Tải bản đầy đủ (.docx) (40 trang)

CÁC PHƯƠNG THỨC BIỂU HIỆN TÍNH mơ hồ TRONG NGÔN NGỮ THƠ TƯỢNG TRƯNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.01 MB, 40 trang )

CÁC PHƯƠNG THỨC BIỂU
HIỆN TÍNH MƠ HỒ TRONG
NGÔN NGỮ THƠ TƯỢNG
TRƯNG


- Tính mơ hồ trong ngôn ngữ thơ tượng trưng được
tạo ra qua các hình ảnh ẩn dụ, các ngữ âm lạ, lối so sánh
đặc biệt và các kết hợp từ
-Tính mơ hồ trong ngôn ngữ thơ tượng trưng được thể
hiện qua các hình ảnh ẩn dụ
Nếu như chủ nghĩa lãng mạn coi thế giới là hữu hình,
miêu tả cảm xúc một cách trực tiếp, chẳng hạn như các nhà thơ
lãng mạn bộc lộ tâm trạng một cách không che dấu, coi trọng
cảm xúc tình cảm:
“Hôm nay trời nhẹ dâng cao
Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”.
(Xuân Diệu)
Thì các nhà thơ tượng trưng ngược lại, nhìn thế giới ở
trạng thái vô hình, nên không còn bộc lộ tình cảm trực tiếp
không còn là truyền cảm nữa mà là gợi cảm, ám thị. Bên cạnh
đó thơ truyền cảm thì người đọc có thể dễ dàng nhận ra được
những thông điệp những cung bậc cảm xúc mà tác giả muốn
bộc bạch, còn thơ gợi cảm thì người đọc khó nắm bắt. Và người
đọc phải tự cảm nhận tự khai mở để có thể tiếp nhận được


những phần tinh túy nhất của thơ. Như vậy ngôn ngữ có thể
giúp thi nhân truyền tải được những ý tưởng của mình về thế
giới đến người đọc thông qua những hình ảnh ẩn dụ. Các hình
ảnh ấy được chắp vá, đứt đoạn khiến cho chúng trở nên độc đáo


đến kì dị, bất ngờ và cũng đầy phức tạp bởi nó được tạo ra từ
những giây phút cực thăng hoa của cảm xúc, của một trạng thái
tinh thần nửa sảng nửa mê, thế nên các hình ảnh thơ, ý thơ rất
mờ nhòe mà lại mơ hồ hư ảo. Các hình ảnh ẩn dụ góp phần làm
nên một thế giới thơ đầy mối tương giao hòa điệu, thế giới đầy
những bí ẩn.
Chẳng hạn như trong bài thơ “Mộng”, nhà thơ viết:
“Mộng trắng phau phau vót cung nga:
Xuân Hương! Người ngọc, máu say
ngà!”

“Mộng trắng phau phau” là hình ảnh ẩn dụ chuyển đổi
cảm giác, biến cái vô hình “Mộng”, thành cái hữu hình “Mộng
trắng phau phau”, khiến cho ý thơ càng thêm ám ảnh mông
lung, mộng trở nên có hình khối màu sắc.


“Chân nhịp nhàng, lòng nghe hương
nằng nặng.
Đây bài thơ không tiếng của đêm tơ”.
(Mộng cầm ca)
Người đọc còn thấy những hình ảnh ẩn dụ từ màu sắc
thành hương vị:
“Lờ mờ đường lên mây
Chén trăng vừa tầm với
Chàng ơi, vàng ròng đây
Kề môi say ân ái”.
(Ngũ Hành Sơn)

Vầng trăng vàng bỗng nhiên biến thành người yêu, từ cảm

nhân màu sắc của “chén trăng” thi nhân đã dắt người đọc
thưởng thức hương vị của tình yêu mật ngọt “say tình ái”. Chén
trăng đã trỏ thành người yêu hay người yêu trở thành chén
trăng? Đỗ Lai Thuý trong “Mắt thơ” đã bình thật độc đáo: “Ẩn
dụ chén trăng đã làm nổ một dây chuyền ngữ nghĩa. Trăng màu
vàng, nên chén trăng cũng là chén vàng (màu vàng), nhưng khi


