HỌC VIỆN CÁN BỘ THÀNH PHỐ
KHOA QUẢN LÝ HÀNH CHÍNH
CÂU HỎI THẢO LUẬN PHẦN 2
ĐỀ SỐ 2
Câu 1. Áp dụng tiêu chí SMART, anh chị hãy xác định mục tiêu cơ bản của một kế
hoạch tại cơ quan, đơn vị, địa phương.
S.M.A.R.T là tên viết tắt các chữ đầu của 5 bước:
Specific: Mọi mục tiêu đặt ra phải cụ thể, dễ hiểu
Measurable: Mục tiêu đó phải đo lường được
Attainable: Ngoài việc phải cụ thể và đo lường được thì nó phải nằm trong khả
năng– bởi với một mục tiêu cao quá có thể làm cho ta mệt mỏi và chán nản khi không đạt
được điều đó. Những không phải vì thế mà không đặt ra những mục tiêu cao – Ta có thể
sẽ chia nhỏ giai đoạn và đặt cho mình nhiều mục tiêu nhỏ – từng bước vượt qua nó để đạt
được mục tiêu cao như ban đầu đã đề ra.
Relevant – Realistic – thực tế: Mỗi mục tiêu đều phải hướng tới 1 mục tiêu – mục
đích chung – Liên quan đến tầm nhìn chung – đó là liên quan đến mục tiêu dài hạn.
Time-Bound: Đặt gia những thời gian, thời hạn cụ thể cho từng mục, những mục
tiêu lớn hãy chia nhỏ để hoàn thành dễ dàng hơn.
Câu 2. Trình bày những mặt đạt được và mặt chưa đạt được trong quản lý nhà nước
về giáo dục ở cơ sở? Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về
lĩnh vực này?
Giáo dục là quá trình hoạt động có ý thức, có mục đích, có kế hoạch, có tổ chức
nhằm bồi dưỡng cho người ta: những phẩm chất đạo đức, những tri thức cần thiết để người
ta có khả năng tham gia mọi mặt của đời sống xã hội.
Giáo dục là việc cung cấp kiến thức nhằm phát triển trí tuệ, nâng cao nhận thức, bồi
dưỡng tình cảm, rèn luyện kỹ năng để con người vận dụng trong cuộc sống và lao động.
Chúng ta có thể tự hào về những con số mà nền giáo dục đã đạt được trong những
năm vừa qua: dữ liệu về số học sinh được đến trường trong độ tuổi đi học, số sinh viên và
số lượng các trường đại học cao đẳng hiện có; số huy chương vàng, bạc, đồng của các kỳ
thi Olympic quốc tế; đánh giá của PISA (22/72 về toán; 8 khoa học và 32 đọc hiểu); về kết
quả thi tốt nghiệp phổ thông hàng năm, về số học sinh giỏi và xuất sắc của mỗi trường, mỗi
huyện mỗi tỉnh.
Năm 2017 ngành Giáo dục đã đạt được một số kết quả nổi bật như sau:
• Kỳ thi THPT quốc gia và tuyển sinh đại học thành công, gọn nhẹ, giảm tốn
kém, giảm áp lực cho thí sinh và xã hội
• Các đội tuyển Olympic Việt Nam đạt thành tích cao nhất trong lịch sử
• Hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi: Sau 6 năm triển khai
Đề án phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi, tháng 4/2017, 63/63 tỉnh,
thành phố trong cả nước đã được công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục mầm
non cho trẻ em 5 tuổi.
• Thông qua chương trình giáo dục phổ thông tổng thể
• Hoàn thành dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Giáo dục và
Luật Giáo dục đại học để lấy ý kiến nhân dân
• Tăng cường công tác kiểm định, đảm bảo chất lượng đào tạo trong các cơ sở
giáo dục đại học
• Nhiều tấm gương người tốt việc tốt, đổi mới sáng tạo trong dạy và học
• Tăng cường nền nếp, kỷ cương, chấn chỉnh các hoạt động ngoài chuyên môn
• Nhiều giải pháp được triển khai nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ nhà giáo
và cán bộ quản lý giáo dục các cấp
Bên cạnh những kết quả nổi bật trên, vẫn còn những hạn chế, yếu kém cần phải
nghiêm túc xem xét rút kinh nghiệm được đề cập bao gồm tình trạng thiếu trường lớp ở
các khu đô thị, khu công nghiệp, khu chế xuất, đặc biệt là các trường mầm non.
Công tác giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng sống, giáo dục thể chất cho học sinh
còn hạn chế; cá biệt có một số giáo viên, học sinh có hành vi ứng xử thiếu văn hóa gây mất
niềm tin của cha mẹ học sinh, bức xúc trong xã hội.
Tình trạng thừa, thiếu giáo viên cục bộ vẫn chưa được giải quyết dứt điểm, trong đó
có một số địa phương để xảy ra những sai phạm nghiêm trọng trong công tác tuyển dụng,
sử dụng giáo viên.
Tình trạng lạm thu đầu năm học trong các cơ sở giáo dục còn diễn ra ở nhiều địa
phương. Đổi mới chương trình, sách giáo khoa chưa đạt tiến độ đề ra.
Công tác tổ chức Kỳ thi Trung học phổ thông Quốc gia năm 2018 còn một số hạn
chế, thiếu sót như đề thi chưa thật sự phù hợp với yêu cầu của thi THPT, trong đề thi có
những câu hỏi có độ khó cao; Phần mềm chấm trắc nghiệm còn có những kẽ hở trong bảo
mật có thể dẫn đến bị lợi dụng để làm sai lệch kết quả thi; Công tác thanh kiểm tra, giám
sát của Bộ GD-ĐT đối với các địa phương đã được tăng cường hơn nhưng vẫn còn sơ hở,
chưa sâu sát.
Tình trạng sinh viên tốt nghiệp ra trường không tìm được việc làm còn nhiều; chất
lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng được yêu cầu
phát triển đất nước. Cơ chế, chính sách về tự chủ đại học còn thiếu và chưa đồng bộ.
