TIỂU LUẬN TRIẾT HỌC MÁC – LÊNIN
Chương II: Phép biện chứng duy vật
֍ Vấn đề bài viết: Thực tiễn là gì? Phân tích vai trò của thực
tiễn đối với nhận thức? Phân tích con đường biện chứng của quá
trình nhận thức? Phân tích và liên hệ quá trình học tập của Anh,
(Chị) để khẳng định rằng đó chính là con đường biện chứng của
nhận thức.
⁕ HỌ TÊN :
⁕ LỚP
:
⁕ MSSV :
⁕ STT
:
LÊ TIẾN THÀNH
Y 2018D
1851010782
155
MỤC LỤC
I)
II)
III)
IV)
Thực tiễn là gì…………………………………………...2
1) Thực tiễn, phạm trù thực tiễn…………………….2
2) Hoạt động thực tiễn……………………………....2
3) Biểu hiện thực tiễn……………………………….2
Vai trò thực tiễn đối với nhận thức……………….....…..4
Phân tích con đường biện chứng của qt nhận thức……...9
Liên hệ với việc học tập của bản thân………………….12
Tiểu luận triết học – Lê Tiến Thành Y2018D
I. Thực tiễn là gì ?
Phạm trù thực tiễn
Phạm trù thực tiễn là một trong những phạm trù nền tảng, cơ bản của triết học
Mác – Lênin nói chung và của lý luận Macxit nói riêng. Trong lịch triết học không
phải mọi trào lưu đều đã đưa ra quan niệm một cách đúng đắn về phạm trù này.
Chẳng hạn chủ nghĩa duy tâm chỉ hiểu thực tiễn như là một hoạt động tinh thần sang
tạo ra thế giới con người, chứ không xem nó là hoạt động vật chất, là hoạt động lịch
sử xã hội. Ngược lại, chủ nghĩa duy vật trước Mác, mặc dù đã hiểu thực tiễn là một
hoạt động vật chất của con người nhưng lại xem nó là hoạt động con buôn, đê tiện bẩn
thỉu. Nó không có vai trò gì với nhận thức của con người.
Khắc phục những yếu tố sai lầm, kế thừa và phát triển sáng tạo những yếu tố
hợp lý trong những quan niệm về thực tiễn của các nhà triết học trước đó, C.Mác và
Ph.Ăngghen đã đưa ra một quan niệm đúng đắn, khoa học về thực tiễn và vai trò của
nó đối với nhận thức, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin đã tạo ra đã tạo nên
một bước chuyển biến cách mạng trong triết học nói chung và trong lý luận nhận thức
nói riêng.1
Vậy thực tiễn là gì?
- Thực tiễn là toàn bộ hoạt động vật chất có mục đích, mang tính lịch sử - xã hội
của con người nhằm cải tiến tự nhiên và xã hội.
Hoạt động thực tiễn
- Là hoạt động mà con người sử dụng những công cụ vật chất tác dụng vào
những đối tượng vật chất nhất định, làm biến đổi chúng theo mục đích của mình
=> Là hoạt động đặc trưng và bản chất của con người.
- Được thực hiện một cách tất yếu khách quan, không ngừng phát triển.
→ Hoạt động thực tiễn luôn là hoạt động vật chất mang tính sáng tạo và có
mục đích, tính lịch sử - xã hội.
Biểu hiện thực tiễn: Rất đa dạng với nhiều hình thức phong phú. Có ba hình thức
cơ bản là: - Hoạt động sản xuất vật chất
- Hoạt động chính trị - xã hội
- Hoạt động thực nghiệm khoa học.
Hoạt động sản xuất vật chất là hình thức hoạt động cơ bản đầu tiên của thực tiễn.
Con người sử dụng công cụ lao động tác động vào thiên nhiên để tạo ra của cải vật
chất, các điểu kiện cần thiết nhằm duy trì sự tồn tại của mình.
1
Bộ giáo dục và đào tạo: Giáo trình Triết học Mác-Lênin (Dùng trong các trường đại học và cao đẳng).
2
Tiểu luận triết học – Lê Tiến Thành Y2018D
Figure 1 Cày ruộng
Figure 2 Khoan núi đào hầm
Hoạt động chính trị - xã hội là hoạt động của cộng đồng người, các tổ chức khác
nhau nhằm cải biến những quan hệ chính trị - xã hội nhằm thúc đẩy xã hội phát triển
Figure 3 Biểu tình phản đối chiến tranh
3
Tiểu luận triết học – Lê Tiến Thành Y2018D
Thực nghiệm khoa học là hoạt động được tiến hành trong những điều kiện do con
người tạo ra, gần giống, giống hoặc lặp lại các trạng thái của tự nhiên và nhằm xác
định những quy luật biến đổi, phát triển của đối tượng đang nghiên cứu. Có vai trò
quan trọng trong sự phát triển của xã hội đặc biệt là trong thời kì cách mạng khoa học
công nghệ hiện đại.
