Chuyên đề Triết Học
CHUYÊN ĐỀ
TRIẾT HỌC
Họ và tên
: Võ Mạnh Hùng
Lớp
: Đường ô tô và đường thành phố B K20-1
Chuyên đề:
Anh, chị hãy trình bày những nguyên tắc tổng quát thống nhất giữa lý
luận và thực tiễn trong triết học Mác - Lê Nin
Bài làm
I. Thực tiễn và lý luận. Mối quan hệ biện chứng giữa lý
luận và thực tiễn.
1. Phạm trù thực tiễn.
Phạm trù Thực tiễn là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản của lý
luận nhận thức Macxít nói riêng, chủ nghĩa Mac-Lênin nói chung.
Trong lịch sử Triết học, các nhà triết học duy vật trước Mác không thấy
được vai trò của hoạt động thực tiễn đối với nhận thức, lý luận nên quan điểm
của họ mang tính chất trực quan. Các nhà triết học duy tâm lại tuyệt đối hóa yếu
tố tinh thần, tư tưởng của thực tiễn, họ hiểu họat động thực tiễn như là hoạt động
tinh thần, hoạt động của “ý niệm”, tư tưởng, tồn tại đâu đó ngoài con người, nói
cách khác, họ gạt bỏ vai trò thực tiễn trong đời sống xã hội.
Các nhà triết học duy tâm chỉ hiểu thực tiễn như là hoạt động tinh thần
chứ không hiểu nó như là hoạt động hiện thực, hoạt động vật chất cảm tính của
con người. Nhìn chung, họ chỉ giới hạn thực tiễn ở ý niệm, ở hoạt động tư
tưởng. Chẳng hạn Heghen (nhà triết học duy tâm người Đức) cho rằng thực tiễn
là một suy lý logic. Các nhà triết học duy vật trước Mác tuy có công lao lớn
trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, tôn giáo và thuyết “ không thể
biết” để phát triển thế giới quan duy vật, nhưng khuyết điểm lớn nhất của họ là
họ không thấy được vai trò của thực tiễn đối với đời sống nhận thức. Ngay cả
nhà triết học duy vật lớn nhất trước Mác là Phoiơbắc tuy có đề cập đến thực tiễn
nhưng ông không thấy được thực tiễn coi như hoạt động vật chất cảm tính, tính
năng động của con người. Do đó ông coi thường hoạt động thực tiễn. Vì vậy ông
cho rằng chỉ có hoạt động lý luận mới là cao quý. Ông không hiểu được vai trò,
ý nghĩa của thực tiễn đối với nhận thức và cải tạo thế giới. Lần đầu tiên trong
lịch sử triết học C.Mac và Anghen đã đưa thực tiễn vào lý luận nhận thức. Do đó
Học viên: Võ Mạnh Hùng
1
Lớp: Đường ô tô & đường TP B K20-1
Chuyên đề Triết Học
các ông đã thực hiện được bước chuyển biến cách mạng trong lý luận nhận thức.
Mac viết: các nhà triết học chỉ biết giải thích thế giới bằng nhân cách khác nhau
song vấn đề là ở chỗ cải tạo thế giới. Còn Lenin viết : quan điểm và đời sống về
thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ sở cuả lý luận nhận thức. Như vậy
các nhà triết học Mac- Le Nin đã đem lại một quan điểm đúng đắn về thực tiễn
và vai trò của nó đối với nhận thức cũng như đối với sự tồn tại và phát triển của
xã hội loài người.
Vậy thực tiễn là những hoạt động vật chất có tính lịch sử xã hội của con
người nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội. Định nghĩa này bao gồm các nội dung sau:
- Thực tiễn không phải bao gồm toàn bộ hoạt động của con người, mà chỉ
là những hoạt động vật chất. Tính vất chất của thực tiễn biểu hiện trên hai điểm:
+ Thực tiễn là hoạt động có mục đích của con người nhưng lại bị thế giới
quan quy định. Khẳng định điều này Lênin viết: “Trong hoạt động thực tiễn của
mình, con người đứng trước thế giới khách quan, phụ thuộc vào thế giới khách
quan ấy, để cho thế giới khách quan ấy quy định vào hoạt động của mình.
+ Trong thực tiễn con người phải sử dụng các phươn tiện, công cụ vật
chất, tác động vào thế giới bằng sức mạnh vật chất, nhằm biến đổi bản thân sự
vật trong hiện thực phù hợp với nhu cầu của mình. Do đó, thực tiễn là hoạt động
có tính năng động, sáng tạo, là hoạt động đối tượng hoá, là quá trình chuyển hoá
cái tinh thần thành cái vật chất.
Thực tiễn không chỉ là những hoạt động vật chất, cảm tính của từng con người
cá biệt mà là hoạt động cơ bản của loài người. Xét từ nội dung cũng như từ phương
thức thực tiễn mang tính lịch sử - xã hội. tính lịch sử của thực tiễn biển hiện:
+ Đó là hoạt động bản chất của con người, hoạt động đặc chưng của con
người và đó cũng là phương thức tồn tại cơ bản của con người.
+ Các phương tiện công cụ cho đến những kỹ năng, kỹ xảo và cả trí thức
mà con người sử dụng trong thực tiễn đều là sản phẩm của lịch sử - xã hội.
+ Thực tiễn không bất biến, nó luôn luôn vận động, biến đổi và phát triển
theo tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại. Hay nói cách khác trình độ trinh
phục tự nhiên và cải biến xã hội của con người ngày càng cao..
Để nắm vững khái niện thực tiễn, tư duy khái niện đó theo đúng nghĩa
khoa học của nó, ngoài việc nắm chắc hai đặc trưng trong nội dung của khái
niệm thực tiễn (hoạt động vật chất có mục đích của con người và tính lịch sử xã hội của thực tiễn), còn phải nhận dạng của hoạt động này trong thực tế.
Học viên: Võ Mạnh Hùng
2
Lớp: Đường ô tô & đường TP B K20-1
Chuyên đề Triết Học
Hình thức của thực tiễn rất đa dạng và phong phú, nhưng về đại thể có thể
phân thành những dạng cơ bản và những dạng không cơ bản. Dạng cơ bản đầu
tiên của thực tiễn là hoạt động sản xuất vật chất. Đây là dạng thực tiễn cơ bản
nhất quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người và quyết định các
dạng khác của thực tiễn, nó tạo thành cơ sở của tất cả các hình thức khác của
hoạt động sống của con người, giúp con người thoát khỏi giới hạn tồn tại của
động vật. Một dạng cơ bản khác của thực tiễn là hoạt động chính trị – xã hội
nhằm trực tiếp cải tạo, biến đổi các quan hệ xã hội, các thiết chế, tổ chức bộ máy
trong xã hội, các chế độ xã hội. Ngoài ra với sự ra đời và phát triển của khoa
học, một dạng cơ bản nữa của thực tiễn xuất hiện - đó là hoạt động thực tiễn
nghiệm khoa học.
