kí kết. Một hiệp định thương mại
tự do nổi tiếng được thành lập từ năm 1960, đó là Hiệp hội Thương mại Tự do châu Âu.
Sau những bế tác của đàm phán tự do hóa thương mại đa phương trong khuôn khổ GATT,
các hiệp định thương mại tự do song phương (giữa hai nước) và khu vực xuất hiện ngày
càng nhiều từ giữa thập niên 1990. Và trong số những quốc gia hăng hái nhất trong việc
ký kết các hiệp định thương mại tự do song phương phải kể đến Mexico, Singapore.
Những khu vực thương mại tự do nổi tiếng mới thành lập từ thập niên 1990 điển hình
là Hiệp định Thương mại Tự do Bắc Mỹ (thành lập năm 1994), Khu vực Mậu dịch Tự do
ASEAN (hiệp định được ký kết vào năm 1992). Ngoài ra, còn có những hiệp định thương
TÍNH HAI MẶT CỦA TOÀN CẦU HÓA ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
11
mại tự do giữa một nước với cả một khối, như Hiệp định Khung về Hợp tác Kinh tế
ASEAN-Trung Quốc (ký kết vào năm 2002).
2.1.2.2 ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TĂNG NHANH
Từ khi xuất hiện lần đầu tiên trên thế giới vào khoảng thế kỷ thứ 19 đến nay, hoạt
động đầu tư nước ngoài có những biến đổi sâu sắc. Xu hướng chung là ngày càng tăng
lên về số lượng, quy mô, hình thức, thị trường, lĩnh vực đầu tư và thể hiện vị trí, vai trò
ngày càng to lớn trong các quan hệ kinh tế quốc tế.
Tổng số vốn lưu chuyển quốc tế trong những năm gần đây tăng mạnh, khoảng 2030% một năm, nhưng chủ yếu tập trung vào các nước công nghiệp phát triển. Điều đó
phản ánh xu thế quốc tế hóa đời sống kinh tế phát triển mạnh mẽ, các nước ngày càng
phụ thuộclẫn nhau và tham gia tích cực hơn vào các quá trình liên kết và hợp tác quốc tế.
Những năm 70, vốn đầu tư trực tiếp trên toàn thế giới tăng trung bình hàng năm đạt
khoảng 25 tỷ USD, đến thời kỳ 1980-1985 đã tăng lên gấp hai lần, đạt khoảng 50 tỷ
USD. Số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trên toàn thế giới năm 1986 là 78 tỷ USD, năm
1987 là 133 tỷ, 1989 là 195 tỷ. Từ năm 1990-1993 số lượng vốn đầu tư trực tiếp nước
ngoài trên toàn thế giới hầu như không tăng, chỉ dừng ở mức trên dưới 200 tỷ. Tăng
mạnh nhất là năm 1997 đạt 252 tỷ, từ đó do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính
khu vực Châu á nên dòng vốn này giảm dần đến tận năm 2000 mới có dấu hiệu hồi phục.
Cho đến năm 2002 đã tăng lên nhưng với tốc độ chậm.
2.1.2.3 THỊ TRƯỜNG TÀI CHÍNH QUỐC TẾ MỞ RỘNG
Hàng vạn ngân hàng được kết nối với nhau qua mạng viễn thông điện tử tạo nên
một mạng lưới liên kết toàn cầu. Vai trò của IMF và WB ngày càng lớn trong sự phát
triển nền kinh tế toàn cầu.
Hội nhập kinh tế đến cấp độ nào đó sẽ tạo ra một thị trường chung giữa các nền
kinh tế (không còn hàng rào kinh tế nào nữa) với một đơn vị tiền tệ chung. Ví dụ rõ nhất
về cấp độ liên minh này là Khu vực đồng Euro. Các khu vực được thành lập với mục tiêu
trở thành liên minh kinh tế tiền tệ nhưng chưa hoàn thành được mục tiêu này gồm: Cộng
TÍNH HAI MẶT CỦA TOÀN CẦU HÓA ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
12
đồng Kinh tế Tây Phi, Cộng đồng Caribe (tiền thân là Cộng đồng và Thị trường Chung
Caribe). Trong các liên minh từng tồn tại nhưng nay không còn có Liên minh BỉLuxembourg.
Trong lịch sử đã từng có những khu vực dùng một đơn vị tiền tệ chung, như Liên
minh Tiền tệ Latinh hồi thế kỷ 19, nhưng họ chưa xây dựng được một thị trường chung
nên không gọi đó là liên minh kinh tế và tiền tệ. Lại có một số nước chấp nhận đồng tiền
của nước hay khu vực khác làm đơn vị tiền tệ chính thức của mình, nhưng giữa họ không
có một thị trường chung, nên không gọi là liên minh kinh tế - tiền tệ.
Hiện nay, tuy Anh đã tham gia Liên minh châu Âu, nhưng vì Anh vẫn giữ đơn vị
tiền tệ riêng là đồng Bảng Anh, nên Anh không tham gia liên minh kinh tế tiền tệ ở châu Âu.
