BÁO CÁO
ÁP DỤNG SÁNG KIẾN NĂM HỌC 2018 - 2019
Họ và tên: Đào Thị Ngọc
Đơn vị: Trường tiểu học Lý Tự Trọng
Dạy lớp: 3
Số năm công tác:
Tên sáng kiến đã áp dụng năm học 2018-2019: “jỨng dụng công
nghệ thông tin trong dạy học lớp 3A1 - Trường Tiểu học Lý Tự Trọng
- Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục.
- Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: 5/9/2018
- Mô tả bản chất sáng kiến:
+ Tình trạng của giải pháp đã biết:
Công nghệ tin học là một lĩnh vực đột phá có vai trò lớn trong việc
thúc đẩy phát triển kinh tế và xã hội. Thúc đẩy mạnh mẽ quá trình công
nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Đối với lĩnh vực giáo dục đào tạo, công
nghệ thông tin có tác dụng làm thay đổi mạnh mẽ phương pháp, phương
thức dạy – học nhất là khi nền giáo dục của nước ta bước sang thế kỉ 21,
thế kỉ của công nghệ thông tin.
Để đạt được mục tiêu đó, trong những năm gần đây việc ứng dụng
CNTT vào dạy – học đã và đang trở thành một xu thế phát triển mạnh mẽ ở
các trường học, cấp học.
Qua những năm đứng lớp, tôi luôn ý thức việc sử dụng đồ dùng dạy
học trực quan (tranh, ảnh, sơ đồ, mô hình, vật mẫu,…) vào các tiết dạy tôi
cảm thấy các em rất hứng thú học tập và tiếp thu bài nhanh hơn, đồng thời
giáo viên đỡ mất thời gian trong việc giải thích, thuyết trình các hiện tượng
hoặc đối tượng mà học sinh cần nghiên cứu. Vì vậy, tiết học trở nên nhẹ
nhàng hơn rất nhiều so với những tiết dạy không có sử dụng đồ dùng dạy
học trực quan.
Ngày nay, với sự phát triển nhanh chóng của khoa học kỹ thuật đã
xuất hiện nhiều phương tiện dạy học trực quan trong đó phương tiện nghe
– nhìn chiếm một vị trí rất quan trọng. Tôi đã tìm hiểu và ứng dụng thực tế,
cuối cùng tôi đã chọn được một số phương tiện ứng dụng CNTT vào việc
giảng dạy. Cụ thể là sử dụng phần mềm đa phương tiện Microsoft Power
Point; Violet; Lecture Maker trong công tác dạy – học.
Vì vậy chúng ta cần phải thấy được những ưu điểm của việc ứng dụng
CNTT vào dạy – học để phát huy được những điểm mạnh của nó……..
Đây cũng chính là nền tảng để kích thích sự hứng thú học tập của các em,
từ đó các em sẽ chủ động và sáng tạo hơn trong học tập.
Ở Tiểu học, văn miêu tả chiếm khá nhiều thời lượng trong các thể loại
Tập làm văn. (Ở lớp 4 văn miêu tả có 30 tiết, chiếm khoảng 50% thời
lượng toàn bộ chương trình tập làm văn). Văn miêu tả được chia thành các
kiểu bài khác nhau căn cứ vào đối tượng miêu tả. Các kiểu bài miêu tả ở
lớp 4 bao gồm: tả đồ vật, tả cây cối, tả con vật. Tất cả đều là các chủ đề
khá gần gũi nhưng khó so với các em vì khả năng trình bày, diễn đạt vấn đề
thông qua nói và viết đối với nhiều em là rất khó khăn, lúng túng; các em
rất e ngại, sợ phải trình bày, diễn giải một vấn đề nào đó mà thầy cô, bạn
bè yêu cầu. Nhiều em rất sợ, rất ngán ngẩm khi nhắc đến Tập làm văn. Bản
thân các em cũng gặp nhiều khó khăn trong việc cảm nhận cái hay, cái đẹp
trong các bài văn, bài thơ được học.