Figure 4 Thí nghiệm máy bay lần đầu tiên của anh em nhà Wright
II. Vai trò của thực tiễn trong nhận thức
Thực tiễn là cơ sở của nhận thức, là động lực của nhận thức, là mục đích của
nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
Thực tiễn là cơ sở động lực chủ yếu trực tiếp của nhận thức
Con người quan hệ với thế giới bắt đầu không phải bằng lý luận mà bằng thực
tiễn. Chính từ trong quá trình hoạt động thực tiễn, cải tạo thế giới mà nhận thức, lý
luận ở con người mới được hình thành và phát triển. Ban đầu con người thu nhận
những tài liệu cảm tính, những kinh nghiệm sau đó tiến hành so sánh, phân tích, tổ
hợp, khái quát hóa trừu tượng hóa để phát triển thành lý tính xây dựng thành lý luận,
khoa học phản ánh bản chất, quy luật vận động của các sự vật, hiện tượng trong thế
giới. Do đó thực tiễn đã cung cấp tài liệu cho nhận thức, cho lý luận. Không có thực
tiễn thì không có nhận thức, không có lý luận. Mọi tri thức xét đến cùng đều bắt nguồn
từ thực tiễn.
Thực tiễn là mục đích của nhận thức
Trong quá trình tồn tại con người không được thế giới đáp ứng thỏa mãn nên con
người phải cải tạo thế giới bằng hoạt động thực tiễn và trong quá trình biến đổi thế giới
con người cũng biến đổi luôn bản thân mình, phát triễn năng lực bản chất, năng lực trí
tuệ của mình. Nhờ đó con người càng đi sâu nhận thức được thế giới, khám phá được
những bí mật của thế giới và nắm được quy luật của thế giới. Thực tiễn đề ra nhu cầu,
nhiệm vụ và phương hướng phát triễn của nhận thức, lý luận. Nhu cầu thực tiễn đòi hỏi
phải có tri thức mới, phải tổng kết kinh nghiệm, khái quát lý luận, thúc đẩy sự ra đời
phát triễn của các ngành khoa học. Như vậy, trong quá trình hoạt động thực tiễn trí tuệ
4
Tiểu luận triết học – Lê Tiến Thành Y2018D
con người được phát triễn, được nâng cao dần cho đến lúc có lý luận, khoa học ra đời
rất cần thiết cho hoạt động thực tiễn của con người. Thực tiễn đưa ra vấn đề cho nhận
thức hướng tới để giải đáp đồng thời cũng tạo ra những phương tiện cần thiết cho việc
nghiên cứu, đem lại những tài liệu, dữ kiện để tổng kết khái quát thành tri thức lý luận.
Nhận thức, lý luận sau khi ra đời phải quay về phục vụ thực tiễn, hướng dẫn chỉ
đạo thực tiễn, phải biến thành hành động thực tiễn của quần chúng. Lý luận, khoa học
chỉ có ý nghĩa thực sự khi chúng được vận dụng vào thực tiễn phục vụ mục tiêu phát
triễn
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
Những tri thức được kiểm nghiệm qua thực tiễn mới thấy rõ tính đúng đắng hay
sai lầm của chúng như Mác viết: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể
đạt tới chân lý khách quan không hoàn toàn không phải là vấn đề lý luận mà là vấn đề
thực tiễn, chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý”. Ở đây chúng
ta cần phải hiểu tiêu chuẩn thực tiễn một cách biện chứng. Tiêu chuẩn này vừa có tính
tuyệt đối, vừa có tính tương đối.
Tiêu chuẩn thực tiễn vừa có tính tuyệt đối vì thực tiễn là tiêu chuẩn khách quan
duy nhất để kiểm nghiệm chân lý, thực tiễn ở mỗi giai đoạn lịch sử có thể xác nhận
được chân lý.
Tiêu chuẩn thực tiễn có cả tính tương đối vì thực tiễn không đứng yên mà biến đổi
và phát triển. Thực tiễn là một quá trình và được thực hiện bởi con người nên không
tránh khỏi có cả yếu tố chủ quan. Tiêu chuẩn thực tiễn không cho phép biến những tri
thức của con người trở thành những chân lý vĩnh viễn, những tri thức đạt được trước
kia và hiện nay vẫn phải thường xuyên chịu kiểm nghiệm bởi thực tiễn tiếp theo. Vì
vậy những tri thức được thực tiễn chứng minh ở một giai đoạn lịch sử nhất định phải
tiếp tục được thực tiễn bổ sung, điều chỉnh, sửa chửa và phát triễn hoàn thiện hơn.
⁕ Thực tiễn là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức còn là vì nhờ có hoạt động
thực tiễn mà các giác quan của con người ngày càng được hoàn thiện; năng lực tư duy
lôgíc không ngừng được củng cố và phát triển; các phương tiện nhận thức ngày càng
hiện đại, có tác dụng “nối dài” các giác quan của con người trong việc nhận thức thế
giới.