Với một đơn vị tiền tệ chung, các nước thành viên sẽ phải từ bỏ quyền thực
thi chính sách tiền tệ riêng của mình, mà thay vào đó là một chính sách tiền tệ chung của
toàn khối do một ngân hàng trung ương chung của khối đó thực hiện, như trường hợp
của Ngân hàng Trung ương châu Âu.
2.1.2.4 HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CÔNG TY XUYÊN QUỐC GIA
Sự ra đời của các công ty xuyên quốc gia (TNCs) trên thế giới gắn liền với sự ra
đời và phát triển của sản xuất lớn TBCN (Tư bản chủ nghĩa). Các công ty xuyên quốc gia
là hình thức phát triển cao của chế độ xí nghiệp tư bản chủ nghĩa, và là kết quả trực tiếp
của quá trình tích tụ và tập trung sản xuất qua các giai đoạn phát triển của chủ nghĩa tư
bản dưới sự tác động của các qui luật thị trường : là sự vận động mở rộng của quan hệ sản
xuất TBCN thông qua các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh giản đơn đến kết cấu tổ
chức sản xuất kinh doanh quốc tế.
Các TNCs ra đời và phát triển đã đem lại cho CNTB một hình thức tổ chức sản
xuất mới, phản ánh sự thích ứng giữa trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất và
quan hệ sản xuất TBCN ở tầm vĩ mô. Chúng là kết quả của quá trình cạnh tranh, tập trung
tư bản và sản xuất không ngừng trong suốt quá trình tồn tại của CNTB, trong đó Tây Âu
TÍNH HAI MẶT CỦA TOÀN CẦU HÓA ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
13
chính là nơi sớm ra đời phương thức sản xuất CNTB với các chế độ xí nghiệp TBCN –
phôi thai của các TNCs hiện nay.
Tích tụ và tập trung sản xuất tất yếu dấn đến sự hình thành các TNCs. Sự cạnh
tranh giữa các xí nghiệp tất yếu sé dẫn đến 2 xu hướng. Một là, các nhà tư bản với trình
độ kỹ thuật cao và lực lượng kinh tế mạnh sẽ thôn tính các nhà tư bản nhỏ bị thua lỗ phá
sản, làm cho quy mô sản xuất và quy mô tư bản ngày càng mở rộng. Hai là, cuộc cạnh
tranh gay gắt sẽ nảy sinh xu hướng các đối thủ cạnh tranh phải liên hiệp với nhau, góp
vốn để sản xuất kinh doanh chung.
Sự phát triển của hệ thống tín dụng cùng với nhu cầu mở rộng qui mô sản xuất đã
tạo cơ sở cho sự chuyển hóa dần những xí nghiệp TBCN thành những công ty cổ phần
TBCN, là một hình thức tập trung tư bản dưới CNTB. Tín dụng trở thành công cụ tập
trung vốn của các nhà tư bản thông qua phát hành cổ phiếu. Chế độ tín dụng đẩy nhanh
tốc độ phát triển của các lực lượng sản xuất và sự hình thành thị trường thế giới. Lênin
cho rằng, việc CNTB mới-chủ nghĩa đế quốc trong đó độc quyền giữ vị trí thống trị thay
thế CNTB cũ, là đặc trưng cơ bản nhất của giai đoạn phát triển hiện đại của CNTB, thể
hiện bản chất kinh tế của CNTB mà trong đó quan hệ sản xuất TBCN vận động dưới hình
thức tổ chức độc quyền.
Tích tụ và tập trung sản xuất tạo ra những công ty mẹ đứng đầu và các công ty con
phụ thuộc về tài chính, kỹ thuật vào công ty mẹ và rất nhiều các công ty con vừa và nhỏ
hoạt động độc lập hoặc phụ thuộc. Ở các nước TBCN phát triển như Mỹ, Nhật Bản, Cộng
hòa Liên bang Đức, Pháp, Italia, Canada, số xí nghiệp vừa và nhỏ chiếm 70-80% tổng số
các xí nghiệp. Về mặt tổ chức sản xuất, đây là hình thức mang tính hiệu quả cao vì giảm
được chi phí sản xuất, tận dụng được nguyên liệu, phát huy tính sáng tạo…, do đó làm
tăng quy mô và tỷ suất lợi nhuận.
Từ thập kỷ 1960 trở lại đây, TNCs đã phát triển nhanh chóng dưới tác động của
cách mạng khoa học và công nghệ bùng nổ. Quá trình tích tụ sản xuất trong nông nghiệp
ngày càng đẩy mạnh dẫn đến việc xuất hiện các hình thức công ty liên hiệp nông-công
nghiệp, nông-thương nghiệp (ở Mỹ những năm 1980, liên hiệp nông-công nghiệp chiếm
TÍNH HAI MẶT CỦA TOÀN CẦU HÓA ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
14
trên 30% sản lượng nông sản). Cùng với quá trình tích tụ sản xuất trong nông nghiệp,
mối liên hệ giữa công-nông nghiệp ngày càng tăng, đẩy mạnh xu hướng giảm tỷ trọng
nông nghiệp trong cơ cấu lao động cũng như trong tổng sản phẩm quốc nội (hiện nay chỉ
còn khoảng 2-10% ở các nước tư bản phát triển cao).