Trên cơ sở những dạng cơ bản những dạng không cơ bản của thực tiễn
được hình thành. Đó là mặt thực tiễn của các hoạt động trong các lĩnh vực như
đạo đức, nghệ thuật, giáo dục, tôn giáo… Những dạng thực tiễn này tuy là cái
phát sinh từ những dạng cơ bản nhưng cũng rất quan trọng, nhất là trong sự phát
triển của những lĩnh vực nêu trên.
- Thực tiễn là hoạt động vật chất gắn liền với sự biến đổi tiến bộ của tự nhiên
xã hội loài người nhằm cải tạo tự nhiên xã hội. Nhưng hoạt động vật chất nào đi
ngược lại với khoa học tự nhiên và xã hội thì không goị là hoạt động thực tiễn.
2. Phạm trù lý luận.
Lý luận là một hệ thống những tri thức được khái quát từ thực tiễn
phản ánh mối liên hệ bản chất những quy luật của thế giới khách quan. Chủ tịch
Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người,
là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch
sử”. Lý luận được hình thành từ kinh nghiệm, trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm,
nhưng lý luận không hình thành một cách tự phát từ kinh nghiệm và không phải
mọi lý luận đều trực tiếp xuất phát kinh nghiệm. Do tính độc lập tương đối của
nó, lý luận có thể đi trước những dữ kiện kinh nghiệm. Tuy nhiên điều đó không
làm mất đi mối liên hệ giữa lý luận với kinh nghiệm. Khác vơí kinh nghiệm, lý
luận mang tính trừu tượng và khái quát cao nên nó đem lại những hiểu biết sâu
sắc về bản chất, tính quy luật của các sự vật, hiện tượng khách quan. Như vậy lý
luận thể hiện tính chân lý sâu sắc hơn, chính xác hơn, hệ thống hơn, nghĩa là nó
có tính bản chất sâu sắc hơn và do đó phạm vi ứng dụng của nó cũng phổ biến,
rộng rãi hơn nhiều so với tri thức kinh nghiệm.
Theo quan niệm duy vật biện chứng, nhận thức là quá trình con người
phản ánh một cách biện chứng thế giới khách quan trên cơ sở thực tiễn. Đó
Học viên: Võ Mạnh Hùng
3
Lớp: Đường ô tô & đường TP B K20-1
Chuyên đề Triết Học
không phải là một quá trình giản đơn, thụ động, máy móc, mà là quá trình phản
ánh hiện thực khách quan vào óc người một cách năng động, sáng tạo. Đó là quá
trình đi từ chưa biết đến có biết, từ biết ít đến biết nhiều, từ nông đến sâu, từ
chưa đủ và chính xác, đến đầy đủ và chính xác hơn.
Sự phát triển của nhận thức loài người tất yếu dẫn đến sự xuất hiện của lý
luận. Lý luận là sản phẩm của sự phát triển cao của nhận thức, đồng thời thể
hiện như là trình độ cao của nhận thức.
Xét về bản chất, lý luận là hệ thống những tri thức được khái quát từ
những kinh nghiệm thực tiễn, phản ánh những mối liên hệ bản chất, những tính
quy luật của thế giới khách quan.
Kinh nghiệm và lý luận là hai trình độ khác nhau của nhận thức, đồng thời
lại thống nhất với nhau; chúng bổ xung cho nhau, giả định lẫn nhau, thâm nhập
và chuyển hoá lẫn nhau. Nhận thức kinh nghiệm và nhận thức lý luận không
đồng nhất với nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính, tuy chúng có quan hệ với
nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính. Nhận thức kinh nghiệm ngoài hoạt
động trực quan cảm tính, còn có sự tham gia của yếu tố lý tính. Do đó kinh
nghiệm và lý luận đều là kết quả của nhận thức lý tính, nhưng ở những bậc
thang cao thấp khác nhau.
Kinh nghiệm là những ci thức chủ yếu thu nhận được từ sự quan sát và thí
nghiệm. Trí thức kinh nghiệm nảy sinh một cách trực tiếp từ thực tiễn, từ cuộc
sống. Có hai loại chi thức kinh nghiệm: Tri thức kinh nghiệm thông thường (tiền
khoa học) thu được từ những sự quan sát hàng ngày, từ sự trải nghiệm trong
cuộc sống và thực tiễn; và tri thức kinh nghiệm khoa học thu nhập được từ
những vấn đề khoa học.
Tri thức kinh nghiệm đã mang tính trừu tượng và khái quát, song mới là
bước đầu và còn hạn chế. Nó chỉ mới đem lại sự hiểu biết về các mặt riêng lẻ, về
các mối liên hệ bên ngoài của sự vật và còn rời rạc. ở trình độ tri thức kinh
nghiệm chưa thể nắm bắt được cái tất yếu, mối quan hệ bản chất giữa các sự vật,
hiện tượng. Nhận thức do đó, không nên dừng lại ở kinh nghiệm mà cần nâng
lên trình độ lý luận.
Lý luận là trình độ cao hơn về chất so với kinh nghiệm. Lý luận là những
tri thức được khái quát từ những tri thức kinh nghiệm. Tuy nhiên ở đây cần lưu ý
rằng lý luận không phải là tổng số các kinh nghiệm, là con số cộng các kinh
nghiệm. Sự chuyển biến từ tri thức kinh nghiệm lên tri thức lý luận là sự chuyển
biến về chất trong nhận thức thông qua sức mạnh khái quát hoá và trừu tượng
Học viên: Võ Mạnh Hùng
4
Lớp: Đường ô tô & đường TP B K20-1
Chuyên đề Triết Học
hoá của tư duy. Vả lại không phải mọi tri thức lý luận đều trực tiếp xuất phát từ
kinh nghiệm. Do tính độc lập tương đối của nó, lý luận có thể đi trước những dữ
kiện kinh nghiệm. Tuy nhiên điều đó vẫn không làm mất đi mối liên hệ giữa lý
luận và kinh nghiệm.
Khác với kinh nghiệm, lý luận mang tính trừu tượng và khái quát cao, nhờ
đó, nó đem lại sự hiểu biết sâu sắc về bản chất, tính tất nhiên, tính quy luật của sự
vật, hiện tượng. Nó phản ánh được nhứng mối liên hệ biện chứng, tính quy luật
của sự vật, hiện tượng thông qua một hệ thống các khái niệm, phạm trù, quy luật.
3. Mối quan hệ biện chứng giữa lý luận và thực tiễn.
Lý luận được hình thành không phải ở bên ngoài thực tiễn mà trong mối
liên hệ với thực tiễn. Do đó, thực tiễn và lý luận luôn có mối quan hệ biện chứng
tác động qua lại lẫn nhau trong đó thực tiễn giữ vai trò quyết định và lý luận có
sự tác động trở lại thực tiễn. Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một trong
những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin nói chung và lý luận nhận
thức mác xít nói riêng. Quán triệt nguyên tắc này có ý nghĩa quan trọng đối với
nhận thức khoa học và thực tiễn cách mạng
a. Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức lý luận.