Nhưng nhìn vào chất lượng nguồn nhân lực của chúng ta đào tạo ra thì không thể
không lo ngại. Chính vì thế Trung ương mới có Nghị quyết số 29 – NQ/TW về “đổi mới
căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế” đã
được hội nghị trung ương 8, khóa XI thông qua. Nền giáo dục của đất nước chúng ta hiện
nay vẫn còn chứa đựng những bất cập, chưa vững chắc:
• Hiện nay giáo dục chú trọng quan tâm đến số lượng nhiều hơn chất lượng
• Nội dung, chương trình giảng dạy còn lạc hậu, lỗi thời, chưa đổi mới, cải tiến
hiệu quả. Chưa áp dụng thực tiễn nhiều, chưa phát huy được tính sáng tạo,
năng lực thực hành cho học sinh
• Giáo dục việt nam hiện nay chỉ quan tâm đến việc dạy “chữ” cho học sinh.
Thế nhưng việc dạy “nhân” và “nghĩa” thì lại bị buông lỏng, giảm sút, nhất
là các mặt đạo đức, lối sống. Việc cho học sinh có thể thực hành được các
bài học vẫn chưa được đẩy mạnh, khiến cho kĩ năng thực hành, tư duy sáng
tạo của học sinh sinh viên bị hạn chế rõ rệt
• Hệ thống giáo dục các cấp bậc từ đại học đến phổ thông còn thiếu đồng bộ,
chưa có sự cân đối. Ở phổ thông, các học sinh được học các môn học khoa
học mang tính lý thuyết rất nhiều, nhưng khi lên cấp bậc đại học thì những
lý thuyết ở phổ thông không thể đem áp dụng ra được, khiến các sinh viên
phải học lại từ đầu, như thế phải mất thêm một khoảng thời gian nữa
• Đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và giáo viên còn rất nhiều bất cập, như việc
phân phối cán bộ giảng dạy vẫn còn chưa hợp lý về các trường học. Bên cạnh
đó còn có nhiều cán bộ giảng dạy không có tâm đối với học trò của mình
• Việc định hướng và liên kết với nước ngoài trong chương trình giáo dục còn
lúng túng, mơ hồ, chưa có mục tiêu, phương hướng rõ ràng
• Tư duy của nền giáo dục còn chậm đổi mới, chưa theo kịp tốc độ phát triển,
đổi mới của đất nước trong bối cảnh nền kinh tế thị trường, phát triển và hội
nhập với thế giới. Việc thực hành cần được áp dụng từ ngay khi còn học phổ
thông, để các em có thể phát triển tư duy, sáng tạo, chọn lựa cho mình những
ngành nghề phù hợp nhất với bản thân mình.
Nguyên nhân và giải pháp nâng cao chất lượng giáo dục:
• Chương trình đào tạo: Cần cải tiến đổi mới, cập nhập hằng năm, kết nối thực
tiễn với hàng lâm, đưa các buổi ngoại khóa để học sinh có cơ hội được trải
nghiệm cuộc sống bên ngoài một các trực tiếp nhất. Các môn học cần được
phân bố lượng thời gian hợp lý, để lượng kiến thức lý thuyết 30% và thực
hành 70%.
• Chất lượng đầu vào: Chất lượng đầu vào của nhiều cơ sở giáo dục đào tạo
còn quá thấp, khiến cho chất lượng học tập tiếp thu của sinh viên còn chưa
tốt. Đa số học sinh còn học tập một cách thụ động, thiếu đóng góp cho bài
học của giảng viên. Cần nâng cao mức đầu vào của sinh viên, để có thể đạt
chất lượng tốt, với những sinh viên có tính tư duy khoa học, sáng tạo cao,
học một cách chủ động thì chất lượng đầu ra của trường đó sẽ được cải thiện
rõ rệt
• Phương pháp giảng dạy: Nhìn chung, chất lượng và lực lượng của đội ngũ
cán bộ giảng dạy ngày càng được nâng cao. Thế nhưng phương pháp giảng
dạy của các thầy cô vẫn mang tính thuyết giảng, làm cho học sinh sinh viên
chỉ tiếp thu được một cách thụ động, không có hướng cho học sinh tự mày
mò, tìm hiểu được. Mặc phác, các phương tiện giảng dạy hiện nay còn hạn
chế nên các thầy cô chưa thể truyền tải hết phần hồn và nội dung của bài học
cho học sinh được
Câu 3. Theo anh (chị) nhóm công cụ nào quyết định hiệu quả của công tác quản lý
nhà nước về kinh tế? Vì sao?
Trong ba nhóm công cụ QLNN về kinh tế thì nhóm công cụ tổ chức bộ máy là quan
trọng nhất. Để QLNN về kinh tế tốt thì cần phải có những người có tư duy về kinh tế,
không thể là cán bộ thì chỗ nào làm cũng được. Hiện giờ cán bộ mà chuyển sang làm cho
DNNN là một thách thức chứ không còn là niềm mơ ước như trước đây (thu nhập cao, lợi
ích). Bài học từ quản lý kinh tế đối với tập đoàn dầu khí, vinaline. Nền kinh tế giờ đây phải
tuân thủ đầy đủ, nghiêm ngặt quy luật của kinh tế thị trường, nhà nước không thể bảo hộ
mãi.
Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý có vai trò vô cùng quan trọng trong việc nâng cao
hiệu quả kinh tế – xã hội. Bất kỳ doanh nghiệp nào muốn có hiệu quả sản xuất cao, mọi
hoạt động phải được thông suốt đồng bộ, thống nhất thì vấn đề quan tâm trước hết là cơ
cấu tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp. Bởi bộ máy quản lý doanh nghiệp đề ra những
chủ trương, chiến lược, sách lược và các kế hoạch phát triển của doanh nghiệp. Vì thế một
doanh nghiệp có cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý hợp lý sẽ thúc đẩy sản xuất kinh doanh
phát triển. Ngược lại nếu cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp mà cứng nhắc,
không phù hợp thì hiệu quả sản xuất kinh doanh sẽ kém.
Như vậy, cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của doanh nghiệp giữ một vị trí then chốt.
Nếu thiếu một cơ cấu tổ chức hợp lý sẽ gây khó khăn cho công tác quản lý. Theo điều tra
mới đây, giới có thẩm quyền trong lĩnh vực kinh doanh rút ra kết luận: khoảng 75% - 80%
các vấn đề khó khăn phức tạp trong công tác quản lý phải giải quyết bắt nguồn từ những
nhược điểm của công tác tổ chức bộ máy quản lý và những phí phạm đáng lo ngại, nhất là
những phí phạm về tinh thần và năng lực của nhân viên do tổ chức kém cỏi mà ra, phần
lớn những khuyết điểm mắc phải trong một tổ chức do người ta coi thường những quy luật
của tổ chức.