Thực tế ở trường TH Lý Tự Trọng vẫn còn không ít giáo viên và học
sinh chưa nhận thức được hết tầm quan trọng của việc quan sát, tìm ý, viết
đoạn văn nên chất lượng giờ tập làm văn, lập dàn ý và giờ dạy tập làm văn
viết đoạn văn miêu tả còn hạn chế. Nhiều giáo viên vẫn chỉ dừng lại ở việc
hướng dẫn các em hoàn thành những nội dung yêu cầu của bài tập dựa vào
gợi ý trong sách giao khoa và sách giáo viên. Một số chưa thực sự quan
tâm, phát huy hết năng lực của học sinh cũng như chú ý giúp cho các em
biết rèn dũa câu văn, ý văn. Còn học sinh, đa phần các em chỉ dừng lại ở
mức độ trả lời, liệt kê các chi tiết, các bộ phận của sự vật theo gợi ý của thầy cô
một cách máy móc, khuôn mẫu. Mặt khác, với đa số học sinh lớp Bốn, vốn
từ ngữ của các em còn rất nghèo nàn, việc diễn đạt câu văn, ý văn còn
nhiều hạn chế. Nhất là khi làm các bài Tập làm văn miêu tả, các em chỉ
dừng lại ở việc liệt kê các chi tiết, các bộ phận của sự vật một cách đơn
giản dẫn đến câu văn hết sức khô khan. Thậm chí, có những em khi miêu tả
một sự vật thì không biết phải bắt đầu từ đâu, không biết phải tả những gì,
tả thế nào, …
Với mong muốn giúp các em biết diễn đạt trôi chảy, trình bày những
câu văn, ý văn giàu hình ảnh, có cảm xúc, tôi đã mạnh dạn đặt vấn đề và
thực hiện: “Rèn kĩ năng làm văn miêu tả cho học sinh lớp 4a2”
Những nhược điểm trên ảnh hưởng lớn đến công tác giảng dạy của
giáo viên và việc. Để khắc phục tình trạng trên và tổ chức tiết dạy-học tập
làm văn miêu tả có chất lượng hơn, phù hợp với học sinh đang dạy.
Phương pháp và biện pháp rèn kĩ năng làm văn miêu tả ở lớp 4.
+ Những nội dung đã cải tiến, sáng tạo để khắc phục những nhược
điểm của giải pháp đã biết:
Giúp học sinh biết lập dàn ý cho bài văn cụ thể.
Học sinh biết chọn lựa, chắt lọc hình ảnh miêu tả.
Giúp các em biết chọn lựa, sử dụng từ ngữ giàu tính gợi tả, gợi cảm,
nói-viết câu văn có dùng phép so sánh, nhân hóa phù hợp với đối tượng
miêu tả
Giúp học sinh có kĩ năng biết diễn đạt câu văn (nói, viết) trọn ý, sắp
xếp các ý, các câu văn lôgic; biết kiểm tra, rà soát lại bài viết về nội dung,
cách diễn đạt.
Giúp các em biết học tập từ ngữ, ý văn, hình ảnh hay khi làm văn. Học
sinh được phát triển khả năng giao tiếp thông qua nói-viết.
* Giải pháp cụ thể:
1- Biết lập dàn ý cho bài văn cụ thể:
Dù đây là một yêu cầu rất thường xuyên nhưng trên thực tế lại có rất
nhiều em không thể thực hiện được, có những em không biết lập dàn ý là
làm cái gì, để làm gì. Bởi lẽ, ở những lớp dưới, các em không phải làm
việc này, mà các em chỉ viết câu văn, đoạn văn bằng cách trả lời những câu
hỏi cho sẵn hoặc dựa vào những gợi ý của thầy cô một cách đơn giản, ngắn
gọn. Trong khi lên lớp Bốn thì việc lập dàn ý cho một đề bài cụ thể (loại
bài miêu tả) là yêu cầu bắt buộc các em phải biết thực hiện, tự thực hiện để
dựa vào đó mà hoàn chỉnh đoạn văn, bài văn.