Trong quan hệ với nhận thức nói chung, với lý luận nói riêng, thực tiễn
thực hiện ba vai trò:
Thực tiễn là cơ sở và động lực chủ yếu và trực tiếp nhất của nhận thức của
lý luận. Khẳng định điều đó, ăng ghen viết “Từ trước đến nay, khoa học tự nhiên
cũng như triết học đã hoàn toàn coi thường ảnh hưởng của hoạt động của con
người hoàn toàn coi thường ảnh hưởng của hoạt động của con người đối với tư
duy của họ. Hai môn ấy một mặt chỉ biết có tự nhiên, mặt khác, chỉ biết có tư
tưởng. Nhưng chính việc người ta biết đối tự nhiên, chứ không phải chỉ một
mình giới tự nhiên, với tính cách là giới tự nhiên, là cơ sở chủ yếu nhất vào trực
tiếp nhất của tư duy con người và trí tuệ con người đã phát triển song song với
việc người ta đã học cải biến tự nhiên”.
Con người qua hệ với thế giới bắt đầu không phải bằng lý luận mà bằng
thực tiễn. Chính từ trong quá trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới mà nhận
thức, lý luận ở con người mới được hình thành và phát triển. Bằng sự quan sát,
ngắm nhìn thế giới một cách thụ động con người giỏi lắm cũng mới chỉ nhận
thức được thuộc tính, những vẻ bề ngoài của sự vật, hiện tượng. Chỉ có thông
qua thực tiễn, con người tác động vào thế giới, cải tạo thế giới, biến “vật tự nó”
thành “ vật cho ta” thì thế giới mới bộc lộ những thuộc tính, những tính quy luật
Học viên: Võ Mạnh Hùng
5
Lớp: Đường ô tô & đường TP B K20-1
Chuyên đề Triết Học
để con người nhận thức chúng. Chính thông qua thực tiễn con người thu nhận
được những tài liệu cảm tính, đúc kết tích luỹ được những kinh nghiệm. Và lý
luận khoa học chính là kết quả của sự tổng kết, khái quát tự những tài liệu đó.
Với nghĩa đó có thể nói rằng không có thực tiễn, không có lý luận. Mọi lý luận
khoa học không tự biện đều bắt nguồn từ thực tiễn, phát triễn cùng với sự phát
triển của thực tiễn.
Thực tiễn không phải là cơ sở chủ yếu, trực tiếp nhất, mà còn là động lực
quan trọng nhất của nhận thức, lý luận. Trong quá trình tồn tại, con người không
thể thoả mãn với những gì mà thế giới cung cấp cho mình dưới dạng có sẵn,
nên con người phải cải taọ thế giới bằng thực tiễn của mình và chính trong quá
trình biến đổi thế giới, con người cũng biến đổi luôn cả bản thân mình, phát triển
năng lực tư duy, năng lực nhận thức, năng lực chí tuệ của mình. Nhờ đó, con
người ngày càng nhận thức sâu sắc hơn thế giới, khám phá những bí mật của thế
giới, làm phong phú và sâu sắc hiểu biết của mình về thế giới và hơn nữa thế
giới của con người luôn luôn mớ, do đó luôn luôn làm nẩy sinh những vấn đề
mới, những “tình huống có vấn đề” buộc nhận thức, lý luận phải lý giải, giải đáp
và định hướng cho thực tiễn.
Sự xuất hiện và phát triển của các khoa học, của các lý luận đều bắt nguồn
từ đòi hỏi của thực tiễn, từ nhu cầu của thực tiễn càng phong phú đa dạng bao
nhiêu thì nhận thức khoa học, lý luận càng phát triển bấy nhiêu. Nhấn mạnh vai
trò động lực của ăngnghen đã từng nói rằng, khi thực tiễn phát triển, thì nó thúc
đẩy cho khoa học phát triển.
Thực tiễn là mục đích của lý luận. Lý luận, khoa học không có mục đích
tự thân. Lý luận khoa học suy cho cùng là nhằm hướng dẫn, chỉ đạo thực tiễn.
Do đó lý luận khoa học và nhận thức nói chung chỉ có ý nghĩa thực sự khi chúng
đáp ứng nhu cầu của thực tiễn thể hiện ở chỗ: thực tiễn định hướng sự phát triển
của nhận thức, lý luận khoa học, làm cho chúng phát triển đúng hướng và do đó
có tác dụng thiết thực.
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Trong lịch sử triết học đã xuất hiện
nhiều điểm khác nhau về tiêu chuẩn của chân lý. Có người coi chân lý là những
gì được chứng minh bằng các giác quan, những gì được chứng minh bằng những
tài liệu cảm tính do các giác quan đem lại; có người khẳng định tiêu chuẩn của
chân lý là ở tính rõ ràng, chặt chẽ của tư duy; có người cho rằng chân lý thuộc
về số đông; có người cho rằng chân lý là đem lại lợi ích cho con người, thoả
mãn một nhu cầu nào đó của con người.
Học viên: Võ Mạnh Hùng
6
Lớp: Đường ô tô & đường TP B K20-1
Chuyên đề Triết Học
Lần đầu tiên trong lịch sử triết học Mác và ăngnghen đã khắc phục được
những hạn chế của học thuyết triết học trước đay về vấn đề này và khẳng định
một cách có căn cứ khoa học: thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý. Hay nói cách
khác, chỉ có lấy thực tiễn kiểm nghiệm mới xác nhận được trí thức đạt được là
đúng hay sai, là chân lý hay sai lầm. Kết luận bên ngoài thực tiễn sẽ xa vào
những cuộc bàn cãi thuần tuý kinh nghiệm. Khẳng định điều đó Mác viết: “ Vấn
đều tiềm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan không
hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính
trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý…
Tuy nhiên cần phải hiểu tiêu chẩn thực tiễn một cách biện chứng, hay nói
cách khác tiêu chuẩn này vừa có tính tuyệt đối, vừa có tính tương đối. Tính tuyệt
đối ở đây được hiểu theo nghĩa: thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan duy nhất để
kiểm nghiệm chân lý, thực tiễn ở mỗi giai đoạn lịch sử có thể xác nhận được chân
lý, bác bỏ được sai lầm trong giới hạn, phạm vi đã được kiểm nghiệm. Nhưng tiêu
chuẩn thực tiễn có cả tính tương đối vì thực tiễn không bất biến, nó luôn biến đổi
và phát triển. Kiểm nghiệm qua thực tiễn, do đó là một quá trình liên tục, hết thực
tiễn này đến thực tiễn khác. Những trí thức được kiểm nghiệm vẫn phải thường
xuyên chịu sự kiểm nghiệm bởi thực tiễn tiếp theo. Thực tiễn là tiêu chuẩn đánh
giá chân lý, nhưng tiêu chuẩn đó không cho phép coi những tri thức của con
người đạt được trong một lúc nào đó là chân lý vĩnh viễn, tuyết đối, cuối cùng.