Thực tiễn chẳng những là cơ sở, động lực, mục đích của nhận thức mà nó còn
đóng vai trò là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý. Điều này có nghĩa là thực tiễn là thước
đo giá trị của những tri thức đã đạt được trong nhận thức. Đồng thời thực tiễn không
ngừng bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa, phát triển và hoàn thiện nhận thức. C.Mác đã
viết: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay
không, hoàn toàn không phải là vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong
thực tiễn mà con người phải chứng minh chân lý”.
Như vậy, thực tiễn chẳng những là điểm xuất phát của nhận thức, là yếu tố đóng
vai trò quyết định đối với sự hình thành và phát triển của nhận thức mà còn là nơi nhận
thức phải luôn luôn hướng tới để thể nghiệm tính đúng đắn của mình. Nhấn mạnh vai
trò đó của thực tiễn, V.I.Lênin đã viết: “Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là
quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức”.
5
Tiểu luận triết học – Lê Tiến Thành Y2018D
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức, đòi hỏi chúng ta phải luôn luôn quán triệt
quan điểm thực tiễn. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực
tiễn, dựa trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn, phải coi trọng công tác tổng kết thực
tiễn. Việc nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học đi đôi với hành. Nếu xa rời
thực tiễn sẽ dẫn đến sai lầm của bệnh chủ quan, duy ý chí, giáo điều, máy móc, quan
liêu. Ngược lại, nếu tuyệt đối hóa vai trò của thực tiễn sẽ rơi vào chủ nghĩa thực dụng,
kinh nghiệm chủ nghĩa.
Thực tiễn có mối quan hệ biện chứng với hoạt động nhận thức. Trong mối quan hệ
với nhận thức, vai trò của thực tiễn được biểu hiện trước hết ở chỗ, thực tiễn là cơ sở,
động lực chủ yếu và trực tiếp của nhận thức, Ăngghen khẳng định “chính việc người
ta biến đổi tự nhiên, chứ không phải chỉ một mình giới tự nhiên, với tính cách giới tự
nhiên, là cơ sở chủ yếu nhất và trực tiếp của tư duy con người, và trí tuệ con người đã
phát triển song song với việc người ta cải biến tự nhiên”.
Con người quan hệ với thế giới không phải bắt đầu bằng lý luận mà bằng thực
tiễn. Chính từ trong quá trình hoạt động thực tiễn cải tạo thế giới mà nhận thức của con
người được hình thành, phát triển. Thông qua hoạt động thực tiễn con người tác động
vào thế giới buộc thế giới phải bộ lộ ra những thuộc tính, những tính quy luật để con
người nhận thức chúng. Thoát ly thực tiễn, nhận thức đã thoát ly khỏi mảnh đất hiện
thực nuôi dưỡng nó phát triển vì thế không thể đem lại những tri thức sâu sắc, xác
thực, đúng đắn về sự vật, sẽ không có khoa học, không có lý luận.
Trong quá trình hoạt động cải biến thế giới, con người cũng biến đổi luôn cả bản
thân mình, thực tiễn rèn luyện các giác quan của con người làm cho chúng tinh tế hơn,
trên cơ sở đó phát triển tốt hơn. Nhờ đó con người ngày càng đi sâu vào nhận thức thế
giới, khám phá những bí mật của nó, làm phong phú và sâu sắc tri thức của mình về
thế giới. Thực tiễn còn đề ra những nhu cầu, nhiệm vụ, phương hướng phát triển của
nhận thức, vì thế nó luôn thúc đẩy sự ra đời của các ngành khoa học.
Thực tiễn còn là cơ sở để chế tạo công cụ, phương tiện máy móc mới, hỗ trợ con
người trong quá trình nhận thức, khám phá, chinh phục thế giới. Ăngghen cho rằng,
nhu cầu cấp thiết của thực tiễn, của sản xuất sẽ thúc đẩy nhận thức khoa học phát triển
nhanh hơn hàng chục trường đại học.
Vai trò của thực tiễn đối với nhận thức còn thể hiện ở chỗ, thực tiễn là tiêu chuẩn
của chân lý. Theo Mac và Ăngghen thì “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy của con người có
thể đạt tới chân lý khách quan hay không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận
mà là một vấn đề của thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con người phải chứng minh
chân lý”. Tất nhiên, nhận thức xã hội còn có tiêu chuẩn riêng, đó là tiêu chuẩn lô gic
nhưng tiêu chuẩn lô gic không thể thay thế cho tiêu chuẩn thực tiễn, và xét đến cùng
nó cũng phụ thuộc vào tiêu chuẩn thực tiễn.