Để giúp các em dễ dàng hơn trong việc tự lập dàn ý cho bài văn, khi dạy
học các bài Cấu tạo của bài văn miêu tả (tả đồ vật, tả cây cối và tả loài vật),
tôi chủ động giúp các em dựa vào nội dung phần Ghi nhớ trong sách giáo
khoa, cùng xây dựng một dàn bài chung cho loại bài văn miêu tả đang học.
Dàn bài chung này tôi sẽ ghi cố định ở một bảng phụ để làm cơ sở cho học
sinh xây dựng dàn ý riêng cho mỗi bài văn miêu tả sau này. Dàn bài này cũng
được sử dụng chung cho cả lớp trong các tiết tập làm văn có yêu cầu viết một
đoạn văn hay hoàn chỉnh một bài văn.
Ví dụ: Khi dạy bài Cấu tạo của bài văn miêu tả con vật (sách giáo
khoa lớp Bốn, tập hai, trang 112), sau khi giúp học sinh rút được nội dung
ghi nhớ như trong sách giáo khoa, tôi sẽ chủ động bám vào nội dung phần
ghi nhớ, dùng câu hỏi gợi ý, dẫn dắt cho các em nêu để xây dựng dàn bài
chung cho bài văn miêu tả con vật:
Mở bài: Giới thiệu con vật sẽ tả.
- Để giới thiệu con vật sẽ tả, em cần giới thiệu những gì? (Tên con vật,
nơi nó ở, lí do em thích nó,…)
Thân bài:
a) Tả hình dáng.
- Mỗi con vật thường đều có những bộ phận nào? (đầu: Mắt, mũi,
miệng (mõm, mỏ), tai, …; mình: thân, lưng, bụng, ngực,…; chi: móng
vuốt, cựa,…; đuôi, cánh, ….), ...
b) Tả thói quen sinh hoạt và một vài hoạt động chính của con vật.
- Thói quen sinh hoạt là những thói quen nào? (ăn, ngủ, đùa giỡn, …)
- Những hoạt động chính của con vật là gì? Ví dụ? (con mèo: bắt
chuột; con chó: giữ nhà, mừng chủ; …)
Kết luận: Nêu cảm nghĩ đối với con vật.
+ Cảm nghĩ của em đối với con vật có thể là gì? (yêu, thích, thấy thiếu
vắng khi đi đâu về mà không trông thấy nó, …); Em làm gì để thể hiện tình
cảm của em đối với nó? (chăm sóc, bảo vệ, …)
Hoặc, khi hướng dẫn học sinh làm bài tập 3 (Hãy viết một đoạn văn
có chứa câu mở đoạn như sau: Con mèo nhà em đã ra dáng một co6 gái
dịu dàng, nết na.) của bài Luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả con vật
(sách lớp Bốn, tập hai, trang 130), tôi sử dụng Dàn bài chung cho bài văn
miêu tả con vật đã xây dựng, gợi ý cho các em có thể dựa vào nội dung Tả
hình dáng ở phần thân bài trong dàn bài để hoàn thành bài tập. Như thế,
các em sẽ dễ dàng chọn lựa những bộ phận nổi bật của con gà trống để
miêu tả như: cái đầu, cái mào, cái mỏ, cặp mắt, bộ lông, đôi cánh, đôi chân,
chiếc cựa, cái đuôi, …
2- Biết chọn lựa, chắt lọc hình ảnh miêu tả:
Môn tập làm văn ở tiểu học có nhiệm vụ rất quan trọng là rèn kỹ năng
nghe, nói, viết. Nhưng học sinh còn lúng túng không biết lắng nghe gì? Nói
gì? Viết gì? Vì vậy, dạy học cho học sinh biết quan sát tìm ý để hình thành
thói quen chuẩn bị bài tốt là một yêu cầu quan trọng khi làm văn. Muốn
quan sát tốt, học sinh cần nắm được cách quan sát và những yêu cầu quan
sát để làm văn. Cùng một đối tượng (Ví dụ cùng một con mèo) nhưng mỗi