Thực tế phát triển của đất nước trong những năm gần đay khi chuyển đổi cơ chế
quản lý có rất nhiều doanh nghiệp làm ăn phát đạt. Đó có thể kể đến công ty cao su Sao
Vàng, công ty giầy Thượng Đình…nguyên do của sự thành công đó có nhiều như việc
mạnh dạn áp dụng những tiến bộ của khoa học kỹ thuật vào sản xuất và quản lý nhằm tạo
ra những sản phẩm mới chất lượng tốt…trong đó đặc biệt là do doanh nghiệp đã có những
chuyển biến trong công tác quản lý, trong việc hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý
của doanh nghiệp.
Nhưng bên cạng đó cũng có nhiều doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả, còn duy trì
lối quản lý theo phươpng thức cũ. Do vậy, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải nhanh
chõng chuyển biến trước cơn lốc hội nhập nhằm phát huy những ưu thế của doanh nghiệp
Việt Nam trên trường quốc tế. Muốn làm được việc đó, trong thời gian tới các doanh nghiệp
cần phải hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý và bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ
quản lý làm cho bộ máy quản lý gọn nhẹ và vững mạnh hơn. Tuy bước đổi mới và hoàn
thiện này đang là vấn đề được đặt ra đối với tất cả các doanh nghiệp Việt Nam nhưng nó
phải được thực hiện thận trọng theo hưỡng vừa làm vừa rát kinh nghiệm để công tác quản
lý có tính khả thi cao nhất.
Phương hướng hoàn thiện cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp:
• Bố trí, sắp xếp lại bộ máy: Trong nền kinh tế thị trường, cơ cấu tổ chức bộ
máy quản lý phải luôn được hoàn thiện theo hướng ngày càng thích hợp với
mục tiêu và nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý
phải đảm bảo mối quan hệ hợp lý giữa số lượng, số khâu quản lý ít nhất, gọn
nhẹ nhất, hiệu quả nhất. Bố trí cán bộ nhân viên quản lý hợp lý về chuyên
môn, nghiệp vụ nhằm đảm bảo bộ máy quản lý tinh giản, có hiệu lực.
• Xây dựng tiêu chuẩn nghiệp vụ cho cán bộ quản lý: Việc làm này dựa trên
tiêu chuẩn nghiệp vụ của Nhà nước đồng thời kết hợp với chủ trương, phương
pháp xây dựng và phát triển ngành trên cơ sở đánh giá thực trạng đội ngũ cán
bộ quản lý. Lênin đã từng nói, tiêu chuẩn của người cán bộ quản lý phải là:
những người thực sự có tài tổ chức, có óc sáng suốt, có bản lĩnh tháo vát
trong thực tiễn, vừa trung thành với chủ nghĩa xã hội lại có trình độ và năng
lực tổ chức quản lý có tư cách đạo đức tốt.
• Bồi dưỡng nâng cao trình độ quản lý doanh nghiệp: Con người là nhân tố
quyết định sự phát triển cảu các doanh nghiệp. Cho nên đào tạo cấn bộ quản
lý là một hoạt đọng nhằm không ngừng nâng cao trình độ lý luận cũng như
thực tiễn, tạo ra một đội ngũ cán bộ quản lý có khả năng đảm nhận các chức
vụ quản lý doanh nghiệp. Chính vì ý nghĩa quan trọng của nhân tố con người
trong sự phát triển chung của đất nước, mà tại các đậi hồi Đảng, Đảng ta luôn
nhấn mạnh việc phát triển nhân tố con người và tại đại hội Đảng 9, Đảng ta
lại một lần nữa khẳng định mục tiêu của chúng ta: “Nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực và bồi dưỡng nhân tài.”
• Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước: Cổ phần hoádoanh nghiệp Nhà nước
là một biện pháp chuyền doanh nghiệp từ sở hữu Nhà nước sang hình thức
sở hữu nhiều thành phần, trong đó tồn tại một phần sở hữu Nhà nước. Đây
có thể được côi là một giải pháp quan trọng góp phần củng cố, phát triển và
nâng cao hiệu quả của kinh tế quốc doanh. Theo nghị quyết của Đại hội Đảng
9 đến năm 2005 chúng ta sẽ hoàn thành việc cổ phần hoá các doanh nghiệp
Nhà nước.
Câu 4. Phân tích nguyên tắc quản lý ngân sách xã? Việc cấp bổ sung ngân sách được
thực hiện trong những trường hợp nào? Tại sao phải quy định chỉ cấp bổ sung ngân
sách trong các trường hợp đó?
Nguyên tắc quản lý ngân sách xã được quy định tại Điều 6 Thông tư 344/2016/TTBTC quy định quản lý ngân sách xã và các hoạt động tài chính khác của xã, phường, thị
trấn như sau:
1. Ngân sách xã do Ủy ban nhân dân xã xây dựng và quản lý, Hội đồng nhân dân xã
quyết định và giám sát.
2. Mọi khoản thu, chi ngân sách xã phải thực hiện quản lý qua Kho bạc Nhà nước
theo quy định của Luật ngân sách nhà nước.
3. Các khoản thu, chi ngân sách xã phải hạch toán kế toán, quyết toán theo mục lục
ngân sách nhà nước và chế độ kế toán của Nhà nước.
4. Ngân sách xã phải được công khai theo quy định của Luật ngân sách nhà nước và
các văn bản hướng dẫn.
Cấp bổ sung ngân sách:
Tiêu chí
Khái niệm
Chi bổ sung có mục tiêu
Khoản 21, Điều 4 Luật NSNN 2015
21. Số bổ sung có mục tiêu là khoản ngân
sách cấp trên bổ sung cho ngân sách cấp
dưới để hỗ trợ thực hiện các chương trình,
dự án, nhiệm vụ cụ thể.