Nói về tính tương đối của tiêu chuẩn thực tiễn. Lênin viết: “Dĩ nhiên không nên
quên rằng tiêu chuẩn thực tiễn, xét về thực chất, không bao giờ có thể xác nhận
hoặc bác bỏ một cách hoàn toàn một biểu tượng nào đó của con người, dù biểu
tượng đó là thế nào chăng nữa. Tiêu chuẩn đó cũng khá “không xác định” để
không cho phép các hiểu biết của con người trở thành một cái “tuyệt đối”.
Như vậy việc quán triệt tính biến chứng của tiêu chuẩn thực tiễn giúp
chúng ta tránh khỏi những cựa đoan sai lầm của chủ nghĩa giáo điều, bảo thủ
hoặc chủ nghĩa chủ quan, chủ nghĩa tương đối.
Tóm lại sự phân tích trên đây về vai trò của thực tiễn đối với lý luận đòi
hỏi phải quán triệt quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu nhận thức phải
xuất phát từ thực tiễn, dựa trên cơ sơ thực tiễn, đi sâu, đi sát thực tiễn .Coi trọng
việc tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, “học phải
đi đôi với hành”. Nếu xa rời thực tiễn thì sẽ dẫn tới sai lầm của bệnh chủ quan,
giáo điều, máy móc, quan liêu.
b. Sự tác động trở lại của lý luận đối với thực tiễn.
Học viên: Võ Mạnh Hùng
7
Lớp: Đường ô tô & đường TP B K20-1
Chuyên đề Triết Học
Triết học Mac xit chỉ ra rằng coi trọng thực tiễn không có nghĩa là coi nhẹ
lý luận, hạ thấp vai trò của lý luận mà phải thấy được vai trò tác động tích cực
của lý luận đối với thực tiễn. Tuy nhiên trên cơ sở thực tiễn mà nó tác động trở
lại thực tiễn. Vai trò của lý luận đối với thực tiễn được thể hiện ở các điểm sau:
Thực tiễn là hoạt động vật chất có mục đích của con người. Nhưng “mục
đích của con người là do thế giới khách quan sản sinh ra và lấy thế giới khách
quan làm tiêu đề. Hay nói cách khác con người muốn cải tạo thế giới khách quan
có hiệu quả, phải nhận thức được thế giới đó nhận thức có thể ở trình độ cảm
tính chân lý sâu sắc nhất (nắm được bản chất, tính quy luật của thế giới, của sự
vật hiện tượng thế giới). Vì vậy lý luận có vai trò to lớn đối với thực tiễn thể
hiện ở ba điểm chủ yếu sau: Lý luận hướng dẫn, chỉ đạo thực tiễn, lý luận khoa
học là “kiêm chỉ nam” cho thưc tiễn. Nó giúp cho thực tiễn hoạt động đúng
hướng, có hiệu quả, tránh mò mẫu, tự phát. Lý luận khoa học giúp con người
xác định đúng đắn nhu cầu, lợi ích, mục đích và tìm kiếm phương tiện phù hợp
cải tạo có hiệu quả thế giới. Không những thế, lý luận do nắm được bản chất,
quy luật cuả thế giới một cách chủ động, sáng tạo nên nó có thể dự kiến được
vận động và phát triển của sự vật trong tương lai từ đó định hướng cho thực tiễn
trong hiện tại, vạch ra những phương hướng mới cho thực tiễn và lý luận phát
huy vai trò đặc biệt to lớn đối với thực tiễn mỗi ki nó thâm nhập vào quần
chúng, biến thành niềm tin và phong trào thực tiễn của quần chúng.
Lịch sử phát triển của nhân loại đã chỉ ra rằng, vai trò của lý luận, khoa học
ngày nay, từ thập kỷ 80 với những biến đổi sâu sắc làm thay đổi bộ mặt của thế
giới, với cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc đang diễn ra gay go, phức tạp, với sự
phát triển mạnh mẽ nhanh chóng của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện
đại vai trò của lý luận khoa học càng trở nên vô cùng quan trọng. Chỉ có bằng tư
duy lý luận khoa học mới có thể lý giải được tính chất hết sức đa dạng, phức tạp
và đẩy mâu thuẫn với những biến động to lớn của thời đại ngày nay.
Ở nước ta, công cuộc đổi mới toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hôi do Đảng ta khởi xướng đã thu được “Những thành tựu to lớn và ý
nghĩa lịch sử”. Tuy nhiên tính chất khó khăn và phức tạp của sự nghiệp đổi mới
cũng như chiếu sâu và tầm cỡ của nó, như qua tổng kết lý luận thực tiễn 20 năm
đổi mới đã chỉ ra còn rất nhiều vấn đề lý luận lớn lao và gay cấn đòi hỏi phải
được giải quyết. Cho nên có thể nói rằng, chưa bao giờ lý luận lại cần thiết và có
tầm quan trọng lớn như hiện nay. Lý luận trở thành thiết thân đối với sự nghiệp
đổi mới nói riêng, đối với toàn bộ vận mện của chủ nghĩa xã hội nói chung.
Học viên: Võ Mạnh Hùng
8
Lớp: Đường ô tô & đường TP B K20-1
Chuyên đề Triết Học
Từ phân tích trên chúng ta thấy rằng lý luận và thực tiễn có sự tác động
qua lại biện chứng với nhau. Lý luận càng cao, hiểu biết càng đa dạng, phong
phú, sinh động bao nhiêu. Chính trong sự tác động qua lại biến chứng đó mà
trình độ thực tiễn ngày càng cao hơn, hiệu quả hơn và đồng thời nhận thức của
con người về thế giới càng sâu sắc hơn, lý luận càng phát triển cao hơn.
Chính chủ nghĩa Mác Lênin là tiêu biểu cho sự gắn bó mật thiết giữa lý
luận với thực tiễn của nó. Lý luận Mác Lênin là sự khái quát thực tiễn cách
mạng, lịch sử - xã hội, là sự đúc kết những tri thức kinh nghiệm và tri thức lý
luận trên các lĩnh vực cụ thể để xây dựng nên hệ thống lý luận khoa học hoàn
chỉnh. Sức mạnh, sức sống của nó là ở chỗ gắn bó hữu cơ với thực tiễn, được
kiểm nghiệm, sửa đổi bổ sung và phát triển trong thực tiễn.
Nhấn mạnh điều đó, Hồ Chí Minh viết “Thống nhất giữa lý luận và thực
tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác Lênin. Thực tiễn không có lý
luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ thực
tiễn là lý luận suông.