cá nhân lại có sự cảm nhận riêng (có em thích màu sắc bên ngoài, có em
thích dáng vẻ oai vệ, dịu dàng, nũng nịu, có em lại thích tiếng kêu ngoao
ngoao, …). Giáo viên phải tôn trọng ý kiến của các em, không phê phán
vội vàng, chủ quan, phải giúp học sinh tự tin trong học tập. Tuy nhiên, để
miêu tả một đối tượng nào đó, giáo viên cần giúp các em biết quan sát đối
tượng theo từng góc nhìn, từng thời điểm, biết cảm nhận và chọn “điểm
nhấn” của đối tượng tạo ra nét riêng biệt trong bài văn của mình. Do vậy,
để đảm bảo tính chân thực của bài miêu tả cần phải được bắt nguồn từ
quan sát trực tiếp đối tượng miêu tả, kết hợp với kinh nghiệm sống, trí
tưởng tượng của học sinh, phải thể hiện được tình cảm, cảm xúc thực của
các em trước đối tượng miêu tả. Tính chân thực đòi hỏi phải có chi tiết
thực, tả đúng bản chất của đối tượng miêu tả, thể hiện được những nét đẹp
đẽ, đúng đắn trong tư tưởng, tình cảm của người học sinh khi bộc lộ thái độ
của các em với đối tượng miêu tả.
Để thực hiện những yêu cầu trên, tôi thường thiết kế bài dạy giáo án
trình chiếu Power Point hướng cho học sinh thực hiện thật tốt từng bước,
kết hợp quan sát hình ảnh do giáo viên chuẩn bị:
+ Xác định cụ thể và chọn một đối tượng cần quan sát (đó là vật gì?
hoặc con gì? hay cây gì?)
+ Quan sát sự vật bằng các giác quan như thị giác, thính giác, khứu
giác và cả xúc giác. Trước tiên là quan sát bao quát đối tượng và cảm nhận
(nó đẹp, dễ thương, hoặc oai phong, hay dữ tợn,..), rồi quan sát từng bộ
phận của đối tượng theo một trình tự nhất định (từ trên xuống dưới, từ
trước ra sau, hoặc đầu, mình rối đến chi, …) Quan sát thật kĩ những bộ
phận của sự vật mà em thích thú, ấn tượng. Khi quan sát sự vật, các em
cũng có thể trao đổi theo nhóm với nhau để tìm ra những đặc điểm của đối
tượng một cách tốt nhất.
+ Kết hợp quan sát là ghi chép (ghi chép những điều quan sát được) và
liên tưởng (liên tưởng để so sánh, nhân hóa sự vật)
Chẳng hạn, để giúp học sinh làm tốt bài tập 3 (Hãy viết một đoạn văn
có chứa câu mở đoạn như sau: Cô mèo con nhà em đã ra dáng một cô gái
dịu dàng nết na.) của bài Luyện tập xây dựng đoạn văn miêu tả con vật
(sách lớp Bốn, tập hai, trang 130), thì ở tiết học trước đó, tôi yêu cầu các
em:
+ Chọn hoặc nhớ lại một con mèo mà em đã gặp.
+ Quan sát (hoặc nhớ lại) và ghi lại các đặc điểm của từng bộ phận
của nó. Chú ý ghi thật chi tiết những bộ phận nổi bật của con gà đó.
VD: hình ảnh minh họa cho bài học miêu tả con vật mà em yêu
thích.
( Giáo án trình chiếu Power Point)
* Nhìn tai chú mèo em liên tưởng đến những gì?
Hãy thi đặt câu với hình ảnh mà em liên tưởng đến.
* Quan sát so sánh xem mắt mèo giống những gì? to hơn hay bé hơn
những gì mà em được nhìn thấy trong cuộc sống?
Hãy thi đặt câu có hình ảnh so sánh hay nhân hóa về cặp mắt của mèo.
* Nhìn đuôi chú mèo em liên tưởng đến những gì?