Quá trình tích tụ sản xuất cũng dẫn đến sự hình thành các tổ chức độc quyền mang
nhiều dấu ấn của thời đại cách mạng khoa học và công nghệ. Sự liên kết giữa các xí
nghiệp lớn dẫn đến quá trình liên kết đa ngành, trong đó lĩnh vực du lịch, ngân hang được
các tổ chức độc quyền quan tâm và bành trướng quyền lực. Tình hình đó dẫn đến sự tập
trung tư bản, tập trung sản xuất kinh doanh hết sức to lớn.
Tóm lại, tích tụ tư bản và tập trung sản xuất lâu dài đã dẫn đến việc hình thành các
TNCs, bởi đó chính là quá trình tạo ra cơ sở vật chất cho sự bành trướng, giúp cho các
tập đoàn tư bản có khả năng vượt ra khỏi biên giới quốc gia, thực hiện việc đầu tư vào
các nước dưới nhiều hình thức và thu được lợi nhuận cao.
Các công ty xuyên quốc gia tăng trưởng mạnh mẽ cuối những năm 1980 do sự nới
lỏng các quy chế đầu tư nước ngoài ở các nước đang phát triển và xu hướng tự do hóa thị
trường vốn quốc tế. Trong thời gian này, trào lưu các công ty mẹ mở rộng các chi nhánh
ra nhiều nước đã trở nên nổi.
Ngày càng có nhiều công ty xuyên quốc gia và nắm trong tay mình một khối
lượng lớn tài sản.
2.2 TOÀN CẦU HÓA KINH TẾ
2.2.1 KHÁI NIỆM TOÀN CẦU HÓA KINH TẾ
Toàn cầu hóa kinh tế là sự gia tăng nhanh chóng các hoạt động kinh tế vượt qua
biên giới các quốc gia và giữa khu vực với nhau, tạo ra sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các
nền kinh tế trong sự vận động và phát triển hướng tới một nền kinh tế thế giới hội nhập
và thống nhất.
TÍNH HAI MẶT CỦA TOÀN CẦU HÓA ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
15
2.2.2 SỰ TẤT YẾU CỦA XU HƯỚNG TOÀN CẦU HÓA KINH TẾ
Thực tế lịch sử cho thấy, dù chúng ta ủng hộ hay không ủng hộ toàn cầu hóa, thì
đó vẫn là xu thế tất yếu. Trong nhiều thế kỷ qua, những hành trình ngược xuôi, những câu
chuyện huyền thoại trên con đường tơ lụa lịch sử đã giúp chúng ta hiểu một điều quan
trọng: Toàn cầu hóa không chỉ là một tiến trình kinh tế mà còn là sự phản ánh những khát
vọng vươn xa, những mưu cầu hạnh phúc và chinh phục thử thách của loài người.
Từ hàng nghìn năm trước, ở Nhật Bản, ở Việt Nam, ở Ấn Độ, Trung Quốc, Hàn
Quốc, khu vực Trung Đông,… những giá trị về văn hóa và tôn giáo, bao gồm cả một số
thành quả về kỹ thuật sản xuất và hàng hóa đã lan tỏa xuyên biên giới. Có thể nói Phật
Giáo, Hồi Giáo, Thiên Chúa Giáo,… với cội nguồn xuất phát từ châu Á, đã vươn tầm ảnh
hưởng vượt qua những khác biệt về không gian, thời gian, về chủng tộc, chính trị và văn
hóa, chính là những lực lượng thúc đẩy toàn cầu hóa từ rất sớm.
Châu Á, châu lục lớn nhất thế giới về diện tích và dân số, đa dạng về tôn giáo, văn
hóa, sắc tộc với bề dày lịch sử hàng ngàn năm, đang là động lực tăng trưởng chủ chốt
trong quá trình toàn cầu hóa. Năm 2010, GDP của khu vực châu Á đứng thứ 3 trong sáu
châu lục, sau châu Âu và Bắc Mỹ, đến năm 2016, GDP của châu Á đã vươn lên đứng đầu
các châu lục. Sự vươn lên của châu Á là sự vươn lên của tập hợp các quốc gia luôn
hướng tới hội nhập quốc tế sâu sắc và mạnh mẽ, như: Singapore, nền kinh tế mở, năng
động bậc nhất thế giới; Hàn Quốc - "kỳ tích sông Hàn” của châu Á và là nền kinh tế lớn
thứ 11 thế giới, một thành viên quan trọng của OECD. Ấn Độ, nền kinh tế tăng trưởng
nhanh thứ hai thế giới, là điểm đến quan trọng của các công ty toàn cầu trong lĩnh vực
công nghệ thông tin, sinh học, y dược và dịch vụ. Israel, một quốc gia không có tài
nguyên nước nhưng đã phát triển các kỹ thuật canh tác, chẳng hạn như công nghệ tưới
nhỏ giọt, một thành tựu có ảnh hưởng quan trọng tới sự phát triển của nền nông nghiệp
của nhiều quốc gia đang ứng phó với hạn hán, biến đổi khí hậu.