Đó là tư tưởng cơ bản của Mac-Ăngghen khi đưa phạm trù thực tiễn vào nội dung
của lý luận nhận thức, tư tưởng đó đã được Lênin bảo vệ và phát triển sâu sắc hơn
trong tác phẩm “Chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán”, trong đó
Lênin nhắc lại luận cương thứ hai của Mac về Phoi-ơbăc và Người kết luận “Quan
điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về
nhận thức”. Tư tưởng của Lênin về vai trò của thực tiễn đối với nhận thức vẫn đang là
6
Tiểu luận triết học – Lê Tiến Thành Y2018D
nguyên tắc phương pháp luận quan trọng hướng dẫn chúng ta trong hoạt động thực
tiễn, trong nghiên cứu khoa học. Nếu không bám sát thực tiễn cuộc sống chúng ta sẽ
không thể có lý luận, không thể có khoa học, không xác định nổi bất kỳ đề tài khoa
học nào với đúng nghĩa của nó.
Lý luận là sản phẩm cao của nhận thức của sự phản ánh hiện thực khách quan.
Trong hệ thống các khái niệm, phạm trù, các nguyên lý và các quy luật tạo nên lý luận,
quy luật là hạt nhân của lý luận, là sản phẩm của qúa trình nhận thức nên bản chất của
lý luận là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan, là sự phản ánh một cách gần
đúng đối tượng nhận thức.
Lý luận là trình độ cao hơn về chất so với kinh nghiệm. Tri thức lý luận là tri thức
khái quát tri thức kinh nghiệm. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Lý luận là sự tổng
kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những tri thức về tự nhiên và xã
hội tích trữ lại trong qúa trình lịch sử”. Lý luận được hình thành trên cơ sở tổng kết
kinh nghiệm, nhưng không phải mọi lý luận đều trực tiếp xuất phát từ kinh nghiệm. Do
tính độc lập tương đối của nó, lý luận có thể đi trước những dữ kiện kinh nghiệm mà
vẫn không làm mất đi mối liên hệ giữa lý luận với kinh nghiệm.
Khác với kinh nghiệm, lý luận mang tính trừu tượng và khái quát cao nên nó đem
lại sự hiểu biết sâu sắc về bản chất, về tính quy luật của các sự vật, hiện tượng khách
quan. Vì vậy, nhiệm vụ của nhận thức lý luận là đem quy sự vận động bề ngoài chỉ
biểu hiện trong hiện tượng về sự vận động bên trong thực sự.
Chủ nghĩa Mac-Lênin xem xét lý luận và thực tiễn trong sự thống nhất biện
chứng. Thực tiễn là hoạt động vật chất còn lý luận là hoạt động tinh thần, nên thực tiễn
đóng vai trò quyết định trong quan hệ đối với lý luận. Lênin viết: “Thực tiễn cao hơn
nhận thức (lý luận) nó có ưu điểm không những của tính phổ biến mà của tính hiện
thực trực tiếp”.
Tính phổ biến của thực tiễn đối với nhận thức (lý luận) thể hiện ở chỗ, thực tiễn là
khâu quyết định đối với hoạt động nhận thức. Một lý luận được áp dụng trong thời
gian càng dài, không gian càng rộng thì hiệu qủa đạt được càng cao, càng khẳng định
tính chân lý của thực tiễn. Ngay cả một giả thiết khoa học muốn trở thành lý luận phải
thông qua hoạt động thực nghiệm kiểm tra, xác nhận. Như vậy, chỉ có qua hoạt động
thực tiễn thì lý luận mới có giá trị tham gia vào qúa trình biến đổi hiện thực.
Hoạt động lý luận là hoạt động đặc biệt nó thống nhất hữu cơ với hoạt động thực
tiễn. Vì vậy, khi nhấn mạnh vai trò của thực tiễn đối với lý luận, chủ nghĩa Mac-Lênin
cũng khẳng đinh tính tích cực của sự tác động trở lại của lý luận đối với thực tiễn.
Lênin khẳng định: “không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng”.
Lý luận là “kim chỉ nam” cho hành động thực tiễn. Cố nhiên để có thể giải đáp được
những vấn đề của cuộc sống, lý luận phải không ngừng liên hệ bằng những hình thức
khác nhau với thực tiễn. Cho nên, thực chất vai trò của lý luận đối với thực tiễn là ở
chỗ lý luận đem lại cho thực tiễn những tri thức đúng đắn về những quy luật vận động
và phát triển của thế giới khách quan.
Lý luận có thể dự kiến được sự vận động của sự vật trong tương lai, chỉ ra những
phương hướng mới cho sự phát triển của thực tiễn. Lý luận khoa học làm cho con
7
Tiểu luận triết học – Lê Tiến Thành Y2018D
người trở nên chủ động, tự giác, hạn chế tình trạng “mò mẫm”, tự phát. Vì vậy, Chủ
tịch Hồ Chí Minh ví “không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”.