Bản chất
khoản chi
Do nhiệm vụ mới chưa có trong dự toán
Mục đích chi
Khoản 3, Điều 19, NĐ 163/2016
3. Bổ sung có mục tiêu nhằm hỗ trợ ngân
sách cấp dưới:
a) Thực hiện các chính sách, chế độ mới đo
cấp trên ban hành, nhưng chưa được bố trí
hoặc bố trí chưa đủ trong dự toán ngân sách
của năm đầu thời kỳ ổn định ngân sách;
mức hỗ trợ cụ thể được xác định trên cơ sở
nhu cầu chi theo chế độ, chính sách và khả
năng cân đối của ngân sách các cấp có liên
quan;
b) Thực hiện các chương trình mục tiêu
quốc gia và các chương trình, dự án khác
của cấp trên, phần giao cho cấp dưới thực
hiện; mức hỗ trợ cụ thể thực hiện theo dự
toán chi được cấp có thẩm quyền giao;
c) Khắc phục hậu quả thiên tai, thảm họa,
dịch bệnh trên diện rộng, sau khi ngân sách
cấp dưới đã sử dụng dự phòng ngân sách,
quỹ dự trữ tài chính theo quy định nhưng
chưa đáp ứng được nhu cầu;
Chi bổ sung cân đối ngân sách
Khoản 20, Điều 4, Luật NSNN
2015
20. Số bổ sung cân đối ngân sách
là khoản ngân sách cấp trên bổ
sung cho ngân sách cấp dưới
nhằm bảo đảm cho chính quyền
cấp dưới cân đối ngân sách cấp
mình để thực hiện nhiệm vụ được
giao.
Do nhiệm vụ có sẵn, được pháp
luật quy định
Khoản 2, Điều 19, NĐ 163/2016
2. Bổ sung cân đối ngân sách
nhằm bảo đảm cho chính quyền
cấp dưới cân đối nguồn ngân sách
để thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã
hội, quốc phòng, an ninh được
giao. Các năm trong thời kỳ ổn
định ngân sách, căn cứ khả năng
cân đối của ngân sách cấp trên, cơ
quan có thẩm quyền quyết định
tăng thêm số bổ sung cân đối
ngân sách từ ngân sách cấp trên
cho ngân sách cấp dưới so với
năm đầu thời kỳ ổn định ngân
sách
d) Hỗ trợ thực hiện một số chương trình, dự
án lớn, đặc biệt quan trọng có tác động lớn
đến phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương. Mức hỗ trợ được xác định cụ thể
cho từng chương trình, dự án. Tổng mức hỗ
trợ vốn đầu tư phát triển hằng năm của ngân
sách trung ương cho ngân sách địa phương
quy định tại điểm này tối đa không vượt
quá 30% tổng chi đầu tư xây dựng cơ bản
của ngân sách trung ương.
Thời gian thực Trong năm ngân sách
Cuối năm ngân sách trước và để
hiện
dùng cho năm ngân sách sau
Câu 5. Thế nào là tranh chấp đất đai? Trình tự, thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai
của UBND cấp xã được thực hiện như thế nào? Liên hệ thực tiễn vấn đề này tại địa
phương nơi anh, chị đang công tác hoặc sinh sống.
Tranh chấp đất đai là những mâu thuẫn giữa những người sử dụng đất (SDĐ) với
nhau mà họ cho rằng, quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại. Khi có tranh chấp
đất đai xảy ra trong cộng đồng dân cư, thì theo yêu cầu của một hoặc các bên tranh chấp,
Nhà nước sẽ tiến hành giải quyết các mâu thuẫn, tranh chấp đó theo quy định của pháp luật
để bảo vệ những quyền lợi hợp pháp của người SDĐ.
Trình tự hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân xã:
Thứ nhất, quy định chung về trình tự hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân
dân xã: Điều 202 luật đất đai 2013 quy định trình tự hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban
nhân dân xã- thủ tục đầu tiên khi có tranh chấp về đất đai khi có phát sinh giữa những
người sử dụng đất. Cụ thể như sau:
1. Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải quyết
tranh chấp đất đai thông qua hòa giải ở cơ sở.
2. Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp không hòa giải được thì gửi đơn đến
Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp để hòa giải.
3. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm tổ chức việc hòa giải tranh chấp
đất đai tại địa phương mình; trong quá trình tổ chức thực hiện phải phối hợp với Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp xã và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ chức xã
hội khác. Thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân cấp xã được thực hiện trong
thời hạn không quá 45 ngày, kể từ ngày nhận được đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp đất
đai.
4. Việc hòa giải phải được lập thành biên bản có chữ ký của các bên và có xác nhận
hòa giải thành hoặc hòa giải không thành của Ủy ban nhân dân cấp xã. Biên bản hòa giải
được gửi đến các bên tranh chấp, lưu tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất tranh chấp.
5. Đối với trường hợp hòa giải thành mà có thay đổi hiện trạng về ranh giới, người
sử dụng đất thì Ủy ban nhân dân cấp xã gửi biên bản hòa giải đến Phòng Tài nguyên và
Môi trường đối với trường hợp tranh chấp đất đai giữa hộ gia đình, cá nhân, cộng đồng dân
cư với nhau; gửi đến Sở Tài nguyên và Môi trường đối với các trường hợp khác.
Phòng Tài nguyên và Môi trường, Sở Tài nguyên và Môi trường trình Ủy ban nhân
dân cùng cấp quyết định công nhận việc thay đổi ranh giới thửa đất và cấp mới Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất”.
Câu 6. Chủ thể nào có thẩm quyền chứng thực theo quy định hiện hành?
Thẩm quyền và trách nhiệm chứng thực được quy định tại Nghị định 23/2015/NĐCP như sau:
Thứ nhất: Phòng Tư pháp huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (sau đây gọi
chung là Phòng Tư pháp) có thẩm quyền và trách nhiệm:
• Chứng thực bản sao từ bản chính các giấy tờ, văn bản do cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền của Việt Nam; cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của nước ngoài;
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của Việt Nam liên kết với cơ quan, tổ chức
có thẩm quyền của nước ngoài cấp hoặc chứng nhận;
• Chứng thực chữ ký trong các giấy tờ, văn bản;
• Chứng thực chữ ký của người dịch trong các giấy tờ, văn bản từ tiếng nước
ngoài sang tiếng Việt, từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài;
• Chứng thực hợp đồng, giao dịch liên quan đến tài sản là động sản;
• Chứng thực văn bản thỏa thuận phân chia di sản, văn bản khai nhận di sản
mà di sản là động sản.
(Trưởng phòng, Phó Trưởng phòng Tư pháp thực hiện chứng thực các việc quy định
tại Khoản này, ký chứng thực và đóng dấu của Phòng Tư pháp).