Hãy thi đặt câu với hình ảnh mà em liên tưởng đến.
* Nhìn thân mình chú mèo em liên tưởng đến những gì?
Hãy thi đặt câu có hình ảnh nhân hóa, so sánh cho câu văn miêu tả thêm sinh động.
3- Biết chọn lựa, sử dụng từ ngữ giàu tính gợi tả, gợi cảm, nói-viết
câu văn có dùng phép so sánh, nhân hóa phù hợp với đối tượng miêu
tả:
Việc dùng từ ngữ giàu hình ảnh, gợi tả, gợi cảm, các biện pháp so
sánh, nhân hóa khi viết văn sẽ giúp cho câu văn, bài văn trở nên sinh động
hơn, mượt mà hơn, ý tứ hơn và thu hút người đọc, người nghe hơn.
Như vậy, việc giúp các em biết tìm từ ngữ, ý văn hay, hình ảnh đẹp,
phù hợp để miêu tả sự vật cụ thể là vừa giúp phát huy tốt năng lực của mỗi
học sinh, vừa góp phần cung cấp ý văn, từ ngữ phù hợp cho những học
sinh khác.
+ Cùng với việc giới thiệu một số hình ảnh cụ thể cho học sinh quan
sát, giáo viên có thể gợi ý cho mỗi học sinh tự chọn chi tiết cụ thể của đối
tượng cần miêu tả, rồi tìm những từ ngữ, ý văn, câu văn, hình ảnh so sánh,
nhân hóa mà mình cảm thấy phù hợp, hay có thể sử dụng để miêu tả chi
tiết đó của đối tượng.
+ Lớp nhận xét, bình và chọn những từ ngữ, ý văn hay, hình ảnh đẹp, phù
hợp.
+ Vận dụng chính những từ ngữ, câu văn, ý văn được lớp đánh giá cao
theo ý thích của riêng mình đưa vào bài của mình, tạo ra nét riêng trong
chính bài làm của mình.
Xin được tiếp theo ví dụ ở trên, (với bài tập 3 của bài Luyện tập xây
dựng đoạn văn miêu tả con vật): Trước tiên, tôi giới thiệu cho các em hình
ảnh hoặc videoclip về một số con mèo cho các em chọn lựa và quan sát
một con mà em thích. Tiếp đó là cùng với việc sử dụng Dàn bài chung của
bài văn miêu tả con vật đã xây dựng (nội dung Tả hình dáng ở phần thân
bài), tôi sẽ lần lượt hướng cho các em nêu các bộ phận tiêu biểu của con
mèo và những ý văn, câu văn, hình ảnh so sánh, nhân hóa mà mình cảm
thấy hay, phù hợp, có thể sử dụng để miêu tả các bộ phận đó. Lúc này các
em có thể kết hợp vừa quan sát trực tiếp hình ảnh giáo viên cung cấp, vừa
dựa vào những điều mình đã ghi chép khi chuẩn bị ở nhà để thực hiện yêu
cầu của thầy cô. Với những từ ngữ, ý văn các em nêu được, tôi gợi ý cho
lớp cùng nhận xét, bình và chọn những từ ngữ, ý văn hay, hình ảnh đẹp, phù
hợp rồi ghi nhanh lên bảng làm cơ sở cho các em chọn lựa, vận dụng chính
những từ ngữ, câu văn, ý văn được lớp đánh giá cao theo ý thích của riêng
mình để thực hiện yêu cầu của bài tập.