Tuy nhiên cũng phải thấy rằng, do tính gián tiếp, tính trừu tượng cao trong sự phản
ánh hiện thực nên lý luận có khả năng xa rời thực tiễn và trở thành ảo tưởng. Vì thế,
không được cường điệu vai trò của lý luận, mặt khác không được xem nhẹ thực tiễn và
tách rời lý luận với thực tiễn. Điều đó cũng có nghĩa là phải quán triệt nguyên tắc
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong nhận thức khoa học và hoạt động cách
mạng.
Trong Triết học Macxit và trong chủ nghĩa Mac-Lênin, sự thống nhất giữa lý luận
và thực tiễn như một thuộc tính vốn có, một đòi hỏi nội tại. Nguyên tắc này có ý nghĩa
to lớn rong việc nhận thức khoa học và hoạt động thực tiễn.
Hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn thống nhất với nhau dưới nhiều hình
thức và trình độ biểu hiện khác nhau. Lý luận bắt nguồn từ thực tiễn, phản ánh (khái
quát) những vấn đề của đời sống sinh động. Nhưng thước đo tính cao thấp của lý luận
với thực tiễn biểu hiện trước hết ở chỗ lý luận đó phải hướng hẳn về đời sống hiện
thực, để giải quyết những vấn đề do chính sự phát triển của thực tiễn đặt ra, và như
vậy, lý luận góp phần thúc đẩy thực tiễn phát triển, bởi vì ở bên ngoài sự thống nhất lý
luận và thực tiễn, tự thân lý luận không thể biến đổi được hiện thực, nói cách khác,
hoạt động lý luận không có mục đích tự thân mà vì phục vụ thục tiễn, để cải tạo thực
tiễn.
Thực chất của sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là phải quán triệt được thực
tiễn là cơ sở, là động lực, mục đích của lý luận, của nhận thức, là tiêu chuẩn của chân
lý (lý luận). Như trên đã nói, lý luận đích thực bao giờ cũng bắt nguồn từ thực tiễn, do
thực tiễn quy định. Thực tiễn quy định lý luận thể hiện ở nhu cầu, nội dung, phương
hướng phát triển của nhận thức, lý luận. Thực tiễn biến đổi thì lý luận cũng biến đổi
theo, nhưng lý luận cũng tác động trở lại thực tiễn bằng cách soi đường, chỉ đạo, dẫn
đắt thực tiễn.
Trên cơ sở nhận thức và vận dụng nguyên tắc thống nhất giữa lý luận và thực tiễn
phải chống bệnh kinh nghiệm và bệnh giáo điều. Chúng ta coi trọng kinh nghiệm thực
tiễn và không ngừng tích luỹ vốn kinh nghiệm quý báu đó.Song chỉ dừng lại ở trình độ
kinh nghiệm, thỏa mãn với vốn kinh nghiệm của bản thân, coi kinh nghiệm là tất cả,
tuyệt đối hóa kinh nghiệm đồng thời coi nhẹ lý luận, ngại học tập, nghiên cứu lý luận,
ít am hiểu lý luận, không quan tâm tổng kết kinh nghiệm để đề xuất lý luận thì sẽ rơi
vào lối suy nghĩ giản đơn, tư duy áng chừng, đại khái, phiến diện thiếu tính lôgic, tính
hệ thống, do đó, trong hoạt động thực tiễn thì mò mẫm, tùy tiện, thiếu tính đồng bộ về
lý luận trong tất cả các lĩnh vực do vậy đễ rơi vào bệnh kinh nghiệm chủ nghĩa.
Hồ Chí Minh cũng luôn nhắc nhở rằng, có lý luận rồi thì phải kết hợp chặt chẽ với
kinh nghiệm thực tế, liên hệ với thực tiễn nếu không lại mắc phải bệnh lý luận suông,
tức bệnh giáo điều. Người khẳng định, "Lý luận cũng như cái tên (hoặc viên đạn).
Thực hành cũng như cái đích để hắn. Có tên mà không bắn, hoặc bắn lung tung, cũng
như không có tên"2. Như vậy cũng có nghĩa là lý luận suông, lý luận sách vở thuần túy.
"Lý luận cốt để áp dụng vào công việc thực tế. Lý luận mà không áp dụng vào công
2
(Hồ Chí Minh, 1995, tập 5, tr. 235)
8
Tiểu luận triết học – Lê Tiến Thành Y2018D
việc thực tế là lý luận suông. Dù xem được hàng ngàn, hàng vạn quyển lý luận, nếu
không biết đem ra thực hành, thì khác nào một cái hòm đựng sách" 3. Do đó, khi vận
dụng lý luận vào thực tiễn phải xuất phát từ thực tiễn, nếu không cũng mắc phải bệnh
giáo điều. Như vậy, lý luận chỉ có ý nghĩa đính thực khi được vận dụng vào thực tiễn
phục vụ thực tiễn, đóng vai trò soi đường, dẫn đắt, chỉ đạo thực tiễn. Đồng thời, khi
vận dụng lý luận vào thực tiễn thì phải phù hợp điều kiện thực tiễn. Rõ ràng, thống
nhất giữa lý luận và thực tiễn ở Hồ Chí Minh phải được hiểu là, thực tiễn - lý luận, lý
luận - thực tiễn luôn hòa quyện, thống nhất với nhau, đòi hỏi nhau, cần đến nhau, tạo
tiền đề cho nhau phát triển.