thi nhân hạ bút vàng ròng thì chén trăng lại thêm một lần
chuyển nghĩa nữa, chén bằng vàng, biểu tượng của sự quí giá.
Chén làm liên tưởng đến thứ đựng trong chén, rượu nên có
thể kề môi và say, nhưng say ân ái thì chén trăng lại là chén tình
yêu. Vầng trăng bỗng thoắt biến thành người yêu, hoặc người
yêu biến thành vầng trăng lúc nào không ai hay”.
-Tính mơ hồ trong ngôn ngữ thơ tượng trưng được thể
hiện qua các ngữ âm lạ
Ngôn ngữ thơ là phương tiện có thể khiến chúng ta “cảm
thông đến cái vô cùng”, thấu hiểu được tận cùng mọi ý nghĩa và
thâm nhập được vào mọi cái đẹp tiềm tàng huyền diệu của thiên
nhiên vũ trụ.
Ngôn ngữ lạ hóa là thứ ngôn ngữ khiến cho người đọc
thấy mới, cũng có thể nó phá vỡ những quy cách thông thường,
khó hiểu nhưng ngược lại nó gây hiệu quả thẩm mỹ, giúp cho
lời thơ thêm huyền ảo mơ hồ đa nghĩa.
Bích Khê cũng có những câu thơ sử dụng ngôn ngữ lạ hóa
gây mơ hồ hư ảo:
“ Nàng ơi! Tay đêm đang giăng mềm
Trăng đan qua cành muôn tay mềm



Mây nhung pha màu thu trên trời
Sương lam phơi màu thu muôn nơi”.
(Tỳ bà)
Mùa thu đã trở thành bức tượng muôn màu của thi nhân,
trở thành hương thơm dịu ngọt của thơ ca, trở thành hơi men
say của câu chuyện tình ái, trở thành những cung bậc thăng
trầm của nhạc, và cũng là nguồn cơn của những nỗi sầu vạn cổ
của thi nhân. Lời thơ thật hư ảo bởi sắc thu thật lạ “mây nhung”
, với “sương lam” làm hiện lên trước mắt người đọc một cánh
rừng vàng với mây với sương ngập sắc thu.
Trong cõi thơ Bích Khê, bạn đọc có thể nhận ra ngay rằng
ông là người cách tân về kĩ thuật ngôn ngữ, và luôn tâm niệm
theo định hướng:
“Và mới mẻ, trên viện cổ Đông phương
Ai có nghe sức tiềm tàng bí mật”.
(Duy tân)
Ngôn ngữ trong thơ Bích Khê là sự tương giao hài hòa
giữa cái hữu hình và cái vô hình, với ông ngôn ngữ là cái thứ
nhất của thơ ca, không có ngôn ngữ sẽ không có văn học, mà


ngôn ngữ trong thơ thi nhân thật đẹp thật lạ mà cũng thật mơ
hồ:
“Mộng rất xanh, rất xanh, rất xanh
Choáng thời gian vây môn đầu thục nữ”.
Ngôn ngữ thơ thật lạ “mộng rất xanh”, mộng là giấc mộng
là cái vô hình mà thi nhân lại khái quát nó trở nên hữu hình cụ
thể, có màu sắc hấp dẫn, mang vẻ đẹp nguyên sơ. Ngôn ngữ thơ
ông đã thoát xác hoàn toàn ngôn ngữ thơ Mới, Ông lại sáng tác
trong trạng thái ảo mộng nên chữ nghĩa cứ thế bay nhảy không

theo một khuôn phép nào cả. Ngôn ngữ thơ trở thành phương
tiện để bạn đọc có thể cảm nhận thơ. Để có thể lột tả được hết
thế giới nội tâm của mình Bích Khê đã dung ngôn ngữ, thật lạ
vì thi nhân đã vật chất hóa những gì thuộc về thể lỏng, chẳng
hạn mắt được ví như ngọc:
“Hỡi đôi mắt, nơi người là ngọc thạch”.
Và ngược lại nhà thơ lại hóa lỏng những gì thuộc về
thể rắn sang thể lỏng:
“Lệ tích lại sắp tuôn hang đũa ngọc”.
(Tranh lõa thể)