Tóm lại sự tác động trở lại của lý luận đối với thực tiễn theo hai hướng:
nếu lý luận phù hợp với thực tiễn thì nó thúc đẩy thực tiễn phát triển, nếu lý luận
phản ánh sai thực tiễn thì nó sẽ kìm hãm sự phát triển thực tiễn.
II. Ý nghĩa phương phương pháp luận đối với nhận thức và thực tiễn
Lâu này, nói đến đổi mới thường chúng ta hay bắt đầu từ thời điểm Đại
hội VI. Thật ra, Đại hội VI chỉ là cái mốc lịch sử xác lập nên đường lối đổi mới
của Đảng ta, còn việc hình thành đường lối ấy là cả một quá trình. Đầu năm 80
là thời kỳ đặt nền tảng lý luận cho công cuộc đổi mới, mà Trường Chinh là
người đặt viên gạch đầu tiên cho quá trình đó. Tại sao Trường Chinh lại đặt ra
yêu cầu cấp bách của công cuộc đổi mới trước hết là đổi mới tư duy?
Theo ông, không có bước đổi mới tư duy đi trước thì không có bất cứ một
sự đổi mới nào cả. Đổi mới tư duy thực chất là một cuộc giải phóng triệt để
mang ý nghĩa lịch sử. Đổi mới tư duy, đặc biệt là đổi mới tư duy kinh tế là một
cống hiến xuất sắc về mặt quan điểm lý luận của Trường Chinh góp phần hình
thành đường lối mới của Đảng ta tại Đại hội VI. Theo ông, tư duy mới về kinh tế
là sự vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin vào hoàn cảnh nước ta, phù hợp với quy
luật khách quan, với trình độ của nền kinh tế ở mỗi thời kỳ phát triển. Đó là tư
duy biện chứng khoa học và cách mạng. Ông cho rằng, đổi mới tư duy kinh tế
phải nhằm mục tiêu gắn phát triển lực lượng sản xuất với xây dựng quan hệ sản
xuất, coi đó là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục suốt thời kỳ quá độ với những
Học viên: Võ Mạnh Hùng
9
Lớp: Đường ô tô & đường TP B K20-1
Chuyên đề Triết Học
hình thức, bước đi thích hợp, làm cho quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và
trình độ của lực lượng sản xuất, luôn luôn thúc đẩy lực lượng sản xuất phát
triển.Để hiểu rõ quá trình đổi mới của Đảng ta, chúng ta có thể xem lại nền kinh
tế nước ta từ năm 1955 đến nay.
1. Thời kỳ trước đổi mới.
Hợp tác xã hoá ở miền Bắc bắt đầu thực hiện từ năm 1958, đến năm 1960
cơ bản hoàn thành. Khi đó chúng ta cho rằng làm ăn tập thể ưu việt hơn làm ăn
cá thể, kinh tế cá thể tự phát dẫn đến phân hóa giàu nghèo, phân chia giai cấp.
Làm ăn tập thể sẽ tạo ra sức mạnh, sẽ giải quyết được những vấn đề kinh tế xã
hội của cộng đồng nông thôn. Do vậy, hợp tác xã hoá được thực hiện đồng nhất
với tập thể hoá, xoá bỏ sản xuất theo hộ, chỉ cho phép tồn tại dưới hình thức
kinh tế phụ gia đình, mọi tư liệu sản xuất đều thuộc về tập thể, tổ chức lao động
tập trung dưới sự chỉ huy điều hành của ban quản trị và ban chỉ huy đội, phân
phối theo ngày công, sau khi trừ chi phí sản xuất, khấu trừ nộp cho nhà nước và
phúc lợi xã hội ở nông thôn, ban quản lý làm cả chức năng của chính quyền cơ
sở. Tuy vậy nhờ lao đông tập thể và sử dụng tập trung các nguồn lực nên đã xây
dựng được những công trình thuỷ lợi, kiến thiết đồng ruộng, đường giao thông,
trường học.. bộ mặt miền Bắc cũng có những thay đổi.
Song tổ chức hợp tác xã ấy vốn chứa đựng những khuyết tật:
- Chế độ công hữu dưới hình thức tập thể dường như không có ai là chủ đích
thức dẫn đến tư liệu sản xuất không được sử dụng có hiệu quả và bị huỷ hoại.
- Quản lý lao động, sản xuất tập trung làm cho người lao động phụ thuộc,
bị động, thiếu chủ động, sáng tạo.
- Của cải làm ra dùng để bao cấp cho phúc lợi xã hội nông thôn, chi dùng
phung phí, phân chia cho người lao động quá ít, do đó triệt tiêu tính tích cực của
người lao động.
- Các hợp tác xã lại tồn tại tương đối biệt lập với nhau, trao đổi sản phẩm
lại gắn liền với hệ thống quốc doanh mang tính giao nộp cấp phát, phi thị
trường. Hệ thống quốc doanh ấy lại được tổ chức theo cấp hành chính. Mỗi xã,
phường còn có hợp tác xã mua bán tín dụng, nơi có nghề truyền thống còn có
hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp. Những hợp tác xã này là trợ thủ chân rết, cho
các công ty nội thương, ngoại thương, cho ngân hàng nhà nước. Những khuyết
tật trên của hợp tác xã nông nghiệp đã phát sinh những tiêu cực trong các hợp
tác xã ngay từ giai đoạn đầu. Nhưng chúng ta lại cho rằng những tiêu cực ấy là
do chế độ sở hữu tiên tiến, chỉ cần hoàn thiện chế độ quản lý thì sẽ phát huy tính
Học viên: Võ Mạnh Hùng
10
Lớp: Đường ô tô & đường TP B K20-1
Chuyên đề Triết Học
ưu việt của hợp tác xã; thậm chí có ý kiến cho rằng chúng ra đã có quan hệ sản
xuất tiên tiến cần phải kéo lực lượng sản xuất lên cho nó phù hợp.
Trên cơ sở nhận thức đó, chúng ta mở cuộc vận động cải tiến vòng một,
vòng hai, vận động dân chủ áp dụng đIều lệ mẫu vào các hợp tác xã. Các cuộc
vận động ấy, một mặt thực hiện khoá nhóm, ba khoán cho đội sản xuất, mặt khác
lại mở rộng quy mô hợp tác xã, hoàn thiện chế đọ thống quản. Qua ba lần thực
hiện cải tiến quản lý, tuy có giảm mức độ nhất định những tiêu cực trong các
hợp tác xã, nhưng về cơ bản chưa khắc phục được. Bởi vì những cuộc vận động
ấy đưa đến sự định hình chế độ hợp tác xã tập thể.