Tóm gọn lại:
Thực tiễn là cơ sở của nhận thức, là động lực của nhận thức, là mục đích của
nhận thức và là tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
- Là cơ sở động lực của nhận thức do yêu cầu sự phát triển sản xuất vật
chất cải tiến xã hội thì buộc con người phải nhận thức thế giới xung quanh
- Thông qua hoạt động thực tiễn con người làm cho sự vật bộc lộ thuộc
tính nó để con người nhận thức. Vậy thực tiễn đem lại tài liệu cho nhận thức
- Thông qua hoạt động thực tiễn làm giác quan con người phát triển và
hoàn thiện. Thực tiễn là mục đích quá trình nhận thức
- Nhu cầu thực tiễn dẫn đến hình thành và phát triển ngành khoa học biến
tri thức khoa học thành phương tiện vật chất hùng mạnh giúp con người trong
hoạt động thực tiễn có hiệu quả. Thực tiễn giúp con người cải tạo thế giới
Thực tiễn là tiêu chuẩn của chân lý
- Muốn kiểm tra tri thức ta dựa trên thực tiễn. Nếu tri thức phù hợp hiện
thực khách quan là chân lý còn không phù hợp là sai lầm
Tiêu chuẩn chân lý là thực tiễn vừa có tính tương đối và tuyệt đối. Tuyệt đối ở chỗ
thực tiễn ở 1 thời điểm nhất định ở giai đoạn nhất định hoàn toàn phù hợp với tri thức
là có được. Tính tương đối là thực tiễn luôn vận động và biến đổi không ngừng vì vậy
khi chúng ta nhận thức được tính tương đối và tuyệt đối, thực tiễn là tiêu chuẩn
III. Con đường biện chứng của quá trình nhận thức
Trước khi nêu ra những khái niệm thuần túy ta sẽ tìm hiểu cách mà con người đã
tìm ra định luật vạn vật hấp dẫn. Định luật đã gắn liền với tên tuổi một trong những
nhà toán học, vật lý học nổi tiếng nhất của thế kỉ 17 – Issac Newton
3
(Hồ Chí Minh, 1995, tập 5 tr. 234)
9
Tiểu luận triết học – Lê Tiến Thành Y2018D
Vào một ngày đẹp trời, nhà bác học vĩ đại của chúng ta đang mơ màng dưới gốc
táo trong vườn nhà mình thả hồn theo những cơn gió chiều nhè nhẹ thì bổng có một
quả táo rơi xuống đánh thức ngài làm ông tỉnh giấc.
Ông cầm quả táo trên tay trách “nó” rằng: “Táo này ! Ngươi phá giấc mơ đẹp của
ta rồi !”
Rồi ông chợt nghĩ: Nếu quả táo mà bay lên thì tốt biết mấy ? Mà sao nó không bay
lên nhỉ ?
Có ai ngờ câu hỏi tưởng
chừng như vô lý ấy đã
làm nên một định luật vật
lý nổi tiếng: Định luật vạn
vật hấp đẫn.
Vì thắc mắc đó. Ông bắt đầu tìm hiểu tại sao mọi vật đều rơi xuống, các hành tinh
đều quay xung quanh nhau. Từ đó định luật vạn vật hấp dẫn ra đời.
Chỉ từ một quả táo. Newton đã cho ta biết trọng lực từ đâu mà có. Cao hơn nữa là
những hành tinh trong tận thiên hà xa xôi di chuyển như thế nào mà trong những năm
1700 bấy giờ, con người còn chưa thể bay lên khỏi mặt đất chứ đừng nói đến việc có
thể được tận mắt nhìn quan sát ngoài vũ trụ bao la.
→ Đây là giai đoạn chuyên từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính.
→ Và đây cũng chính là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý theo
quan điểm của Lênin: Từ trực quan sinh động đến tư duy trù tượng và từ tư duy trù
tượng đến thực tiễn.
10
Tiểu luận triết học – Lê Tiến Thành Y2018D
Trong tác phẩm Bút ký triết học, V.I.Lênin đã khái quát con đường biện chứng của
sự nhận thức chân lý như sau: Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng và từ tư
duy trừu tượng đến thực tiễn - đó là con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý,
của sự nhận thức hiện thực khách quan.