Trong thơ Bích Khê ngôn ngữ về thân thể là ngôn ngữ táo
bạo nhất và cũng là ngôn ngữ lạ hóa nhất. Ngôn ngữ thân thể
trong thơ ông có thể chia thành các phần như sau: Phần ngoại lộ
có thể kể đến như: da, môi, vai, tóc…; Những phần được che
kín như ngực, bụng…; Ngôn ngữ nói về những cảm xúc thầm
kín trong lòng như: buồn, vui, uống, say, cắn…; Và một phần
nữa là phần bí ẩn trong cơ thể con người, chỉ thấy được khi mà
con người ta phải đối diện trước sự sống hay cái chết như : sọ,
tủy, máu, xương…Tất cả các bộ phận trên cơ thể con người đều
trở thành thứ ngôn ngữ mới lạ gây đam mê mê hoặc người đọc.
Hãy xem trong bài thơ “Mộng cầm ca” thi nhân viết:
“Đâu đôi mắt mùa thu xanh tợ ngọc?
Vú non non? Da dịu dịu, êm êm?
Đâu hang báu cho ta phải khóc?
Trên môi son ta liếc lưỡi gươm mềm!”
Hay:
“Ô cặp mắt đa tình ngời sắc kiếm
Một bàn chân ve vuốt một bàn chân

Mát làm sao! Mát rợn cả châu thân


Máu ứ lại, máu dồn lên giữa ngực.
Ôi! thớ thịt có đàn lên cung bực
Hồn tôi ôm gót ngọc lắng âm thanh…”
(Bàn chân)
Các từ ngữ “Mắt xanh tợ ngọc”, “vú non non”, “da dịu
dịu”, “hồn tôi ôm gót ngọc” được thi nhân sử dụng rất lạ như
phô bầy ra trước mặt chúng ta vẻ đẹp đầy quyến rũ mê đắm của
thân thể giai nhân. Thân thể đầy cám dỗ nhưng cũng chứa đựng
sức mạnh, thể hiện qua hình ảnh “Và sắc lẻm như thanh gươm
vấy máu” nó vừa tượng trưng cho sức mạnh lại biểu tượng cho
sự hủy diệt. Tác giả dùng những hình ảnh so sánh lạ hóa không
dấu diếm để khơi dậy vẻ đẹp vĩnh viễn quý giá của con người,
nó biểu tượng cho nhũng đam mê mơ mộng, ước ao của cái đẹp
vĩnh hàng. Ngôn ngữ vừa mang tính thân thể vừa mang tính giãi
bầy nội tâm vừa thể hiện được những cung bậc cảm xúc cũng
như khoái lạc của con người, có như thế thì mới thăng hoa thoát
tục.
-Tính mơ hồ trong ngôn ngữ thơ tượng trưng được tạo
ra bởi các hình ảnh so sánh đặc biệt và các kết hợp từ


Các hình ảnh so sánh trong thơ tượng trưng thường vượt
ra ngoài các khuôn phép bình thường, không phải đơn thuần so
sánh hai sự vật sự việc với nhau nữa, mà là sự so sánh ấy buộc
phải tạo tính ám gợi nhẹ nhàng êm dịu mà sức sống thì lại mãnh
liệt:
“Màu trắng không gian như gờn gợn sóng”.

(Nhạc – Bích khê)
Màu không gian trắng nhẹ nhàng nhưng âm điệu lại thật
dữ dội “gờn gợn sóng”. Hình ảnh so sánh giữu hai vật hữu hình
với nhau, không gian màu trắng là cái vô hình lại được so sánh
với cái hữu hình: con sóng gợn gợn khiến cho không gian trải
dài như những lớp sóng trùng điệp miên man, làm cho tâm thức
người đọc mơ hồ phải suy tư tưởng tượng.
Thơ tượng trưng thường sử dụng các từ để so sánh, chẳng
hạn:
“Ngọc Kiều! Ngọc Kiều! Ðến cặp song
đôi
Cho tôi đọ vẽ hương trời sắc nước”.
( Tranh lõa thể - Bích Khê)