Từ năm 1965, cả nước đi vào cuộc chiến đấu giảI phóng và bảo vệ đất
nước. Miền Bắc vừa là hậu phương lớn chi viện cho tiền tuyến lớn miền Nam,
vừa trực tiếp đánh trả chiến tranh phá hoại của giặc Mỹ. Do tác động của chiến
tranh và có nguồn viện trợ không hoàn lại từ bên ngoài, các hợp tác xã lại có
thêm sức mạnh tư tưởng, tâm lý và vật chất để củng cố, những tiêu cực vốn có
bên trong chưa bộc lộ ra. Hơn nữa trong đIều kiện chiến tranh, mô hình tổ chức
hợp tác xã kiểu tập trung bao cấp lại tỏ ra có tác dụng. Bởi vì nó có thể huy động
tối đa sức người, sức của cho cuộc chiến đấu, “ thóc không thiếu một cân, quân
không thiếu một người”, tất cả cho tiền tuyến, cho chiến thắng. Hợp tác xã còn
hỗ trợ, giúp đỡ những gia đình có người đi chiến đấu và phục vụ chiến đấu, đảm
bảo thực hiện chính sách hậu phương quân đội.
Năm 1975, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, cả
dân tộc bắt tay vào khôi phục chiến tranh. Trong giai đoạn này, chẳng những bối
cảnh quốc tế đã có những chuyển biến rất lớn mà bối cảnh trong nước cũng xuất
hiện nhiều nhân tố mới. Đặc biệt là mô hình kinh tế đang áp dụng ở các nước xã
hội chủ nghĩa đã bộc lộ nhiều khiếm khuyết không chỉ với Liên Xô và các nước
Đông Âu mà cả với Việt Nam. Cuộc đối đầu “ chiến tranh lạnh” đang tới hồi kết
thúc nhưng Việt Nam vẫn trong tình trạng vừa có hoà bình vừa có chiến tranh, tự
do hóa thương mại và đầu tư đã lôi kéo hàng loạt quốc gia vào chu trình tăng
trưởng và phát triển nhưng Việt Nam lại đang bị bao vây kinh tế rất nghiêm trọng.
Những chuyển biến lớn lao đó đòi hỏi phải có định hướng mới cho sự
phát triển của nền kinh tế. Tuy nhiên, trên thực tiễn nên kinh tế vẫn vận hành
theo mô hình kinh tế kế hoạch tập trung, thậm chí còn làm nặng nề thêm những
khuyết điểm của mô hình này tới mức “ quan liêu, bao cấp nghiêm trọng”. Một
số khuyết điểm:
-Việt Nam đã quá nóng vội trong tiến trình cải tạo xã hội chủ nghĩa đối
với các thành phần gọi là phi xã hội chủ nghĩa tại các tỉnh, thành phố phía Nam.
Học viên: Võ Mạnh Hùng
11
Lớp: Đường ô tô & đường TP B K20-1
Chuyên đề Triết Học
Đối với các địa phương phía Bắc, việc nóng vội đưa hàng loạt hợp tác xã bậc
thấp lên bậc cao chẳng những đã không đạt được mục đích đẩy quan hệ sản xuất
đi trước để thúc đẩy lực lượng sản xuất lên theo mà ngược lại, chính sự vênh
váo này đã triệt tiêu khá nhiều động lức của sự phát triển. Trên mặt trận hàng
đầu là nông nghiệp, mặc dù tỷ lệ nông dân tham gia vào hợp tác xã tăng nhanh
qua mỗi năm, nhưng sản lượng lương thực tư 13,5 triệu tấn năm 1976 cũng chỉ
tăng lên được 18,2 triệu tấn năm 1985. Đến năm 1985, mặc dù cả nước có tới
14052 hợp tác xã nông nghiêp nhưng một bộ phận không nhỏ các hợp tác xã ở
trong tình trạng “treo biển hợp tác xã” một bộ phận không nhỏ xã viên hợp tác
xã đã quay về làm kinh tế gia đình, và đa số đã chăm chút cho việc sản xuất và
thu hoạch trên phần đất 5% của mình. Trên thực tế đời sống kinh tế xã hội nông
thôn ngày càng xuất hiện nhiều sự so sánh giữa kinh tế tập thể, kinh tế gia đình,
kinh tế hộ với nhau. Tuy chưa có tuyên bố chính thức, nhưng đã xuất hiện tình
trạng tự giảI thể của mô hình hợp tác xã với những quy mô, hình thức và phạm
vi khác nhau không chỉ trong nông nghiệp mà cả trong các lĩnh vực công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ..
- Đã phát triển quá tràn lan các xí nghiệp quốc doanh trong hầu hết các
ngành nghề của nền kinh tế quốc dân, vượt quá khả năng có hạn của Nhà nước
về nhiều phương diện. Mặc dù tăng mạnh các cơ sở quốc doanh trong nền kinh
tế như vậy nhưng tổng sản phẩm xã hội được tạo ra từ thành phần kinh tế quốc
doanh trong giai đoạn này chỉ tăng 1,5 lần.
- Đã tiếp tục không thừa nhận địa vị pháp lý của một lực lượng sản xuất to
lớn trong xã hộ thuộc các loại hình sở hữu gọi là phi xã hội chủ nghĩa, lực lượng
này bao gồm các hộ nông dân chưa vào hợp tác xã, những người làm ăn cá thể
trong các ngành nghề tiểu thủ công, những người kinh doanh cá thể trong các
ngành thương mại dịch vụ.
- Đã phát triển nền kinh tế theo phương thức tự cung tự cấp, phương thức
đổi hàng trong khuôn khổ Hội đồng tương trợ kinh tế, chấp nhận cấm vận và
bao vây kinh tế của các thế lực thù địch. Một nền kinh tế khép kín và bị khép kín
như vậy đã làm mất đi những khả năng tiềm tàng, những khả năng trong tầm tay
của việc sử dụng và phát triển những lực lượng sản xuất từ hợp tác quốc tế đem
lại. Trong giai đoạn 1976-1985 , mặc dù đã xây dựng được 1307 xí nghiệp nhà
nước nhưng đó chỉ là những xí nghiệp 100% vốn nhà nước, không có đầu tư trực
tiếp hoặc gián tiếp của nước ngoài vào Việt Nam. Nhược đIểm của những xí
nghiệp quốc doanh này là đã đầu tư sử dụng trang thiết bị, công nghệ lạc hậu vài
ba chục năm so với các nước trong khu vực, và do vậy đã để lại những hậu quả
Học viên: Võ Mạnh Hùng
12
Lớp: Đường ô tô & đường TP B K20-1
Chuyên đề Triết Học
rất khó khăn về mặt hiệu quả đầu tư, sản xuất kinh doanh của xí nghiệp. Những
nguồn vốn này nếu Nhà nước đầu tư vào sửa chữa, nâng cấp, xây dựng mới các
công trình hạ tầng kinh tế kỹ thuật cho nền kinh tế thì hiệu quả đầu tư sẽ cao hơn
rất nhiều so với đầu tư vào những xí nghiệp quốc doanh yếu kém.