4- Biết diễn đạt câu văn (nói, viết) trọn ý, sắp xếp các ý, các câu
văn lôgic; biết kiểm tra, rà soát lại bài viết về nội dung, cách diễn đạt:
4.1. Tập diễn đạt câu văn (nói, viết) trọn ý, sắp xếp các ý, các câu
văn lôgic:
Các em sẽ biết tự diễn đạt câu văn trọn ý khi các em biết sắp xếp các
từ ngữ thành câu văn đúng ngữ nghĩa, biết sắp xếp các câu văn thành đoạn
văn lôgic, đúng chủ đề. Tuy nhiên, đây là việc làm rất khó, cần được tập
luyện thường xuyên và khá mất thời gian, mà thời gian ở các tiết học Tập
làm văn lại có hạn, vì vậy, bản thân tôi thường thực hiện không chỉ ở các
tiết Tập làm văn mà ở cả các tiết học khác như Luyện từ và câu hay Chính
tả. Với những bài tập có yêu cầu liên quan đến việc phải trình bày, sắp xếp
các ý, câu văn lôgic, hoặc ở một số tiết Tập làm văn, tôi thường chủ động
chuẩn bị các từ ngữ, câu văn theo chủ đề nhất định đủ dùng cho học sinh
hoạt động theo dự kiến. Cho các từ ngữ, yêu cầu học sinh dùng những từ
ngữ đó sắp xếp lại thành những câu văn hoàn chỉnh (hoặc dùng những câu
văn sắp xếp thành đoạn văn) theo chủ đề mà giáo viên yêu cầu. Tiếp đó có
thể tổ chức nhận xét, đánh giá, sửa chữa. Cần đánh giá, nhận xét trên sự
sáng tạo của học sinh, tôn trọng ý tưởng của học sinh, không nhất thiết
phải đúng theo mẫu ấn định sẵn. Tuy nhiên cũng cần phải điều chỉnh, sửa
chữa nếu chưa phù hợp. Ngoài ra, ngay cả khi các em trả lời câu hỏi của
thầy cô, của bạn bè hoặc khi yêu cầu các em trình bày một vấn đề nào đó,
tôi đặc biệt chú trọng đến cách trình bày, diễn đạt của các em (nhất là với
những học sinh chưa đạt chuẩn kiến thức- kĩ năng). Khi thấy học trò trình
bày vấn đề lủng củng, không rõ ràng hoặc sử dụng từ ngữ không phù hợp,
tôi sẽ nhận xét khéo và gợi ý, tập cho các em và cả các bạn khác cùng cân
nhắc, diễn đạt lại vấn đề sao cho trôi chảy, rõ ràng, đủ ý, và dễ hiểu.
4.2.Tập kiểm tra, rà soát lại bài viết về nội dung, cách diễn đạt, cách
trình bày:
Đối với học sinh lớp Bốn thì đây là việc làm rất khó khăn, ít em tự
thực hiện được. Việc tập cho các em biết tự kiểm tra, rà soát lại bài viết về
cả nội dung và cách diễn đạt, cách trình bày là rất cần thiết, nó không chỉ
giúp các em nâng cao khả năng làm văn, nâng cao chất lượng câu văn,
đoạn văn, bài văn của các em mà còn giúp cho các em rèn luyện kĩ năng
trình bày, diễn đạt vấn đề.
Trong mỗi giờ Tập làm văn, nhất là văn viết, tôi hết sức chú trọng việc
tập cho học sinh biết tự cân nhắc, trau chuốt câu văn, ý văn cho phù hợp.
Khi các em hoàn thành bài tập, tôi thường tổ chức cho các em đọc lại bài,
đối chiếu với yêu cầu của đề bài để kiểm tra xem nội dung bài làm đã đảm
bảo chưa? Câu văn, ý văn đã rõ ràng, đủ ý chưa?...Thời gian đầu các em sẽ
rất bỡ ngỡ, khó thực hiện, tôi tập cho cả lớp cùng thực hiện chung trên một
vài bài, sau đó là cùng thực hiện trong nhóm, dần dần là mỗi cá nhân sẽ tự
kiểm tra, rà soát trên bài làm của mình. Ngay trong quá trình các em làm
bài, tôi cũng theo dõi, giúp các em tự nhận xét, kiểm tra, điều chỉnh kịp
thời những chỗ chưa hay, chưa phù hợp, tập cho các em biết chú trọng đến
cách diễn đạt sao cho đúng, đủ, rõ ý.