Thứ hai: Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là Ủy ban nhân
dân cấp xã) có thẩm quyền và trách nhiệm:
• Chứng thực bản sao từ bản chính các giấy tờ, văn bản do cơ quan có thẩm
quyền của Việt Nam cấp hoặc chứng nhận;
• Chứng thực chữ ký trong các giấy tờ, văn bản, trừ việc chứng thực chữ ký
người dịch;
• Chứng thực hợp đồng, giao dịch liên quan đến tài sản là động sản;
• Chứng thực hợp đồng, giao dịch liên quan đến thực hiện các quyền của người
sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai;
• Chứng thực hợp đồng, giao dịch về nhà ở theo quy định của Luật Nhà ở;
• Chứng thực di chúc;
• Chứng thực văn bản từ chối nhận di sản;
• Chứng thực văn bản thỏa thuận phân chia di sản, văn bản khai nhận di sản
mà di sản là tài sản là động sản, nhà ở, đất đai.
(Chủ tịch, Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã thực hiện ký chứng thực và đóng
dấu của Ủy ban nhân dân cấp xã).
Thứ ba: Cơ quan đại diện ngoại giao, Cơ quan đại diện lãnh sự và Cơ quan khác
được ủy quyền thực hiện chức năng lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài (sau đây gọi chung
là Cơ quan đại diện) có thẩm quyền và trách nhiệm chứng thực các việc quy định tại các
Điểm a, b và c Khoản 1 Điều 5 Nghị định 23/2015/NĐ-CP. Viên chức ngoại giao, viên
chức lãnh sự ký chứng thực và đóng dấu của Cơ quan đại diện.
Thứ tư: Công chứng viên có thẩm quyền và trách nhiệm chứng thực các việc quy
định tại Điểm a Khoản 1, Điểm b Khoản 2 Điều 5 Nghị định 23/2015/NĐ-CP ký chứng
thực và đóng dấu của Phòng công chứng, Văn phòng công chứng (sau đây gọi chung là tổ
chức hành nghề công chứng).
Thứ năm: Việc chứng thực bản sao từ bản chính, chứng thực chữ ký, chứng thực
hợp đồng, giao dịch liên quan đến tài sản là động sản, chứng thực di chúc quy định tại Điều
5 Nghị định 23/2015/NĐ-CP không phụ thuộc vào nơi cư trú của người yêu cầu chứng
thực.
Thứ sáu: Việc chứng thực các hợp đồng, giao dịch liên quan đến quyền của người
sử dụng đất được thực hiện tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có đất. Việc chứng thực các
hợp đồng, giao dịch liên quan đến nhà ở được thực hiện tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có
nhà.
Stt Giấy tờ chứng thực
Cơ quan có thẩm quyền thực hiện
1. Bản sao từ bản chính các giấy tờ, văn bản - Phòng Tư pháp huyện, quận, thị xã, thành
do cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của phố thuộc tỉnh
Việt Nam, cơ quan, tổ chức có thẩm - Cơ quan đại diện ngoại giao, Cơ quan đại
quyền của nước ngoài, cơ quan, tổ chức diện lãnh sự và Cơ quan khác được ủy quyền
có thẩm quyền của Việt Nam liên kết với thực hiện chức năng lãnh sự của Việt Nam ở
cơ quan, tổ chức có thẩm quyền của nước nước ngoài
ngoài cấp hoặc chứng nhận.
- Phòng công chứng, Văn phòng công chứng.
2. Chữ ký trong các giấy tờ, văn bản; trừ - Phòng Tư pháp huyện, quận, thị xã, thành
việc chứng thực chữ ký của người dịch
phố thuộc tỉnh
- UBND cấp xã
- Cơ quan đại diện ngoại giao, Cơ quan đại
diện lãnh sự và Cơ quan khác được ủy quyền
thực hiện chức năng lãnh sự của Việt Nam ở
nước ngoài
- Phòng công chứng, Văn phòng công chứng
3. Chữ ký của người dịch trong các giấy tờ, - Phòng Tư pháp huyện, quận, thị xã, thành
văn bản từ tiếng nước ngoài sang tiếng phố thuộc tỉnh
Việt, từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài - Cơ quan đại diện ngoại giao, Cơ quan đại
diện lãnh sự và Cơ quan khác được ủy quyền
thực hiện chức năng lãnh sự của Việt Nam ở
nước ngoài
4. Hợp đồng, giao dịch liên quan đến tài sản - Phòng Tư pháp huyện, quận, thị xã, thành
là động sản
phố thuộc tỉnh
- UBND cấp xã
5. Văn bản thỏa thuận phân chia di sản, văn Phòng Tư pháp huyện, quận, thị xã, thành
bản khai nhận di sản mà di sản là động phố thuộc tỉnh
sản.
6. Hợp đồng, giao dịch liên quan đến thực hiện các quyền của người UBND cấp xã
sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai
7. Hợp đồng, giao dịch về nhà ở theo quy định của Luật Nhà ở
8. Di chúc
9. Văn bản từ chối nhận di sản
10. Bản sao từ bản chính các giấy tờ, văn bản do cơ quan có thẩm
quyền của Việt Nam cấp hoặc chứng nhận
11. Văn bản thỏa thuận phân chia di sản, văn bản khai nhận di sản mà
di sản là tài sản là hợp đồng, giao dịch liên quan đến thực hiện
quyền của người sử dụng đất; hợp đồng, giao dịch về nhà ở; di chúc
Căn cứ pháp lý: Nghị định 23/2015/NĐ-CP
Câu 7. Trong các căn cứ lập kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, ở cơ sở, theo anh
chị, căn cứ nào là quan trọng nhất, tại sao?
Trong các căn cứ lập kế hoạch phát triển KTXH ở cơ sở thì căn cứ nguồn lực địa
phương là quan trọng nhất.