Và đặc biệt, chúng ta không thể không nói đến vai trò, tầm ảnh hưởng đang ngày
càng gia tăng của Trung Quốc, nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, với nhiều thập niên tăng
trưởng ngoạn mục, đưa hàng trăm triệu người thoát nghèo. Cùng với Nhật Bản, Trung
TÍNH HAI MẶT CỦA TOÀN CẦU HÓA ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
16
Quốc đã trở thành một trong những câu chuyện phát triển kinh tế được nói đến nhiều nhất
ở châu Á.
2.2.3 CÁC YẾU TỐ THÚC ĐẨY TOÀN CẦU HÓA KINH TẾ
2.2.3.1 SỰ PHÂN CÔNG LAO ĐỘNG TRONG SẢN XUẤT
Phân công lao động là sự phân chia lao động để sản xuất ra một hay nhiều sản
phẩm nào đó mà phải qua nhiều chi tiết, nhiều công đoạn cần nhiều người thực hiện. Có
hai loại phân công lao động, đó là: Thứ nhất, phân công lao động cá biệt là chuyên môn
hóa từng công đoạn của quá trình sản xuất trong từng công ty, xí nghiệp, cơ sở....Ví dụ
sản xuất ra cái bàn thì cần người cưa, người bào, người đục...Sản phẩm của họ làm ra chỉ
nhằm thỏa mãn trực tiếp nhu cầu tiêu dùng của người sản xuất. Vì vậy, kiểu sản xuất này
được gọi là sản xuất tự cấp tự túc, do đó sản phẩm của họ làm ra không có tính trao đổi
hoặc mua bán trên thị trường nên chưa được gọi là hàng hóa. Thứ hai, Phân công lao
động xã hội là chuyên môn hóa từng ngành nghề trong xã hội để tạo ra sản phẩm ví dụ
như sản xuất một chiếc xe máy, các chi tiết như lốp xe, sườn, đèn, điện...mỗi chi tiết phải
qua từng công ty chuyên sản xuất chi tiết đó cung cấp, sau đó mới lắp ráp thành chiếc xe
máy. Các sản phẩm này không còn giới hạn ở nhu cầu sử dụng của người sản xuất mà nó
được trao đổi, mua bán, được lưu thông đến người sử dụng trong xã hội, lúc này sản
phẩm đó được gọi là hàng hóa.
Trong bất kỳ moi thời đại nào thì phân công lao động là điều mà các công ty xí
nghiệp luôn ưu tiên hàng đầu vì nó mang tính khoa học cao. Khi một công việc mà bạn
chuyên về nó thì bạn sẽ làm được nhiều hơn và nhanh hơn, hay một lúc bạn làm nhiều
công việc thì bạn cũng mất nhiều thời gian hơn mà không hiệu quả. Và một quốc gia
cũng vậy, luôn có sự phân công lao động quốc tế, thương mại quốc tế để nhằm thúc đẩy
nhanh kinh tế phát triển. Chẳng hạn ở Việt Nam chúng ta chưa sản xuất được máy tính
xách tay nhưng lại sản xuất được linh kiện máy tính xách tay. Thực tế thì sản xuất linh
kiện máy tính là một lợi thế của đất nước, chúng ta chuyên về sản xuất linh kiện máy tính
và các nước khác trong khu vực lại có một lợi thế khác, một nước chuyên về lắp ráp máy
tính xách tay như Trung Quốc chặng hạn. Như vậy ta thấy luôn cần có sự phân công lao
TÍNH HAI MẶT CỦA TOÀN CẦU HÓA ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
17
động giữa các quốc gia trên thế giới. Sự phân công như vậy sẽ giúp quốc gia sẽ đỡ tốn
kém về nguyên liệu đầu vào, chi phí đào tạo, không gây qua nhiều lạm phát. Như vậy,
phân công lao động quốc tế như vậy luôn có lợi cho các quốc gia.
2.2.3.2 SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG
Trong nền kinh tế thị trường, nếu lượng cầu hàng hóa cao hơn lượng cung, thì giá cả hàng
hóa sẽ tăng lên, mức lợi nhuận cũng tăng khuyến khích người sản xuất tăng lượng cung.
Người sản xuất nào có cơ chế sản xuất hiệu quả hơn, thì cũng có tỷ suất lợi nhuận cao
hơn cho phép tăng quy mô sản xuất, và do đó các nguồn lực sản xuất sẽ chảy về phía
những người sản xuất hiệu quả. Những người sản xuất có cơ chế sản xuất kém hiệu quả
sẽ có tỷ suất lợi nhuận thấp, khả năng mua nguồn lực sản xuất thấp, sức cạnh tranh kém
sẽ bị đào thải.
Nền kinh tế thị trường đồng nghĩa với một sự cạnh tranh gay gắt, và khi thị trường trong
nước là chưa đủ cho sự tiêu thụ, những doanh nghiệp sẽ phải nghĩ đến một thị trường
rộng lớn hơn. Chính sự mở rộng thị trường sẽ giúp cân đối lại lượng hàng hóa tại mỗi
quốc gia trên thế giới.
Nền kinh tế thị trường chạy theo lợi nhuận cũng sẽ góp phần vào sự phát triển nói chung
của chất lượng hang hóa, để đáp ứng đầu ra cho các thị trường khó tính.