Theo sự khái quát này, con đường biện chứng của sự nhận thức chân lý (tức là
phản ánh đúng đắn đối với hiệt thực khách quan) là một quá trình. Đó lá quá trình bắt
đầu từ "trực quan sinh động" (nhận thức cảm tính) tiến đến "tư duy trừu tượng" (nhận
thức lý tính). Nhưng những sự trừu tượng đó không phải là điểm cuối cùng của một
chu kỳ nhận thức, mà nhận thức phải tiếp tục tiến tới thực tiễn. Chính trong thực tiễn
mà nhận thức có thể kiểm tra và chứng minh tính đúng đắn của nó và tiếp tục vòng
khâu tiếp theo của quá trình nhận thức. Đây cũng chính là quy luật chung của quá trình
con người nhận thức về hiện thực khách quan.
- Con đường từ nhận thức cảm tính đến nhận thức lý tính
Nhận thức cảm tính là giai đoạn mở đầu của quá trình nhận thức. Đó là giai đoạn
nhận thức mà con người, trong hoạt động thực tiễn, sử dụng các giác quan để tiến hành
phản ánh các sự vật, hiện tượng khách quan, mang tính chất cụ thể, với những biểu
hiện phong phú của nó trong mối quan hệ với sự quan sát của con người. Ở giai đoạn
này, nhận thức mới chỉ phản ánh được cái hiện tượng, cái biểu hiện bên ngoài của sự
vật cụ thể, trong hiện thực khách quan, chưa phản ánh được cái bản chất, quy luật,
nguyên nhân của những hiện tượng quan sát được. Do đó, đây chính là giai đoạn thấp
của quá trình nhận thức. Trong giai đoạn này nhận thức được thực hiện qua ba hình
thức cơ bản là: cám giác, tri giác và biểu tượng.
Cảm giác của con người về sự vật, hiện tượng khách quan là hình ảnh sơ khai
nhất, đơn giản nhất của các quá trình nhận thức, nhưng nếu không có nó thì sẽ không
thể có bất cứ nhận thức nào về sự vật, hiện tượng khách quan. Mỗi cảm giác của con
người về sự vật, hiện tượng khách quan đều có một nội dung khách quan, mặc dù nó
thuộc về sự phản ánh chủ quan của con người. Cảm giác là hình ảnh chủ quan của thế
giới khách quan. Nó là cơ sở hình thành nên tri giác.
Nhận thức lý tính là giai đoạn cao hơn của quá trình nhận thức. Đó là sự phản ánh
gián tiếp, trừu tượng và khái quát những thuộc tính, những đặc điểm bản chất của sự
vật, hiện tượng khách quan, đây là giai đoạn nhận thức thực hiện chức năng quan trọng
nhất là tách ra và nắm lấy cái bản chất, có tính quy luật của các sự vật, hiện tượng.
Nhận thức lý tính được thực hiện thông qua ba hình thức cơ bản là: khái niệm, phán
đoán đoán và suy lý (suy luận).
Nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính là những nấc thang hợp thành chu trình
nhận thức. Trên thực tế, chúng thường diễn ra đan xen vào nhau trong một quá trình
nhận thức, song chúng có những chức năng và nhiệm vụ khác nhau. Nếu nhận thức
cảm tính gắn liền với thực tiễn, với sự tác động của khách thể cảm tính, là cơ sở cho
nhận thức lý tính thì nhận thức lý tính, nhờ có tính khái quát cao, lại có thể hiểu biết
được bản chất, quy luật vận động và phát triển sinh động của sự vật, hiện tượng giúp
cho nhận thức cảm tính có được sự định hướng đúng và trở nên sâu sắc hơn.
Tuy nhiên, nếu dừng lại ở nhận thức lý tính thì con người mới chỉ có được những
tri thức về đối tượng, còn bản thân những tri thức đó có thật sự chính xác hay không
11
Tiểu luận triết học – Lê Tiến Thành Y2018D
thì con người vẫn chưa thể biết được. Trong khi đó, nhận thức đòi hỏi phải xác định
xem những tri thức đó có chân thực hay không. Để thực hiện điều này thì nhận thức
nhất thiết phải trở về với thực tiễn, dùng thực tiễn làm tiêu chuẩn, làm thước đo tính
chân thực của những tri thức đã đạt được trong quá trình nhận thức. Mặt khác, mọi
nhận thức suy đến cùng đều là xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và trở lại phục vụ thực
tiễn.