Hay trong bài thơ “Hồ Xuân Hương” tác giả Bích Khê
viết:
“Xanh liễu ngoài song vừa đổi biếc
Màu thi sắc lá đọ dung nghi”.
Theo tác giả Lê Lưu Oanh trong bài “Thơ Bích Khê - Một
thể nghiệm thơ tượng trưng” có viết: “Tuy có đem hai hay
nhiều sự vật, hiện tượng đặt ở thế trực tiếp để đối lập nhau
nhưng kết quả so sánh thì thường là ngầm ẩn, còn các mô thức
còn lại đều ít nhiều mang lại hiệu quả so sánh”. Hay trong bài
thơ “Hồn ngàn xưa”, Nguyễn Xuân Sanh viết:
“Hồn ngàn mùa lạnh lẽo tay hương.
Hoàng hôn kinh dậy đất mênh mông
Trái đẹp sau xưa gợn gió bồng
Vai sầu chín thuở Đức say Bông
Người ngàn mùa kiếp trắng nghiêng

Sông”.
Các hình ảnh so sánh giữa các vế trong câu thơ dường
như không có nét tương đồng nhau. “Hồn” lạnh lẽo như “tay
hương”, và “người” như “kiếp trắng nghiêng sông”. Chúng ta
còn bắt gặp những hình cùng trường so sánh như thế trong bài
thơ “Sắc đẹp” của Bích Khê:


“Và rùng rợn như một điểm quái lạ.
Hồn ngươi nặng bị riềng khoan sắt đỏ,
Hễ chiêm bao là thấy chuyện đau thương.
Hồn người mê như sắc đẹp trên giường”.
Hay hình ảnh so sánh trong bài “Nàng bước tới”:
“Nàng bước tới như sông trăng chảy ngọc;
Như nắng thơm hớp đặc cả nguồn hương”.
“Hồn người” so sánh với sắc đẹp, nhan sắc của giai nhân đẹp
như “nắng” lan tỏa mùi hương. Thông qua cảm nhận các hình ảnh
so sánh bằng giác quan đã được cách tân, thi sĩ dẫn người đọc bước
vào thế giới thơ đầy trừu tượng. Chính vì thế khiến thơ tượng trưng
khó đọc, khó hiểu, thơ là bức tranh tượng trưng mà các con chữ là
một miền bí ẩn không phải dễ dàng mà hiểu được.
Bên cạnh đó các hình ảnh được gợi lên từ những kết hợp
từ cũng khiến cho không gian thơ tràn ngập mơ hồ hư ảo:
“Nàng dội thiêng liêng lên mái tóc
Nàng lùa thanh sắc vô tay”.
(Châu - Bích khê)


Hai động từ “dội”, và “lùa” thường để miêu tả những
hành động có thể quan sát được, thế nhưng trong câu thơ này

nhà thơ lại kết hợp với các từ mang tính trừu tượng khó nắm bắt
“thiêng liêng”, và “thanh sắc” khiến cho ý thơ mờ nhòe giữa cái
hữu hình với cái vô hình, giữa thực và hư.
Trong bài thơ “Một cõi trời”, cũng bắt gặp kết hợp từ rất
lạ:
“Trí thơm tho nên rung động bồi hồi
Trong phút lạ! - mơ hồ xương sọ vỡ...”
(Bích Khê)
Hoặc bài “Mộng”:
“Có người thi sĩ nhặt hoa rụng.
Những cánh đau thương sắp mặt lầu”.
Các kết hợp từ “trí thơm tho”, “cánh đau thương”, là sự
sáng tạo tuyệt vời của thi nhân, đó là phép thơ rất riêng của ông,
một phép thơ đã khiến cho thơ đầy hương sắc âm thanh, dẫn dắt
người đọc vào thế giới đầy mơ hồ huyền bí.
- Âm nhạc trong ngôn ngữ thơ tượng trưng
tạo tính mơ hồ đa nghĩa