2.2.3.3 HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CÔNG TY ĐA QUỐC GIA
Công ty đa quốc gia là khái niệm để chỉ các công ty sản xuất hay cung cấp dịch vụ ở ít
nhất hai quốc gia. Các công ty đa quốc gia lớn có ngân sách vượt cả ngân sách của nhiều
quốc gia. Công ty đa quốc gia có thể có ảnh hưởng lớn đến các mối quan hệ quốc tế và
các nền kinh tế của các quốc gia. Các công ty đa quốc gia đóng một vai trò quan trọng
trong quá trình toàn cầu hóa.
Chủ thể của đầu tư trực tiếp nước ngoài là các công ty đa quốc gia. Chính sự quốc tế hóa
hoạt động kinh doanh của các công ty đa quốc gia là nguyên nhân trực tiếp tác động đến
sự hình thành và phát triền của dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Chính sự hoạt động
mạnh mẽ của các công ty đa quốc gia đã kéo theo sự liên kết của các quốc gia.
TÍNH HAI MẶT CỦA TOÀN CẦU HÓA ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
18
3
CHƯƠNG III. TÍNH HAI MẶT CỦA TOÀN CẦU HÓA KINH TẾ
3.1 TỰ DO THƯƠNG MAI
3.1.1 MẶT TÍCH CỰC
Mặt tích cực của thương mại tự do là nó cho phép các nước đang phát triển tiếp cận với
thị trường thế giới do đó phát triển nền sản xuất của họ đến một quy mô vượt quá nhu cầu
của thị trường nội địa. Đồng thời thông qua việc nhập khẩu hàng hóa, công nghệ từ các
nước phát triển trình độ kỹ thuật của các nước đang phát triển tăng lên.
3.1.2 MẶT TIÊU CỰC
Tuy nhiên tự do thương mại cũng có những mặt trái của nó như các nước phát
triển với trình độ khoa học kỹ thuật cao có thể độc quyền sản xuất ra những mặt hàng
công nghệ cao như phần mềm, thiết bị điện tử, thuốc chữa bệnh do đó có thể bán với giá
cao để thu được lợi nhuận lợi nhuận siêu ngạch do độc quyền kỹ thuật mang lại trong khi
các nước đang phát triển sản xuất các loại hàng hóa đơn giản, ít hàm lượng chất xám lại
phải cạnh tranh với nhau do đó bán với giá rẻ, thu được tỷ suất lợi nhuận rất thấp. Các
nước đang phát triển không thể sử dụng hàng rào thuế quan để bảo vệ các ngành công
nghiệp non trẻ của mình trước sự tấn công của các công ty đa quốc gia từ các nước phát
triển.
3.2 SỰ DI CHUYỂN LAO ĐỘNG
3.2.1 MẶT TÍCH CỰC
Di chuyển lao động sẽ tạo nên môi trường hợp tác, cạnh tranh lành mạnh và gay
gắt. Cạnh tranh giữa các nước trên thế giới trong việc cung cấp nguồn lao động chất
lượng cao ngày càng tăng đòi hỏi chất lượng giáo dục nghề nghiệp phải được cải thiện
đáng kể theo hướng tiếp cận được các chuẩn của khu vực và thế giới nhằm tăng cường
khả năng công nhận văn bằng chứng chỉ giữa các nước.
Bên cạnh đó, sự di chuyển lao động còn góp phần cân đối lại lực lượng lao động
giữa các khu vực trên thế giới. Xuất – nhập khẩu lao động cũng đang trở thành một trào
TÍNH HAI MẶT CỦA TOÀN CẦU HÓA ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
19
lưu, nguồn lao động di chuyển từ các nước đang phát triển và dư thừa lao động sang các
nước phát triển hơn.
Một số thị trường xuất khẩu lao động chính có nhu cầu tuyển dụng lao động Việt
Nam cao như Đài Loan, Nhật Bản. Các thị trường khác cũng có nhu cầu tiếp nhận ổn
định, riêng thị trường Nhật Bản có nhu cầu tuyển dụng lao động Việt Nam ngày càng
tăng, đa dạng về ngành nghề. Thị phần của lao động Việt Nam làm việc tại Đài Loan tăng
đều trong các năm gần đây. Tính đến hết tháng 11/2017, số lao động Việt Nam đang làm
việc tại Đài Loan là 206.184 người, chiếm 30% thị phần (cùng kỳ năm 2016 là 29,3%),
đứng thứ hai sau Indonesia, trong đó lao động làm việc trong ngành sản xuất công nghiệp
chiếm trên 87%, lao động làm việc trong ngành dịch vụ xã hội chiếm 13%.
Cùng với Đài Loan, Nhật Bản cũng được đánh giá là một thị trường xuất khẩu lao
động nhiều tiềm năng. Đặc biệt, đây là một trong các thị trường có điều kiện làm việc và
thu nhập tốt, được nhiều lao động Việt Nam quan tâm và đăng ký tham gia. Tính đến hết
tháng 12/2017, số lượng thực tập sinh được phái cử sang Nhật Bản đạt 54.504 người,
bằng 136,47% so với cùng kỳ năm 2016, nâng tổng số thực tập sinh Việt Nam đang thực
tập tại Nhật Bản lên hơn 100 nghìn người, vượt Trung Quốc và trở thành nước có số
lượng thực tập sinh phái cử nhiều nhất trong số 15 nước phái cử thực tập sinh sang Nhật
Bản.