Nguồn lực kinh tế - xã hội nhất là dân cư và nguồn lao động, nguồn vốn khoa học kỹ thuật và công nghệ có vai trò quan trọng để lựa chọn chiến lược phát triển phù hợp với
điều kiện cụ thể của cơ sở trong từng giai đoạn. Bên cạnh đó nguồn lực tài chính cũng đóng
vai trò then chốt, các kế hoạch sẽ cứ nằm trên giấy nên như thiếu nguồn tài chính. Dự án
Metro HCM thi công chậm tiến độ một phần cũng do thiếu vốn. Hoặc theo báo cáo của Bộ
Xây dựng báo cáo Chính phủ, 168.700 căn hộ nhà ở xã hội phải chậm tiến độ, dừng thi
công xây dựng do thiếu vốn. Vệc triển khai thực hiện chính sách hỗ trợ nhà ở xã hội trong
thời gian qua mới chỉ đạt khoảng 30% so với mục tiêu đề ra trong Chiến lược phát triển
nhà ở quốc gia đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030, và còn nhiều khó khăn. Nguyên
nhân là do lượng vốn ngân sách bố trí cho Ngân hàng Chính sách xã hội trong giai đoạn
2018 - 2020 là 1.262,069 tỉ /9.000 tỉ đồng, chỉ đáp ứng khoảng 13% so với yêu cầu. Riêng
năm 2018, ngân hàng này chỉ được giao 500 tỉ đồng, nhưng vẫn chưa được giải ngân.
Bên cạnh đó còn có nguồn lực tự nhiên, là cơ sở tự nhiên của quá trình sản xuất. Đó
là những nguồn vật chất vừa phục vụ trực tiếp cho cuộc sống vừa phục vụ cho phát triển
kinh tế. Sự giàu có và đa dạng về tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý thuận lợi tạo lợi thế
quan trọng cho sự phát triển.
Hiểu biết và đánh giá đúng cũng như biết huy động tối đa các nguồn lực sẽ thúc đẩy
quá trình phát triển kinh tế ở cơ sở.
Câu 8. Anh chị hãy nêu những việc làm được và việc chưa làm được trong quản lý
nhà nước về y tế ở cơ sở? Đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu cao hiệu quả quản
lý nhà nước về lĩnh vực này?
Hiện nay ở nước ta gần 80% số dân sống ở vùng nông thôn, nên y tế cơ sở đóng vai
trò rất quan trọng, góp phần tăng khả năng tiếp cận của người dân đối với dịch vụ y tế ngay
tại cơ sở, bảo đảm công bằng trong chăm sóc sức khoẻ và giảm thấp nhất chi phí cho người
dân. Nghị quyết T.Ư 6, khóa XII về tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức
khỏe nhân dân trong tình hình mới (Nghị quyết số 20) xác định y tế cơ sở vẫn là nền tảng
để thực hiện vai trò là tuyến đầu trong phòng bệnh, chăm sóc sức khỏe cũng như sàng lọc,
phát hiện sớm và kiểm soát bệnh tật. Điều đó đặt ra yêu cầu phải đổi mới cơ chế hoạt động
của mạng lưới y tế cơ sở để hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao.
Thời gian qua, Nhà nước ta cũng như ngành y tế dành nhiều sự quan tâm, chỉ đạo
và đầu tư phát triển y tế cơ sở. Đến nay mạng lưới y tế trong cả nước đã có gần 14 nghìn
cơ sở từ tuyến trung ương, tỉnh, thành phố, quận, huyện và xã, phường, trong đó, y tế cơ
sở có gần 12 nghìn đơn vị. Hiện nay 99,4% số xã có nhà, trạm y tế (0,6% số xã còn lại
chưa có cơ sở riêng phải nhờ cơ sở khác); 78,5% số trạm y tế có bác sĩ làm việc; 98,2% số
trạm y tế có nữ hộ sinh hoặc y sĩ sản nhi; 74,3% số thôn, bản, tổ dân phố có nhân viên y tế
hoạt động; khoảng 80% số trạm y tế xã thực hiện khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế, thí điểm
quản lý một số bệnh mãn tính như: hen, tăng huyết áp, đái tháo đường... Việt Nam được
các tổ chức quốc tế đánh giá là một trong số ít nước có mạng lưới y tế hoàn chỉnh, rộng
khắp, đáp ứng được nhu cầu chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân.
Tuy nhiên, khi nhu cầu chăm sóc sức khỏe người dân, nhất là khám, chữa bệnh đòi
hỏi ở mức cao hơn, cơ chế quản lý, cơ chế tài chính có những thay đổi, thì hệ thống y tế cơ
sở cũng đã bộc lộ những bất cập. Trước kia, do điều kiện giao thông đi lại khó khăn, nhiều
người dân chỉ có thể đến trạm y tế xã để khám và điều trị; còn hiện nay, phần lớn người
dân có thể lên cơ sở y tế tuyến cao hơn để khám, điều trị. Nhiều trạm y tế xã không còn
giường bệnh lưu để điều trị người bệnh do cơ sở vật chất, nhà cửa, trang thiết bị và kể cả
trình độ cán bộ không đáp ứng kịp với nhu cầu chẩn đoán và điều trị người bệnh. Mặt khác,
ngành y tế đang từng bước tiến tới quản lý sức khỏe toàn dân, chăm sóc sức khỏe một cách
liên tục và suốt đời thì cách tiếp cận theo kiểu chỉ khám, phát hiện và điều trị các ca bệnh
riêng rẽ sẽ không còn phù hợp.
Về cơ chế đầu tư và tài chính cũng có nhiều thay đổi. Trước đây, thực hiện giao
nhiệm vụ và đầu tư cho y tế cơ sở theo các nhiệm vụ ưu tiên và theo các chương trình mục
tiêu quốc gia về y tế, còn hiện nay, các chương trình mục tiêu y tế đã bị cắt giảm cả về số
lượng các dự án và cả về kinh phí. Bên cạnh đó, chi phí phục vụ chi thường xuyên tại trạm
y tế được cấp khá thấp (có xã chỉ được cấp từ 13 đến 15 triệu đồng/năm), do đó về cơ chế
đầu tư cho y tế xã cũng phải cần thay đổi cho phù hợp để bảo đảm có nguồn tài chính hoạt
động.
Để mọi người dân đều được quản lý, chăm sóc sức khỏe, Nghị quyết T.Ư 6, khóa
XII đề ra là nhiều giải pháp vừa mang tính cấp thiết vừa mang tính lâu dài. Đó là việc tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, phát huy sự tham gia của Mặt trận Tổ
quốc Việt Nam, các đoàn thể chính trị - xã hội và của toàn xã hội trong bảo vệ, chăm sóc
và nâng cao sức khỏe nhân dân. Thực hiện đồng bộ các giải pháp nâng cao sức khỏe nhân
dân; nâng cao năng lực phòng, chống dịch bệnh gắn với đổi mới y tế cơ sở.