5- Biết học tập từ ngữ, ý văn, hình ảnh hay khi làm văn:
Nói cách khác là biết học tập, “trộm” những câu văn, ý văn mà mình
đọc được của bạn bè, thầy cô hay ở đâu đó rồi biến nó thành ý riêng trong
câu văn, bài văn của mình. Tôi khuyến khích các em tích cực đọc sách, báo
hoặc những bài văn hay (văn mẫu) và ghi chép lại những chi tiết, hình ảnh
mình thích vào một cuốn sổ tay. Sau đó sẽ chọn lựa một số câu và ghi ra
giấy dán vào mục “Lời hay ý đẹp” ở lớp để giới thiệu cho các bạn khác
cùng tham khảo, bạn nào viết được nhiều câu văn diễn đạt ý hay và đúng
với chủ đề sẽ được khen ngợi trước lớp. Chính bản thân tôi là người
thường xuyên đọc những “lời hay ý đẹp” mà các em sưu tầm được để khi
gặp trường hợp có thể vận dụng, “trộm” những từ ngữ, ý văn đó mà các em
không nhớ, không biết vận dụng tôi sẽ chủ động gợi ý giúp các em nhớ lại,
tập vận dụng vào bài của mình. Hoặc khi phát hiện các em biết học tập, bắt
chước cách diễn đạt, cách dùng từ ngữ, ý văn của người khác (không sao
chép), tôi sẽ động viên, khích lệ các em tiếp tục phát huy. Ngoài ra, tôi còn
thường xuyên tổ chức cho các em nhận xét, đánh giá bài của bạn (cách
dùng từ, đặt câu, ...) rồi rút kinh nghiệm, vận dụng vào bài của mình theo
các bước:
- Chọn đọc bài, câu văn của bạn và trao đổi, bàn bạc, suy nghĩ tìm ý
hay, cách chỉnh sửa những ý chưa hay, chưa phù hợp.
- Rút kinh nghiệm, học tập ở bài làm của bạn để bổ sung, chỉnh sửa
bài làm của mình.
+ Sáng kiến với các giải pháp (biện pháp) được trình bày có gì
khác so với giải pháp cũ trước đây:
Cái khác của sáng kiến này so với trước đây đó là bài học được sử
dụng Công nghệ thông tin vào tiết dạy-học, thiết kế bài dạy bằng giáo án
trình chiếu Power Point nên học sinh được quan sát trực tiếp, được xem
video clip có hình ảnh, hoạt động, tiếng động một cách trực quan sinh động
nên học sinh phát triển được câu văn, tiết học nhẹ nhàng, học sinh tích cực
thi đặt câu hay, giờ học văn rất hiệu quả. Cái mới thứ hai là sau giờ học
phân môn Tập làm văn dạng miêu tả các em sẽ tự tìm ý, suy nghĩ cách diễn
đạt để viết thành câu văn hay, được bạn nhận xét, góp ý, đánh giá và và
chọn lựa để được dán lên góc học tập “Lời hay ý đẹp” của tuần của tháng.
Từ đó, tạo môi trường thi đua để các em học tốt dạng văn miêu tả, giờ học
nhẹ nhàng nhưng không kém phần sôi động, chất lượng viết văn cũng nâng
cao hơn.
+ Khả năng áp dụng của sáng kiến:
Sáng kiến này có thể áp dụng vào dạy phân môn TLV (văn miêu tả) ở
các lớp 4 và 5.
Để áp dụng được sáng kiến giáo viên cần :
- Tìm hiểu kĩ, xác định, phân loại từng đối tượng học sinh, xếp chỗ
ngồi xen kẽ, trong mỗi nhóm có đủ các dạng học sinh để tiện cho việc tổ
chức các hoạt động học tập. Đồng thời, bản thân thầy cô giáo cũng cần tích
cực tham khảo thêm nhiều tài liệu, chịu khó đọc sách báo để tự làm giàu
thêm vốn từ, chất văn, áp dụng phù hợp vào từng ngữ cảnh cụ thể.