- Năm 1979 là năm kết thúc chiến tranh biên giới Tây Nam và sau đó là
kết thúc chiến tranh biên giơí phía Bắc. Điều đó cho phép Đảng và Nhà nước tập
trung hơn vào mặt trận kinh tế. Trong thời gian đó, nền kinh tế đang gặp rất
nhiều khó khăn, việc triển khai Nghị quyết Đại hội IV đang vấp váp và tổn thất
trên các mặt. Sản xuất bị đình trệ, đời sống nhân dân bị giảm sút nhanh và ngày
càng gặp nhiều khó khăn. Điều đó buộc Đảng, Nhà nước và nhân dân phảI tìm
cách tháo gỡ. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 của Ban chấp hành Trung ương
Đảng khoá IV ra đời nhằm đáp ứng yêu cầu tháo gỡ cho sản xuất và đời sống.
- Nghị quyết này trên thực tế là nấc thang mới đầu tiên cho việc đổi mới
tư duy kinh tế thể hiện ở sự chấp nhận và có phần khuyến khích kinh tế cá thể,
kinh tế tư nhân và quan hệ thị trường tự do đến một mức độ nhất định trong khi
đó vẫn giữ quan đIểm lâu dài là chế độ công hữu và cơ chế kế hoạch hoá tập
trung. Nhưng dù sao sự chấp nhận đó có thể coi là nấc thang mới, hơn nữa là
bước đột phá trong tư duy, vì sự thay đổi nhận thức đã bắt đầu vượt qua hai điều
tối kị trong mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa theo quan đIểm chính thống lúc đó:
kinh tế tư nhân và quan hệ thị trường tự do.
Nấc thang mới hay bước đột phá đó đã bước đầu chấp nhận cơ cấu kinh tế
hàng hoá nhiều thành phần. Trước đó, mọi cải tiến trên mặt trận kinh tế chỉ trong
giới hạn cơ chế quản lý, do đó đã gặp nhiều bế tắc, luẩn quẩn không thể tháo gỡ
được. Sau nghị quyết của 6 của Ban chấp hành Trung ương khoá IV là chỉ thị
100 của Banh Bí thư Trung ương về khoán sản phẩm trong nông nghiệp; quyết
định 25CP về quản lý xí nghiệp, chủ trương kế hoạch hoá từ đơn vị cơ sở, ba
phần kế hoạch, bốn nguồn cân đối, xuất nhập khẩu tự cân đối, tự trang trải, chấp
nhận thị trường tự do bên cạnh thị trường có tổ chức.. tất cả các nghị quyết đó
đều dựa trên cơ sở chấp nhận và triển khai cơ cấu kinh tế hàng hoá nhiêù thành
phần, dù còn nhiều hạn chế.
Chính nhờ đó, sản xuất lưu thông đã bung ra rất sôi động, rộng khắp. Trên
thực tế, một mặt đã diễn ra tình hình chưa từng có, một phong trào quần chúng
năng động phát triển sản xuất lưu thông: phong trào nông dân nhận khoán,
phong trào phát huy tự chủ năng động của đơn vị cơ sở và địa phương với
những đIển hình làm ăn có hiệu quả nổi bật. Mặt khác sự bung ra của thị trường
tự do với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế ngày càng lấn át kinh tế quốc
Học viên: Võ Mạnh Hùng
13
Lớp: Đường ô tô & đường TP B K20-1
Chuyên đề Triết Học
doanh và thị trường có kế hoạch. Hợp tác xã ngày càng rệu rã, mặt trận giá
-lương- tiền, phân phối lưu thông cực kỳ rối loạn nóng bỏng. Nhà nước bị tổn
thất về của cải và ngày càng rời vào tình thế gần như mất khả năng điều khiển.
Trước thực trạng đó, đã diễn ra cuộc tranh luận cọ xát kéo dài và rất gay cấn về
lý luận và chính sách kinh tế trên tất cả các vấn đề. Cuộc tranh luận ấy có hai xu
hướng trái ngược nhau: xu hướng chấp nhận kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
như là chiến lược lâu dài và xu hướng chấp nhận như bước lùi sách lước tạm
thời, gắn với những nhận thức khác nhau về mô hình kinh tế xã hội chủ nghĩa và
con đường xây dựng nền kinh tế ấy. Hiện tượng đặc trưng cho hai xu hướng này
là năm 1985 khi trù bị Đại hội VI, đã có hai lần dự thảo văn kiện. Lần đầu, dự
thảo văn kiện vẫn giữ quan điểm cũ về kinh tế, chủ trương thúc đẩy cải tạo, hợp
tác hoá và kế hoạch hoá tập trung. Dự thảo đó khi ấy lấy ý kiến đã không được
đông đảo tổ chức đảng xem xét và ra văn kiện kết luận về quan đIểm kinh tế làm
cơ sở cho việc tập dự thảo văn kiện lần thứ hai và được Đại hội thông qua thành
quan điểm chính thống.
2.Thời kỳ đổi mới.
Đại hội Đảng VI của Đảng đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện về kinh tế
xã hội, nhằm đưa đất nước thoát dần ra khỏi khủng hoảng vào những năm cuối
của thập kỷ 80. Đảng ta đã kiên quyết và kiên trì tiến hành đổi mới. Muốn đổi
mới thì dứt khoát phải từ bỏ cái cũ một cách không thương tiếc những cái cũ lạc
hậu, cái lỗi thời đã từng làm chúng ta điêu đứng. Trọng tâm của sự đổi mới lúc
bấy giờ là đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, là đổi mới các chính sách
kinh tế. Một trong những nội dung cơ bản trong đường lối đổi mới của Đảng do
Đại hội VI đề ra là xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành
theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa. Quán triệt quan điểm đổi mới đó, Đại hội VII và VIII của Đảng tiếp tục
hoàn thiện và cụ thể hoá bằng các chính sách, cơ chế nhằm kiên trì xây dựng nền
kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, trong đó kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo
và cùng với kinh tế hợp tác trở thành nền tảng trong nền kinh tế; kinh tế cá thể,
tiểu thủ công, kinh tế tư bản tư nhân chiếm tỷ trọng đáng kể, kinh tế tư bản nhà
nước dưới các hình thức khác nhau tồn tại phổ biến và có vai trò tích cực trong
nền kinh tế.
Những nét đổi mới trong đường lối chính sách phát triển hàng hoá nhiều
thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện trên các mặt sau: trước
hết, về quan điểm, coi nền kinh tế xã hội chủ nghĩa có nhiều thành phần và
không tồn tại thành phần nào là phi xã hội chủ nghĩa, mọi thành phần kinh tế
Học viên: Võ Mạnh Hùng
14
Lớp: Đường ô tô & đường TP B K20-1
Chuyên đề Triết Học
đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ trước pháp luật; thứ hai lần đầu tiên các
thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân được thừa nhận là một bộ
phận trong cơ cấu kinh tế và chiếm tỷ trọng đáng kể; thứ ba, kinh tế nhà nước và
kinh tế hợp tác xã trở thành nền tảng, kinh tế tư bản nhà nước được thừa nhận
như một bộ phận cấu thành kinh tế xã hội chủ nghĩa và tồn tại khá phổ biến.