Theo tác giả Lê Lưu Oanh: “Nhạc không chỉ là nhịp điệu của
thế giới huyền diệu mà còn là nhịp điệu của vũ trụ, của thế giới
tâm linh sâu thẳm, là nhịp điệu của hồn thơ, của sáng tạo”. (Thơ
Bích Khê- Một thể nghiệm thơ tượng trưng). Nhìn thế giới bằng
con mắt âm nhạc chính là một bước đi của thơ ca tượng trưng với
tuyên bố của P.Veclen, thi sĩ nổi tiếng của trường phái thơ tượng
trưng Pháp: “Âm nhạc đi trước mọi thứ. Nơi nơi thế giới hòa tan
trong nhạc”.
Bích Khê là thi sĩ đi theo quan điểm của Verlaine “trên hết
mọi sự của thơ là âm nhạc”. Đối với thi nhân thơ phải là sự kết
hợp hài hòa là sự hội tụ đủ các yếu tố hội họa, âm nhạc, điêu

khắc, nhiếp ảnh, và cả vũ đạo. Để không những sống dậy được
sức mạnh nguyên thủy sơ khai mà còn bật dậy được sức mạnh
hiện đại:
“Hỡi lời ca man dại.
Điệu nhạc thở hơi rừng
Đêm nay xuân đã lại.
Thuần túy và tượng trưng”.
(Thuần túy và tượng trưng)


Nhạc trong thơ Bích Khê chính là sức mạnh tạo nên giá trị
thưởng thức của thơ ông. Thơ của ông là thơ của âm thanh màu
sắc và hương thơm. Thi nhân đã khiến cho âm thanh phải liên
kết lại với nhau theo những quy luật ngữ âm nhất định để có thể
khơi gợi gửi gắm được ý tưởng nghệ thuật của mình. Với Bích
Khê, vỏ âm thanh của ngôn ngữ có khả năng mã hóa cuộc sống,
thêm nữa còn có thể đúc tạc được hình tượng cuộc sống bằng
nguyên liệu là âm thanh. Thi nhân ý thức khai thác triệt để tất
cả các quy luật ngữ âm của ngôn ngữ. Đó là nét độc đáo trong
thủ pháp nghệ thuật của Bích Khê và làm nên phong cách nghệ
thuật của thi nhân. Nhà phê bình văn học Thuệ Khê đã có
những lời nhận xét hết sức tinh tế: “Khó phân biệt được lúc nào
ông dung bút để viết, lúc nào ông vung cọ để vẽ, lúc nào ông
vung đũa để đánh nhạc. Và cũng cần phân biệt nhạc trong thơ
Bích Khê với nhạc trong thơ Hàn Mặc Tử: Nhạc trong thơ Hàn
là nhạc trầm trong mỗi chữ, nhạc trong thơ Bích Khê là nhạc
nổi trong thanh âm lạ, âm bằng.Ở những bài thật hay, thơ Bích
Khê là sự hòa âm giữa các điệu nhạc cổ, như điệu hoàng hoa,
điệu mộng cầm, bằng những màu sắc tân kỳ của hội họa hiện
đại”.

Nhạc tính nổi bật trong thơ của thi nhân chính là nhạc tính
thơ bình thanh, thi sĩ đã khoác lên mình thơ bộ áo âm thanh


mượt mà êm ái đầy ảo diệu mà mơ hồ đầy cảm xúc. Nhà thơ
Xuân Diệu cũng có những câu thơ sử dụng bình thanh:
“Sương nương theo trăng ngừng lưng trời
Tương tư nâng long lên chơi vơi”.
(Nhị hồ)
Nguyễn Xuân Sanh trong bài thơ “Xây mơ” cũng có viết:
“Tay sương lam mờ đường buông tơ,
Nghe sương lam mờ đường giăng tơ,
Đêm rải men tràn nơi lối đi
Hàng dương say đường thôi ngâm thơ”.
Tuy vậy đây mới chỉ là ngẫu hứng phải đến thơ Bích Khê
thì sức mạnh về bình thanh mới được khẳng định. Hãy xem bài
thơ “Tỳ bà”, toàn bộ bài thơ toàn sử dụng thanh bằng với những
câu thơ được coi là tuyệt bút:
“Mây nhung pha màu thu trên trời
Sương lam phơi màu thu muôn nơi”.
Lời ca vang lên nhẹ như hơi thở, như tiếng nhạc điệu ngân
nga réo rắt, bình thản đến lạ, như dẫn dắt con người ta vào