Y tế cơ sở cần được đổi mới để làm tốt hơn nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe người dân,
theo hướng được tư vấn, theo dõi sức khỏe liên tục, suốt đời và điều trị khi cần thiết. Chính
vì vậy, nhiệm vụ của y tế cơ sở hiện nay không phải chỉ tập trung và ưu tiên cho khám,
điều trị các ca bệnh riêng lẻ, hay giải quyết các ổ dịch khi có dịch xảy ra như trước đây,
mà còn triển khai các nhiệm vụ phòng bệnh ngay từ cấp độ “0”, nghĩa là phòng trừ các yếu
tố nguy cơ. Y tế cơ sở cần ưu tiên việc quản lý sức khỏe người dân để làm sao người dân
được tư vấn và thực hiện phòng bệnh tốt nhất, nếu có bệnh thì được phát hiện sớm nhất và
đến cơ sở y tế phù hợp để điều trị kịp thời. Quan điểm mới là không tách rời các nhiệm vụ
điều trị và dự phòng tại tuyến cơ sở mà chung “khái niệm” chăm sóc sức khỏe ban đầu cho
người dân.
Đổi mới hoạt động của y tế cơ sở để mọi người dân được theo dõi, tư vấn, khám sức
khỏe, quản lý các bệnh không lây nhiễm... theo nguyên lý y học gia đình, do trạm y tế xã
và bác sĩ gia đình thực hiện. Cơ sở y tế nắm được tình hình sức khỏe, bệnh tật của từng
người dân cho nên sẽ làm tốt hơn công tác chăm sóc sức khỏe ban đầu; người dân được
khám sức khỏe, tư vấn về bệnh tật, về các giải pháp phòng bệnh, được khám, phát hiện
sớm bệnh, thực hiện được nguyên lý “phòng bệnh hơn chữa bệnh”. Làm tốt việc theo dõi,
quản lý sức khỏe thì chắc chắn sức khỏe của người dân sẽ được nâng lên, giảm tỷ lệ mắc
bệnh, hoặc nếu có bệnh sẽ được phát hiện sớm, giảm chi phí điều trị, về lâu dài sẽ góp phần
quan trọng giảm tình trạng quá tải cho các bệnh viện tuyến trên, giảm chi phí quỹ bảo hiểm
y tế.
Theo đề án phát triển y tế cơ sở trong tình hình mới được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt ngày 5-12-2016 đã xác định đổi mới tổ chức bộ máy, cơ chế hoạt động, cơ chế tài
chính, phát triển nguồn nhân lực để nâng cao năng lực cung ứng và chất lượng dịch vụ của
mạng lưới y tế cơ sở, bảo đảm cung ứng đầy đủ các dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu,
khám bệnh, chữa bệnh cho từng người dân trên địa bàn, cung ứng dịch vụ theo hướng toàn
diện, liên tục, phối hợp và lồng ghép chặt chẽ giữa dự phòng và điều trị giữa các cơ sở y tế
trên địa bàn và với tuyến trên, góp phần giảm tình trạng quá tải cho các bệnh viện tuyến
trên, bảo đảm công bằng, hiệu quả trong công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe
nhân dân. Đề án cũng đưa ra mục tiêu đến năm 2025: 100% số trạm y tế xã có đủ điều kiện
khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế và thực hiện được đầy đủ các nội dung của chăm sóc sức
khỏe ban đầu, thực hiện được tối thiểu 90% danh mục dịch vụ kỹ thuật của tuyến xã; 100%
số trung tâm y tế huyện thực hiện được tối thiểu 90% danh mục dịch vụ kỹ thuật của tuyến
huyện; 100% số xã đạt Tiêu chí quốc gia về y tế xã; 100% số dân được quản lý, theo dõi
sức khỏe.
Việc thực hiện được các mục tiêu của đề án chính là một trong những bước đi cụ
thể góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu Nghị quyết T.Ư 6, khóa XII đưa ra. Ngành
y tế, các bộ, ngành liên quan và chính quyền các địa phương cần triển khai mạnh mẽ các
nội dung, giải pháp đề ra. Những nội dung nào đã có chính sách phù hợp, đã và đang thực
hiện cần tiếp tục thực hiện nhanh chóng trên phạm vi cả nước, những vấn đề còn đang hoàn
thiện thể chế cần nhanh chóng hoàn thiện việc xây dựng, sau đó triển khai để bảo đảm chỉ
tiêu và tiến độ như mục tiêu đã đặt ra.
Câu 9. Phân biệt khiếu nại về đất đai và tranh chấp đất đai. Hãy chỉ ra những bất cập
trong giải quyết khiếu nại về đất đai, từ đó đề xuất những giải pháp để xử lý những
bất cập đó.
Tranh chấp đất đai được hiểu là tranh chấp về quyền, nghĩa vụ của người sử dụng
đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai.
Khiếu nại về đất đai là việc các cơ quan, tổ chức, công dân đề nghị cơ quan nhà
nước có thẩm quyền xem xết lại các quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính trong
quản lý đất đai khi có căn cứ cho rằng các quyết định, hành vi đó là xâm phạm đến quyền
và lợi ích hợp pháp của mình.
Đây là hai hiện tượng khá gần gũi với nhau bởi cả hai đều là các xung đột về quyền
và lợi ích liên quan đến quyền sử dụng đất. Tuy nhiên về bản chất pháp lý, đối tượng và
biện pháp giải quyết của hai hiện tượng này có những điểm hoàn toàn khác nhau:
• Về bản chất: Tranh chấp đất đai là xung đột về quyền lợi giữa các chủ thể sử
dụng đất với nhau trong quá trình sử dụng đất. Trong khi đó khiếu nại về đất
đai lại là xung đột giữa chủ thể sử dụng đất với cơ quan quản lý nhà nước về
đất đai khi các cơ quan này ban hành các quyết định hoặc thực hiện các hành
vi hành chính có ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của các
chủ thể sử dụng đất;
• Về đối tượng: Nếu như đối tượng của tranh chấp đất đai là quyền sử dụng
đất của tổ chức, hộ gia đình, cá nhân; thì đối tượng của khiếu nại về đất đai
lại là các quyết định hành chính của cơ quan nhà nước hoặc hành vi hành
chính của người có thẩm quyền của các cơ quan đó trong quá trình quản lý
đất đai gây thiệt hại cho cá nhân, tổ chức sử dụng đất;
• Về cơ chế giải quyết: Tranh chấp đất đai có nhiều biện pháp giải quyết khác
nhau là thương lượng, hòa giải, giải quyết tại cơ quan hành chính có thẩm
quyền và giải quyết tại Tòa án theo thủ tục tố tụng dân sự. Còn đối với các
khiếu nại về đất đai thì chỉ có hai hình thức giải quyết: khiếu nại đến cơ quan
hành chính có thẩm quyền theo pháp luật khiếu nại (cơ quan hành chính đã
ra quyết định bị khiếu nại hoặc cơ quan cấp trên của cơ quan đó), hoặc khởi
kiện theo pháp luật tố tụng hành chính.