Những nét mới trong đường lối và quan điểm của Đảng về cơ cấu thành
phần kinh tế như trên chính là sự điều chỉnh có tính chiến lược, làm cho quan hệ
sản xuất ngày càng phù hợp hơn với tính chất và trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất và yêu cầu giải phóng mạnh mẽ mọi tiềm lực kinh tế, nhằm thực
hiện mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Với những gì đã
làm và sẽ làm, Đảng ta đã tạo cho kinh tế đất nước bước phát triển mới, lấy ví
dụ điển hình là năm 2002 mặc dù gặp nhiều khó khăn do thiên tai dồn dập trên
diện rộng cả nước và diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, kinh tế Việt Nam
vẫn phát triển ổn định và tăng trưởng ở hầu hết các ngành và các lĩnh vực cụ thể.
Sự tăng trưởng liên tục đã cho thấy tính vững chắc và ổn định của phát triển
kinh tế xã hội Việt Nam trong mọi điều kiện và tác động bên ngoài. Theo số liệu
của Tổng cục thống kê, tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2002 đạt trên 536
tỷ đồng tăng 7,04% so với năm 2001. Với thành tựu này, Việt Nam xếp vị trí thứ
hai về tốc độ tăng trưởng kinh tế của Châu á, chỉ đứng sau Trung Quốc.
Như vậy từ sự phân tích trên đây ta thấy từ những vấn đề đặt ra của thực
tiễn trong công cuộc đổi mới, tư duy lý luận của Đảng ta đã có sự thay đổi:
- Từ quan niệm cho rằng kinh tế hộ chỉ tồn tại dưới hình thức kinh tế phụ gia
đình xã viên, đến kinh tế gia đình rồi thừa nhận hộ nhận khoá và hộ kinh tế tự chủ.
- Hộ tự chủ và cơ chế thị trường đã từng bước làm phân rã mô hình hợp
tác xã kiểu cũ, tư duy của con người cũng thay đổi từng bước theo sự thay đổi
ấy. Từ quan niệm cho rằng chế độ sở hữu tập thể và quản lý tập trung thống nhất
là ưu việt, đến chế độ ba khoán cho đội rồi tập thể đảm nhận 5 khâu, hộ đảm
nhiệm 3 khâu, chuyển sang dịch vụ hướng dẫn, thay đổi căn bản mô hình hợp
tác xã, tổ chức lại hợp tác xã, phát triển hợp tác xã kiểu mới
- Từ thực tiễn cũng cho thấy không thể chỉ bằng kinh tế hộ và dưới sự tác
động của cơ chế thị trường có thể phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn
giàu mạnh, công bằng văn minh và đi lên chủ nghĩa xã hội, mà cần thiết phải
hợp tác xã dưới hình thức mới.
Học viên: Võ Mạnh Hùng
15
Lớp: Đường ô tô & đường TP B K20-1
Chuyên đề Triết Học
- Hợp tác xã là tổ chức kinh tế, người lao động tự nguyện góp vốn, góp
sức để hỗ trợ giúp đỡ lẫn nhau sản xuất kinh doanh, không thể đảm nhận chức
năng của chính quyền và chức năng xã hội của nông thôn.
- Đổi mới sở hữu thì mới có thể đổi mới căn bản hợp tác xã. Hợp tác xã cổ
phần là phù hợp với đIều kiện kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay.
Kết luận
Từ mối quan hệ giữa lý luận và thực tiễn ta có thể rút ra một số kết luận sau:
- Để có lý luận đúng, có chủ trương chính sách đúng cho hoạt động đổi mới
kinh tế - xã hội ở địa phương hoặc ở đơn vị công tác nhất thiết phải đảm bảo được
sự phù hợp của lý luận, gắn chủ trương chính sách với thực tiễn, phải sâu sát thực
tiễn, phải quán triệt sâu sắc tư tưởng của Lênin rằng: quan điểm về đời sống, về
thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức.
- Nghiên cứu lý luận và thực tiễn rút ra được nhiều kinh nghiệm đúng đắn
tư duy khoa học không giáo điều máy móc. Để khắc phục được sự lạc hậu về lý
luận, về chủ trương chính sách thì nhất thiết lý luận cũng như chủ trương chính
sách phải thường xuyên được bổ sung hoàn thiện trên cơ sở thực tiễn, phải tích
cực chống các biểu hiện của bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa do xa rời thực tiễn và
chống các biểu hiện của bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa do tuyệt đối hoá vai trò
của thực tiễn và xem thường vai trò của thực tiễn.
Liên hệ thực tiễn bản thân: Việc học tập và nghiên cứu triệt học có
ý nghĩa đối với quá trình học tập và công tác.
Việc học tập và nghiên cứu triết học có ý nghĩa to lớn trong quá trình học
tập và công tác. Xã hội loài người đã tồn tại, phát triển và trải qua các hình thái
kinh tế và luôn gắn liền với hoạt động lao động sản xuất ra của cải vật chất. Hay
sản xuất ra của cải vật chất là nền tảng của đời sống xã hội. Mỗi chúng ta cũng
vậy muốn tồn tại được phải học tập và lao động Nếu ngừng lao động sản xuất ra
của cải vật chất thì sự sống trên toàn cầu bị huỷ diệt. Học triết học đã giúp em
hiểu được thế giới hiện thực xung quanh, chỉ ra được phương hướng đối tượng
nghiên cứu của mình về một vấn đề cụ thể mà em dang làm. Học triết học giúp
cho em hiểu được thế nào là chủ nghĩa duy vật biện chứng và phương pháp luận,
Lôgíc học và các phương pháp nhận thức khoa học, Nguyên nhân và kết quả,
nội dung và hình thức, bản chất và hiện tượng, tất nhiên và ngẫu nhiên, cái
chung và cái riêng, khả năng và hiện thực. Qua đó ta thấy được tầm quan trọng
của triết học nó là cơ sở giúp ta học tập các môn lý luận, khoa học tiếp theo
trong học tập ở nhà trường cũng như trong quá trình công tác ngoài xã hội.
Học viên: Võ Mạnh Hùng
16
Lớp: Đường ô tô & đường TP B K20-1
Chuyên đề Triết Học
Nghiên cứu triết học mác Lê Nin phạm trù mà để lại cho em tâm đắc nhất là
“Mối liên hệ giữa lý luận và thực tiễn” vì từ thực tiễn thì con người mới có
nhận thức mà sự phát triển của nhận thức dẫn tới sự hình thành lý luận giúp cho
chúng ta làm việc có hiệu quả nhất./.
Học viên: Võ Mạnh Hùng
17
Lớp: Đường ô tô & đường TP B K20-1