mênh mông xa vắng mà mơ hồ ảo diệu. Khiến cho ta lạc vào
chốn bồng lai tiên cảnh “bồng lai tiên nhạc phách” là chốn thần
tiên, cõi mộng cõi mơ. Gam màu mùa thu trong thơ ông cũng
thật lạ. Mây màu “nhung”, còn sương màu “lam”, tất cả đều
thật khiến cho người ta thêm mơ hồ ảo diệu.
Thơ Bích Khê du dương luyến láy như những nốt nhạc

trầm bổng làm mê đắm lòng người là bởi lối thơ gieo vần cùng
dòng, ở việc khai thác giá trị âm thanh ở thanh điệu như cao
thấp, các thủ pháp nghệ thuật như điệp từ điệp khúc. Lời thơ
như phiêu diêu mơ hồ hư ảo :
“Thu ôm muôn hồn chơi phiêu diêu
Sao tôi không màng kêu: em yêu”.
(Tỳ bà )
“Phiêu diêu” là từ dùng để chỉ trạng thái cảm xúc của con
người, nhưng trong lời thơ lại dùng để chỉ một cái rất trừu
tượng “muôn hồn” với chủ thể của động từ ôm lại là thời gian
“thu”, khiến cho lời thơ như mơ hồ hư ảo, tạo cảm giác mênh
mông bận tận cùng thời gian.
Hay trong bài thơ “Hoàng hoa”:


“Lam nhung ô! Màu lưng chừng trời
Xanh nhung ô! Màu phơi nơi nơi”.
Hay :
“ Đêm ôm hồn tôi chơi phiêu diêu”.
Lời thơ khiến cho cảm xúc trạng thái của con người bỗng
nhiên mờ ảo trong sự thăng hoa của nghệ thuật. Ý thơ đẹp mơ
màng với màu xanh thật lạ “xanh nhung ô”, khiến cho người
đọc phải tư duy cùng sáng tạo. Bởi thơ ông là tiếng lòng của
những cảm xúc bí ẩn, đằng sau những sự vật được biểu đạt
được phô ra ấy nhà thơ đã dấu đi cái được biểu đạt, cái biểu
hiện. Thế giới thơ của thi nhân đẹp lộng lẫy mang tính mơ hồ vì
lẽ đó.
Theo Hàn Mặc Tử: “Thi sĩ Bích Khê là người có đôi mắt rất
mơ, rất mộng, rất ảo, nhìn vào thực tế thì thực tế trở thành chiêm
bao, nhìn vào chiêm bao thì lại thấy xô sang địa hạt huyền diệu”.

Vườn thơ của ông ngân vang đầy nhạc điệu”. Với Bích Khê ngoài
trời là cả một trời nhạc, chẳng thế mà thi nhân đã viết:
“Thơ bay, thơ bay vô bàn tay ngà
Thơ ngà ngà say, thơ ngà ngà say.


Nàng ơi đừng động, có nhạc trong giây
Nhạc gây hoa mộng, nhạc ngát trời mây”.
(Nhạc)
Nhạc bao trùm khắp không gian hòa giữa con người và
cảnh vật. Nhạc lan tỏa khắp nơi nơi, nhạc làm nên hồn của thế
giới huyền diệu này, nó làm xôn xao cả vạn vật, lan truyền từ
trong tiềm thức của mỗi con người đến cả vũ trụ bao la. Nhạc
được tạo ra bởi thủ pháp điệp từ:
“Mưa hoa rụng, mưa hoa xuân rụng
Mưa xuống lầu, mưa xuống thềm lan.
Mưa rơi ngoài nẻo dặm ngàn,
Nước non rả rích giọng đàn mưa xuân…
Đầm mưa xuống, nẻo đồi mưa xuống,
Bóng dương tà rụng bóng tà dương.
Hoa xuân rơi với bóng dương
Mưa trong ý khách mưa cùng nước non.
(Tiếng đàn mưa)