Như vậy, có thể thấy quy luật chung, có tính chu kỳ lặp đi lặp lại của quá trình vận
động, phát triển của nhận thức là: từ thực tiễn đến nhận thức - từ nhận thức trở về với
thực tiễn - từ thực tiễn tiếp tục quá trình phát triển nhận thức, V.V.. Quá trình này lặp đi
lặp lại, không có điểm dừng cuối cùng, trình độ của nhận thức và thực tiễn ở chu kỳ
sau thường cao hơn chu kỳ trước, nhờ đó mà quá trình nhận thức đạt dần tới những tri
thức ngày càng đúng đắn hơn, đầy đủ hơn và sâu sấc hơn về thực tại khách quan. Đây
cũng chính là quan điểm về tính tương đối của nhận thức của con người trong quá trình
phản ánh thực tế khách quan. Quy luật chung của sự nhận thức cũng là một sự biểu
hiện cụ thể, sinh động của những quy luật chung trong phép biện chứng duy vật: quy
luật phủ định của phủ định, quy luật chuyển hóa từ những thay đổi về lượng thành
những sự thay đổi về chất và ngược lại, quy luật thống nhất và đấu tranh giữa các mặt
đối lập. Sự vận động của quy luật chung trong quá trình vận động, phát triển nhận thức
chính là quá trình con người, loài người ngày càng tiến dần tới chân lý.
IV. Liên hệ với quá trình học tập của bản thân để khẳng định đó là con
đường biện chứng của nhận thức.
Quá trình học tập của mỗi học sinh là quá trình tiếp thu kiến thức mới, những lý
thuyết mới, đó là kho tàng của nhân loại trong suốt lịch sử phát triển. Cho dù dưới sự
hướng dẫn của thầy cô hay tự học tự tìm tòi thì nó đều theo một con đường. Đó là con
đường biện chứng của nhân thức.
1/ Từ trực quan sinh động đến tư duy trù tượng, từ nhận thức cảm tính đến nhận
thức lý trí
Những kiến thức mới luôn xa lạ với ta. Vậy làm sao để phần nào ta hiểu được kiến
thức đó là đúng hay sai. Việc đầu tiên là sẽ tìm những mối liên hệ giữa những sự vật sự
việc mà những thứ đó thật dễ hiểu để ta có được cái nhìn đầu tiên rồi cảm nhận, đánh
giá ban đầu. Đó có thể là một phần thật nhỏ, thật cụ thể, ta có thể dễ dàng chứng minh
hay suy đoán. Để rồi từ đó phát triển lên những gì sâu rộng hơn, tổng quát hơn bằng lý
luận có cơ sở.
Ví dụ: Khi còn học ở phổ thông. Thầy giáo tôi tổ chức một cuộc thi giữa những
học sinh trong lớp, thiết kế một cây cầu vượt Thái Bình Dương. Làm sao chúng tôi biết
được chiếc cầu vượt một đại dương rộng lớn bao la như thế thì phải như thế nào ?
Trong khi đối với học sinh như chúng tôi thì chiếc cầu vượt sông trên đường đi học
hằng ngày những người kĩ sư làm như thế nào đã là một vấn đề khó. Ngay đến cả xi
12
Tiểu luận triết học – Lê Tiến Thành Y2018D
măng sắt thép bên ngoài chúng trông như thế nào cũng chẳng rõ thì làm gì dám nghĩ
đến chuyện một chiếc cầu vượt đại dương lớn nhất thế giới.
Để vẽ được bản vẽ, chúng tôi phải đi từ những thứ nhỏ nhất. Xi măng trộn ra sao,
làm trục thép như thế nào. Từ những kiến thức nhỏ, chúng tôi nghĩ đến việc làm một
cây cầu nhỏ thôi. Xem nó ngoài thực tế có ổn không. Sau đó mới là phác họa những
thứ khó hơn cho một chiếc cầu thật lớn. Tư duy từ những thứ đơn giản nhất, sinh động
nhất đến những thứ cao xa hơn, trừu tượng hơn. Đó chính là cội nguồn của lý trí.
→ Và đó cũng chính là con đường nhận biện chứng của nhận thức tâm.
2/ Từ tư duy trừu tượng đến thực tiễn
“Lý luận cốt để áp dụng vào công việc thực tế. Lý luận mà không áp dụng vào
công việc thực tế là lý luận suông. Dù xem được hàng ngàn, hàng vạn quyển lý luận,
nếu không biết đem ra thực hành, thì khác nào một cái hòm đựng sách” 4. Câu nói rất
hay của chủ tịch Hồ Chí Minh. Khi đã nắm rõ trên lý thuyết, hiểu tường tận về nó, ta
sẽ áp dụng nó trên thực tiễn bởi lẽ chỉ có thực tiễn mới xác nhận được rằng tư duy ấy
đúng hay sai. Và nếu không đem thực hành thì những lý thuyết ấy không thể nào phát
huy được ý nghĩa mà mình vốn dày công tạo dựng.
Đối với một người học sinh, học phải đi đôi với hành. Nếu học mà không biết vận
dụng thì những kiến thức ấy sẽ trở nên vô nghĩa và dần bị mai một, vậy thì việc học
tập sẽ không còn giá trị nữa.
4
Hồ Chí Minh, 1995, tập 5 tr. 234
13
Tiểu luận triết học – Lê Tiến Thành Y2018D
Tài liệu tham khảo chính: Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác
– Lênin. Dành cho sinh viên đại học cao đẳng khối không chuyên ngành Mác – Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh.
14