3.2.2 MẶT TIÊU CỰC
Toàn cầu hóa cũng làm cho sự di chuyển lao động giữa các quốc gia diễn ra nhiều
và dễ dàng hơn, kéo theo hiện tượng lao động có trình độ cao di chuyển khỏi các nước
đang phát triển đến các nước phát triển. Hiện tượng này góp phần gia tăng khoảng cách
giàu nghèo giữa các quốc gia phát triển và đang phát triển, giữa từng khu vực riêng biệt
trong một đất nước.
Ở hầu hết mọi nơi trên thế giới, hiện tượng “chảy máu chất xám” (từ nước này
sang nước khác) là một hiện tượng được nhiều người, trong chính quyền cũng như ngoài
xã hội, đặc biệt quan tâm. Ngay các quốc gia tiền tiến Tây Âu và Canada thỉnh thoảng
TÍNH HAI MẶT CỦA TOÀN CẦU HÓA ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
20
cũng bộc lộ nhiều lo lắng về chất xám của họ di cư sang Mỹ. Và chính ở Mỹ, trong vài
năm gần đây, do hậu quả những luật lệ cấm đoán một số đề tài nghiên cứu sinh y học tại
nước này, cũng bị thất thoát nhiều khoa học gia sang Anh. Tuy nhiên, cho đến nay, sự
chảy máu chất xám trầm trọng nhất vẫn là từ các quốc gia nghèo, kém phát triển Á, Phi,
Mỹ La Tinh (và mới đây là Đông Âu) sang các quốc gia giàu, đã phát triển, ở Tây Âu và
Bắc Mỹ.
3.3 TỰ DO HÓA TÀI CHÍNH CỦA CÁC QUỐC GIA
3.3.1 MẶT TÍCH CỰC
Trong quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, tự do hóa tài chính là xu
thế tất yếu và mang lại nhiều lợi ích cho mỗi quốc gia, nhất là các nước đang phát triển.
Nhờ tự do hóa tài chính, nhiều nước đang phát triển đã thu hút được lượng vốn đầu tư rất
lớn và tiếp nhận nền tảng công nghệ hiện đại từ các nước công nghiệp phát triển để mở
rộng sản xuất kinh doanh và thúc đẩy xuất khẩu.
Đối với các nước phát triển, tự do hóa tài chính đã khuyến khích dòng vốn đầu tư
ra nước ngoài. Việc đẩy mạnh đầu tư từ các nước phát triển sang các nền kinh tế mới nổi
và đang phát triển đã giúp các doanh nghiệp tăng thu lợi nhuận nhờ chi phí lương thấp.
Ngày 29/12/1987, Quốc hội ban hành Luật Đầu tư nước ngoài đầu tiên tại Việt
Nam, đây được coi là bước đi chiến lược, kịp thời và thông minh khi Việt Nam bắt đầu
chính sách đổi mới chỉ trước đó một năm, 1986. Nhìn lại 30 năm, những thành quả của
đổi mới, trong đó có đóng góp của đầu tư nước ngoài thật to lớn. Việt Nam từ một quốc
gia nghèo (GDP đầu người 1989 là 100 USD) đã trở thành một quốc gia có thu nhập
trung bình (GDP đầu người năm 2017 là 2.400USD), quốc gia có tốc độ hội nhập ấn
tượng, là đối tác chiến lược của các quốc gia lớn, có tiếng nói quan trọng trong Liên hợp
quốc, có vị thế trong khu vực và thế giới.
Đầu tư nước ngoài đã có những đóng góp tích cực và ấn tượng trên nhiều mặt
trong tiến trình hội nhập và phát triển kinh tế - xã hội theo từng thời kỳ phát triển của đất
TÍNH HAI MẶT CỦA TOÀN CẦU HÓA ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
21
nước. Tính đến 20/12/2017, cả nước có 24.748 dự án đầu tư nước ngoài còn hiệu lực, với
tổng số vốn đăng ký là 318,72 tỷ USD, vốn thực hiện là 172,35 tỷ USD.
Thứ nhất, đầu tư nước ngoài đã đóng góp nguồn vốn rất quan trọng cho tăng
trưởng và xuất khẩu. Vốn FDI chiếm khoảng 25% tổng vốn đầu tư xã hội. Mặc dù vẫn
được ưu tiên trong tiếp cận đất đai, tiền thuê đất, miễn giảm thuế, song đóng góp thu
ngân sách của khu vực FDI không hề thua kém các doanh nghiệp trong nước.
Năm 2017, doanh nghiệp đầu tư nước ngoài xuất khẩu 155,4 tỷ USD chiếm 72,6%
kim ngạch xuất khẩu, xuất siêu gần 30 tỷ USD, góp phần giảm đáng kể tỷ lệ nhập siêu.