Điệp từ “mưa” và điệp ngữ “mưa xuống” được nhắc lại
khiến cho không gian được mở rộng ra hơn, mưa xuống “thềm
lan”, mưa xuống đầm, mưa xuống đồi. Mưa từ hữu hình cụ thể
chuyển sang trạng thái hư vô “mưa trong ý khách, mưa cùng
nước non”. Tiếng mưa tạo thành bản nhạc đàn mưa khiến cho

không gian thêm yên ắng tĩnh mịch, khiến cho lời thơ thêm
hoang hoải mênh mông là buồn, khiến cho lòng người thêm
khắc khoải mông lung. Mưa hiện thực mưa trong tiềm thức
khắc khoải khôn nguôi, lời thơ vì thế mà mơ hồ dắt người đọc
như bước vào thế giới của cơn mưa đầy mờ nhòe.
Nhạc trở thành hình tượng cơ bản, ở đó có sự biến hóa của
đất trời, của vũ trụ bao la, là sự thăng hoa của cảm xúc. Thế nên
nhạc được cảm nhận bằng mọi giác quan, không chỉ nghe bằng
thính giác mà còn cảm nhận bằng cả thị giác:
“Ô! Nắng vàng thơm…rung rinh điệu ngoc”.
(Nhạc)
Điệu nhạc mang màu nắng với hương thơm tràn khắp
chốn, tiếng nhạc ở đây đẹp như những viên ngọc, kết tinh từ
những viên ngọc, nhạc vang lên hay chính là nhạc lòng của thi
nhân. Tâm hồn nhà thơ thật đẹp mới có thể dẫn dắt người đọc
vào thế giới của những bản nhạc màu nắng ngát hương thơm,


giai điệu nhe như tiếng ngọc. Lời thơ vì vậy mà mơ hồ đa
nghĩa.
Không chỉ nắng mang màu âm nhạc thành kí hiệu của
nhạc mà đến cả những ngon gió cũng trở thành những bản nhạc
du dương:
“Gió thiệt đa tình hôn mặt hoa
Thơm tho mùi thịt bắt say ngà
Gió đi chới với trong khung trắng
Lộ nửa vần thơ nửa điệu ca”.
Nhạc chan chứa bao trùm khắp mọi nơi, nó được cất lên bởi
chính những phút giây sáng tạo thăng hoa cùng cảm xúc của thi
nhân. Nhạc chính là những nhịp điệu đầy du dương của cõi trần

mơ mộng huyền diệu này. “Nhạc không chỉ là nhịp điệu của thế
giới huyền diệu mà còn là nhịp điệu của vũ trụ, của thế giới tâm
linh sâu thẳm, là nhịp điệu của hồn thơ, của sáng tạo. Nhìn thế
giới bằng con mắt âm nhạc chính là một bước đi của thơ ca tượng
trưng với tuyên bố của P.Veclen, thi sĩ nổi tiếng của trường phái
thơ tượng trưng Pháp: Âm nhạc đi trước mọi thứ”. (Lê Lưu OanhBích Khê một thể nghiệm thơ tượng trưng)


Kỹ thuật điệp từ điệp ngữ trong thơ Bích Khê đã đạt tới
mức nghệ thuật vi diệu khiến cho lời thơ đẹp long lanh lại gây ấn
tượng hư vô cho người đọc. Âm hưởng thơ trôi chảy nhẹ nhàng
bay bổng như làn gió thổi như áng mây bay:
“Trăng gây vàng, vàng gây lên sắc trắng
Của gương hồ im lặng tợ bài thơ.
Chân nhịp nhàng, lòng nghe hương nằng
nặng
Đây bài thơ không tiếng của đêm thơ
Trăng gây vàng, vàng gây lên sắc trắng
Của hồn thu đi lạc ở trong mơ”.
(Mộng cầm ca)
Âm nhạc trong thơ Bích Khê không có những âm điệu ồn
ào, giòn giã, nhưng về ngữ điệu thì thật mạnh mẽ dồn dập, tạo sức
ám gợi đi vào thế giới tâm linh sâu thẳm, màu sắc thì thật hư ảo
mông lung “trăng gây vang”, “vàng gây nên sắc trắng”. Màu sắc
tthật lạ đem đến cho người đọc cảm giác thật mới mẻ, đi đến
những khoái lạc trong tưởng tượng bởi sự mơ hồ trong từng màu
sắc âm thanh.