- Chuẩn bị hệ thống câu hỏi chu đáo, tranh ảnh, videoclip phong phú
nhưng gần gũi, phù hợp với học sinh.
- Thầy cô giáo cần hết sức tinh tế, nhạy bén, biết lắng nghe, kịp thời
đưa ra hướng để giúp học sinh sửa chữa, trau chuốt câu, lời, ý văn.
- Quá trình thực hiện mất nhiều thời gian, đòi hỏi giáo viên phải có sự
kiên nhẫn, bền bỉ, cần phải thường xuyên lâu dài, kết hợp lồng ghép trong
cả các phân môn, môn học khác.
- Cần giúp cho học sinh biết tự giác, chịu khó học hỏi, cũng như sẵn
sàng chia sẻ, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ nên cũng đòi hỏi thầy cô giáo phải
thường xuyên động viên, khích lệ và tổ chức nhiều phương pháp, hình thức
dạy học, phát huy tối đa năng lực của học sinh, nhất là học sinh có năng
khiếu.
+ Những thông tin cần được bảo mật (nếu có): Không.
+ Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
Sử dụng Công nghệ thông tin, Thiết kế bài dạy bằng Microsoft Power
Point.
Giúp học sinh có Phương pháp và biện pháp rèn kĩ năng làm văn
miêu tả đồng thời góp phần nâng cao vốn từ để các em thực hành giao tiếp
nhằm hoàn thành tốt phân môn Tiếng Việt ở lớp bốn.
Có sự chấp thuận của Ban Giám hiệu nhà trường.
- Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp
dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả:
+ Với những biện pháp như đã trình bày ở trên đã giúp cho cả giáo
viên và học sinh tự tin, chủ động hơn trong các tiết học tập làm văn (văn
miêu tả). Các giờ Tập làm văn cũng trở nên nhẹ nhàng, sinh động hơn.
+ Học sinh không còn lúng túng trong việc lập dàn ý cho mỗi bài văn;
việc viết một đoạn văn, hay bài văn của các em trở nên dễ dàng hơn. Các
em đã biết miêu tả một số đặc điểm của một sự vật cụ thể theo yêu cầu,
biết viết câu văn đúng ngữ pháp, rõ ý; biết sử dụng những từ ngữ sát nghĩa,
có tác dụng gợi tả, gợi cảm; bước đầu biết sử dụng biện pháp tu từ đơn
giản khi viết văn. Lời văn, ý văn của các em không còn nặng tính liệt kê
hay kể lể nữa.
+ Giờ học nhẹ nhàng, học sinh học tích cực, chủ động hơn.
- Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp
dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng
sáng kiến lần đầu, kể cả áp dụng thử:
Khi áp dụng các biện pháp dạy học do tôi tìm hiểu sách giáo viên,
sách thiết kế và do kinh nghiệm dạy học mà tôi đã nghĩ ra thì tôi nhận thấy:
+ Giờ học Tập làm văn không còn khô khan nữa, tiết học sinh động
nhẹ nhàng, học sinh rất tích cực hăng say xây dựng bài.
+ Học sinh mạnh dạn, biết sử dụng vốn từ đã học để đặt câu có hình
ảnh so sánh, nhân hóa.
+ Khả năng giao tiếp cũng phát triển, các em tích cực đọc sách báo,
sưu tầm bài văn mẫu sự ganh đua học tập lành mạnh khi các em thi nhau
đặt câu cho hay nhất có thể để được trưng bày vào góc học tập.
+ Lời văn, ý văn hay và logic hơn, chất lượng nói-viết dạng văn miêu
tả cao hơn.
+ Xác nhận của Trường Tiểu học Lý Tự Trọng
Sáng kiến đã được áp dụng và được công nhận đạt cấp trường năm
học 2016-2017
Xác nhận của nhà trường
Hiệu trưởng
Phan Công Hiếu
Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự
thật và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Đăng Hà, ngày 16 tháng 2 năm 2017
Người nộp đơn
Dương Thị Nhân Hòa
Điện thoại liên hệ: 0966 800 250
Email:
.