Thứ hai, đầu tư nước ngoài đã đóng góp quan trọng trong việc giải quyết lao động
và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, một nhân tố cơ bản cho hội nhập và phát
triển. Những năm đầu của thập niên 90, dư thừa lao động, thiếu việc làm là vấn đề không
dễ giải quyết, đó cũng là lợi thế lao động giá rẻ thu hút đầu tư nước ngoài, song đầu tư
nước ngoài đã góp phần quan trọng giải quyết khó khăn đó và nâng dần vị thế của lao
động Việt Nam. Trong quá trình làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài, người lao động đã trưởng thành trên nhiều mặt: tác phong công nghiệp, văn hóa
doanh nghiệp, trình độ kỹ năng chuyên môn kỹ thuật và quản lý, trình độ ngoại ngữ...
Nhiều lao động sau thời gian làm việc trong các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài
đã trở thành những cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý giỏi, nòng cốt trong các doanh nghiệp.
Thứ ba, đầu tư nước ngoài đã trực tiếp và gián tiếp đóng góp chuyển giao và phát
triển công nghệ, tham gia và thúc đẩy tiến trình công nghiệp hóa tại Việt Nam. Trong các
doanh nghiệp FDI nhiều máy móc, thiết bị, dây truyền công nghệ đã được nhập khẩu
phục vụ sản xuất, các quy trình kỹ thuật, bí quyết công nghệ và lý thuyết, kinh nghiệm
quản lý đã được chuyển giao cho các kỹ sư, cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý Việt Nam;
nhiều công nhân kỹ thuật, cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý người Việt Nam có thể đảm
đương tốt các vị trí của lao động nước ngoài. Kết quả trên vừa đem lại lợi ích cho doanh
nghiệp khi chi phí nhân công Việt Nam thấp hơn nhiều so với chi phí nhân công từ nước
TÍNH HAI MẶT CỦA TOÀN CẦU HÓA ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
22
ngoài trong cùng một vị trí công tác. Đồng thời, rất có lợi cho phát triển công nghệ và
nguồn nhân lực của Việt Nam, nâng cao năng lực cạnh tranh thu hút đầu tư nước ngoài.
Việc nhiều tập đoàn kinh tế lớn có sản phẩm hàm lượng công nghệ cao đến từ
Nhật Bản, Hàn Quốc, Hoa kỳ... đã đầu tư vào Việt Nam, điển hình là tập đoàn Samsung
đặt mục tiêu xây dựng cứ điểm lớn nhất thế giới của Samsung tại Việt Nam và gần đây
nhất đã xây dựng Trung tâm Nghiên cứu phát triển lớn với 2.000 kỹ sư tuyển dụng tại
Việt Nam là điều kiện rất thuận lợi để tiếp thu và phát triển công nghệ.
Thứ tư, đầu tư nước ngoài đã góp phần quan trọng thúc đẩy và làm cho hội nhập
có chiều sâu hơn. Hội nhập và đầu tư nước ngoài là hai mặt tương hỗ, kết quả hội nhập
cũng thúc đẩy mạnh mẽ đầu tư nước ngoài và ngược lại. Nói đến các hiệp định thương
mại tự do (FTA), đặc biệt là các FTA thế hệ mới, biểu tượng của hội nhập, không thể
không nhắc đến đầu tư nước ngoài. đầu tư nước ngoài còn gián tiếp thúc đẩy giao lưu văn
hóa, xã hội và du lịch, cầu nối hữu nghị với các quốc gia trên thế giới.
Thứ năm, đầu tư nước ngoài và hội nhập đã là nhân tố quan trọng thúc đẩy phát
triển hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội và hoàn thiện hệ thống chính sách, văn bản pháp
luật đặc biệt trong lĩnh vực thương mại và đầu tư. Qua 30 năm đổi mới và hội nhập, hệ
thống hạ tầng kỹ thuật của Việt Nam đã có những phát triển ấn tượng, hệ thống đường bộ,
đường thủy, đường hàng không với các cảng biển và sân bay hiện đại tầm cỡ khu vực đã
được xây dựng, đáp ứng nhu cầu giao thương, đầu tư phát triển đất nước. Đầu tư nước
ngoài cũng du nhập những phương thức đầu tư, kinh doanh mới vào Việt Nam, góp phần
phát triển kinh tế - xã hội, phục vụ đời sống nhân dân.
Kể từ năm 1987, Luật Đầu tư nước ngoài, (từ 2005 là luật đầu tư chung) qua sáu
lần sửa đổi và bổ sung đã trở thành một bộ luật khá hoàn chỉnh và tiên tiến, được các
chuyên gia trong và ngoài nước, cộng đồng doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp FDI
đánh giá cao, các lần thay đổi của bộ luật này luôn bám sát mục tiêu thu hút đầu tư và
những phát sinh từ thực tiễn trong quá trình thu hút và quản lý đầu tư, đặc biệt là đầu tư
nước ngoài.