Như vậy âm nhạc trong thơ đã làm cho thơ của thi nhân

thêm du dương huyền ảo mơ hồ đa nghĩa. Theo Nguyễn Hữu
Vĩnh: “Nhạc tính trong thơ Bích Khê chứng tỏ một khả năng
khác của thi ca. Đó là việc làm tê mê độc giả bằng hệ thống âm
thanh của mình. Nhạc điệu đi trước, ý tứ theo sau là quy luật
chung của quá trình sáng tạo âm nhạc. Nhưng nếu xuất phát từ
việc xêm đơn vị ngôn ngữ như một đơn vị âm thanh thì thơ ca
trước hết cũng chính là nhạc. Thơ Bích khê là sự thể nghiệm cho
việc hòa nhập hai loại hình nghệ thuật này. Điều đó không nằm
ngoài quan niệm thơ ca và cái đẹp trong nghệ thuật tân kỳ, để làm
thành một Bích Khê sáng chói trên bầu trời thơ ca Việt Nam”.
- Tính mơ hồ trong ngôn ngữ thơ tượng trưng được
tạo ra qua các từ ngữ chỉ thời gian, không gian.
- Tính mơ hồ trong ngôn ngữ thơ tượng trưng được tạo
thông qua các từ ngữ chỉ thời gian
Trong triết học người ta xem thời gian là phương thức để
thế giới tồn tại. Tất cả các dạng tồn tại của vật chất trong thế giới
này đều có thời gian của mình. Một tác phẩm nghệ thuật thơ cũng
có thời gian vật chất, điều này có nghĩa là khi độc giả đọc tác
phẩm thì cũng tốn thời gian tùy thuộc vào độ dài ngắn. Không có
thời gian vật chất thì tác phẩm không thể tồn tại. Tuy nhiên thời


gian khách quan ấy chưa phải là thời gian nghệ thuật của tác
phẩm. Thời gian nghệ thuật là thời gian mà chúng ta có thể thấy
được độ dài hay ngắn của nó, với mức nhịp điệu nhanh hay chậm,
cùng chiều thời gian có thể là hiện tại hay quá khứ hoặc tương lai.
Thời gian nghệ thuật là kết tinh sự sáng tạo của thi nhân bằng các
phương tiện nghệ thuật thể hiện khác nhau, khiến cho người đọc
có thể cảm nhận được các trạng thái cảm xúc của chính mình như
hồi hộp lo lắng chờ đợi, hoặc là bình tĩnh thanh thản chấp nhận

mọi sự việc. Như vậy nếu thiếu cảm quan cảm nhận của người
đọc thì thời gian nghệ thuật không thể tồn tại được.
Chúng ta bắt gặp rất nhiều hình ảnh về thời gian trong thơ
ca. Chẳng hạn như: Xuân Diệu là nhà thơ sống cuống quýt vội
vàng vồ vập với sự sống, muốn quấn riết với đời:
“Ta ốm bó cánh tay ta làm rắn,
Làm dây da quấn quýt cả mình xuân.
Không muốn đi mãi mãi ở vườn trần.
Chân hóa rễ để hút mùa dưới đất”.
(Thanh niên )


Không phải Xuân Diệu là người đầu tiên băn khoăn về
vấn đề thời gian. Trước ông các thi gia cổ điển cũng đã suy
ngẫm về sự ngắn ngủi của thời gian của cuộc đời. Nhà thơ Lý
Bạch đã triết lý về cuộc đời của con người qua sự đổi màu của
mái tóc:
“Sớm còn xanh mượt như tơ.
Tối đà như tuyết bạc phơ đời đời”.
Còn Thôi Hiệu đời Đường thì mượn những cánh hoa rơi
để diễn tả nhịp trôi chảy của thời gian:
“Mùa xuân mới đó trôi như nước.
Hoa mới hôm qua nay đã rơi”.
Thời gian trong “Xuân Thu nhã tập” cũng mang tính mơ hồ
đa nghĩa bởi nó góp phần làm bừng tỉnh những cung bậc cảm xúc
mà thi nhân muốn gửi gắm.
“Xuân Thu nhã tập” ra đời khi Thơ mới đã rơi vào bế tắc,
khủng hoảng. Cái tôi- mảnh đất linh diệu của Thơ mới đã được
đào sâu đến tận cùng, và lúc này, đã mất hết sức sống. Trong xu
thế đó, “Xuân Thu” đã trăn trở và tìm một hướng đi mới cho thơ

ca dân tộc: “Tìm con đường thực, nối liền nguồn gốc xưa với ước


×