TÍNH HAI MẶT CỦA TOÀN CẦU HÓA ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
23
Thứ sáu, đầu tư nước ngoài đã tạo tác động lan tỏa tới các doanh nghiệp trong
nước. Nhiều doanh nghiệp Việt đã hưởng lợi trực tiếp khi cùng liên doanh, liên kết với
các doanh nghiệp FDI, tham gia vào chuỗi sản xuất hàng hóa xuất khẩu. Trong những
năm gần đây, gần 50 doanh nghiệp phụ trợ của Samsung là doanh nghiệp Việt Nam thực
sự thành những tín hiệu đáng khích lệ. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam khi có kế hoạch
đầu tư ra nước ngoài đã nghiên cứu và học tập kinh nghiệm của các doanh nghiệp FDI
thành công khi đầu tư vào Việt Nam.
3.3.2 MẶT TIÊU CỰC
Đối với các nước đang phát triển, dòng vốn vào tăng mạnh gây khó khăn cho các
cơ quan quản lý tài chính trong việc duy trì ổn định giá trị bản tệ và ngăn chặn nguy cơ
đào thoát của dòng vốn đầu tư. Đối với các nước phát triển, tự do hóa tài chính cũng gây
khó khăn khi luồng vốn đầu tư đảo chiều quay về.
Việc đẩy mạnh đầu tư từ các nước phát triển sang các nền kinh tế mới nổi không
khuyến khích đầu tư cải tiến công nghệ và nâng cao năng suất lao động. Trong khi đó, làn
sóng mở rộng đầu tư sang các nước chậm phát triển với môi trường pháp lý chưa hoàn
thiện đã buộc các doanh nghiệp phải “lách luật” và điều này làm phát sinh tiêu cực. Xu
hướng này đã từng bước làm thui chột động lực tăng trưởng và năng lực cạnh tranh của
chính các nước phát triển, triệt tiêu chính sách tiền tệ và tỉ giá do mỗi biện pháp nới lỏng
tiền tệ tại các nước phát triển đều gây ra hiệu ứng lan chuyền tại các nước còn lại trên thế
giới nhằm hỗ trợ xuất khẩu vốn rất mong manh, các nỗ lực cân bằng kinh tế và thương
mại toàn cầu vì thế đều thất bại. Trong lĩnh vực tài chính, các ngân hàng phải theo sau
các doanh nghiệp và cũng phải trải qua nhiều sóng gió trong quá trình hoạt động tại các
nước đang phát triển để qua mặt các nhà điều hành, một yếu tố dẫn đến sự hình thành và
phát triển các hoạt động tài chính bất hợp pháp, một trong những nguyên nhân cơ bản của
khủng hoảng tài chính vừa qua và cho tới nay vẫn chưa có biện pháp hiệu quả, cải cách
tài chính quốc tế tiếp tục là thách thức ở phía trước.
TÍNH HAI MẶT CỦA TOÀN CẦU HÓA ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
24
4
CHƯƠNG IV. NHỮNG THÁCH THỨC VÀ CƠ HỘI CHO KINH TẾ VIỆT
NAM TRONG THỜI KÌ HỘI NHẬP
4.1 THÀNH TỰU CỦA KINH TẾ VIỆT NAM TRONG THỜI KÌ HỘI NHẬP
KINH TẾ
4.1.1 VIỆT NAM VỚI VAI TRÒ THÀNH VIÊN CỦA CÁC TỔ CHỨC KINH TẾ
LỚN
4.1.1.1 WTO
Tháng 1/1995: Việt Nam nộp đơn xin gia nhập WTO
Ngày 11/1/2007: WTO tiến hành nghi lễ trao thẻ thành viên WTO chính thức cho
Việt Nam.
Nhìn lại chặng đường 11 năm gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), Việt
Nam đã phát triển mạnh mẽ hơn nhờ mở rộng quan hệ và chính sách đổi mới. Cùng với
đó, việc mở cửa thị trường đã đem lại nhiều lợi ích, giúp các nước tìm được vị trí của
mình trong nền kinh tế. Ngoài ra, sau 11 năm gia nhập WTO, Việt Nam đã thu hút hơn
22.000 dự án FDI với tổng vốn đăng ký gần 300 tỷ USD. Đặc biệt, nhiều tập đoàn hàng
đầu trên thế giới đã chọn Việt Nam làm “cứ điểm” sản xuất như Samsung, LG, Toyota,
Honda, Canon,…
4.1.1.2 AEC
Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) chính thức có hiệu lực từ cuối năm 2015. AEC
ra đời mang lại nhiều cơ hội cho doanh nghiệp các nước ASEAN nói chung và doanh
nghiệp Việt Nam nói riêng thông qua việc mở ra một thị trường rộng lớn, bình đẳng cho
các doanh nghiệp. Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) là một trong những trụ cột quan
trọng của Cộng đồng ASEAN, được thiết kế nhằm tạo thuận lợi nhất cho các doanh
nghiệp trong khối tiếp cận bốn yếu tố chính, gồm vốn, công nghệ, thị trường và lao động.
Quyết tâm rút ngắn thời gian 5 năm để xây dựng AEC vào năm 2015 thay vì 2020,
các nhà lãnh đạo ASEAN hướng trọng tâm vào việc tạo dựng một thị trường và cơ sở sản
TÍNH HAI MẶT CỦA TOÀN CẦU HÓA ĐỐI VỚI NỀN KINH TẾ VIỆT NAM
25