• Các dạng: Tranh chấp đất đai bao gồm các dạng: tranh chấp quyền sử dụng
đất, tranh chấp về các hợp đồng liên quan đến quyền sử dụng đất, tranh chấp
về thừa kế quyền sử dụng đất, tranh chấp về chia tài sản chung là quyền sử
dụng đất. Các khiếu nại về đất đai bao gồm các dạng: khiếu nại về quyết định
giao đất, cho thuê đất, chuyển mục đích sử dụng đất, thu hồi đất, trưng dụng
đất, bồi thường hỗ trợ tái định cư, quyết định cấp hoặc thu hồi Giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, quyết định gia hạn thời hạn sử dụng đất; khiếu nại
về hành vi hành chính của cán bộ, công chức nhà nước khi thực hiện công vụ
liên quan đến hoạt động nói trên.
2. Những bất cập của quy định về giải quyết tranh chấp đất đai
2.1. Về thủ tục giải quyết
Trong Luật Đất đai năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành, thì khái niệm
tranh chấp đất đai là khái niệm rộng bao hàm tất cả các tranh chấp phát sinh trong quan hệ
đất đai như tranh chấp về quyền sử dụng đất, tranh chấp về tài sản gắn liền với đất, tranh
chấp liên quan đến địa giới hành chính… Nếu hiểu theo nghĩa này, thì mọi tranh chấp đất
đai bao gồm cả tranh chấp về tài sản gắn liền với đất và tranh chấp trong quá trình thực
hiện các giao dịch liên quan đến đất đai (chuyển nhượng, chuyển đổi, tặng cho, thừa kế...)
đều phải qua thủ tục hòa giải và phải được ủy ban nhân dân cấp xã giải quyết trước khi vụ
việc được giải quyết tại Tòa án hoặc tại ủy ban nhân dân cấp quận, huyện. Vấn đề đặt ra ở
đây, ủy ban nhân dân cấp xã có đủ năng lực và trình độ để đứng ra hòa giải, giải quyết mọi
tranh chấp đất đai hay không? Nếu ủy ban nhân dân cấp xã, phường, thị trấn không tổ chức
hòa giải hoặc không hòa giải theo yêu cầu của các bên tranh chấp, thì các bên tranh chấp
sẽ mất quyền khởi kiện ra Tòa án để yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền lợi cho mình cho dù về
bản chất, các tranh chấp về tài sản gắn liền với đất này hoàn toàn là tranh chấp dân sự thuần
túy. Mặt khác, trên thực tế hiện nay, việc ủy ban nhân dân cấp xã đứng ra giải quyết các
tranh chấp đất đai như quy định của pháp luật là hầu như không có hiệu quả và không thể
giải quyết được. Đồng thời, về mặt khoa học và chức năng, nhiệm vụ trong tổ chức bộ máy
nhà nước, thì việc các cơ quan quản lý nhà nước đứng ra giải quyết các tranh chấp về tài
sản và quyền tài sản sẽ không đúng thẩm quyền và không phù hợp với tiến trình phát triển
của xã hội. Chính vì vậy, những quy định của Luật Đất đai năm 2003 và các văn bản hướng
dẫn thi hành đã gây ra nhiều khó khăn cho các bên tranh chấp trong quá trình giải quyết.
Đồng thời, tạo ra những kẽ hở pháp lý dẫn đến việc gây nhũng nhiễu, hách dịch đối với
nhân dân và là mầm mống cho các hoạt động tiêu cực của những người có thẩm quyền
trong quá trình giải quyết tranh chấp đất đai.
2.2. Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai
Theo Điều 136 Luật Đất đai năm 2003 thì có hai hệ thống cơ quan có thẩm quyền
chịu trách nhiệm giải quyết tranh chấp đất đai là hệ thống cơ quan xét xử (Tòa án nhân dân
các cấp) và hệ thống cơ quan quản lý nhà nước (ủy ban nhân dân các cấp). Cơ sở để Luật
Đất đai năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành phân định thẩm quyền giải quyết
tranh chấp đất đai là giấy tờ pháp lý của đất tranh chấp mà đương sự có và tài sản gắn liền
với đất.
+ Về giấy tờ pháp lý của đất tranh chấp
Điều 136 Luật Đất đai năm 2003 quy định thẩm quyền giải quyết tranh chấp về
quyền sử dụng đất mà đương sự có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong
các loại giấy tờ quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003 thì do
Toà án nhân dân giải quyết. Mặc dù vậy, Luật Đất đai năm 2003 lại không quy định rõ
đương sự là những ai nên trong trường hợp này có thể hiểu là người đang sử dụng đất hoặc
các bên trong tranh chấp đất đai. Tuy nhiên, Điều 160 Nghị định 181/2004/NĐ-CP ngày
29/10/2004 về thi hành Luật Đất đai thì lại không sử dụng khái niệm đương sự như Luật
Đất đai năm 2003 mà quy định cụ thể các bên tranh chấp đất đai. Như vậy, theo Luật Đất
đai năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành thì có thể hiểu đương sự là người sử dụng
đất và cũng có thể là các bên tham gia tranh chấp đất đai. Theo Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2004 thì đương sự bao gồm nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan,
tức là bao gồm tất cả những người tham gia tranh chấp đất đai. Cùng với việc không quy
định rõ đương sự là những ai trong quan hệ tranh chấp đất đai, Luật Đất đai và các văn bản
hướng dẫn thi hành còn quy định không chính xác về cơ sở để xác định thẩm quyền giải
quyết tranh chấp đất đai. Cụ thể Điều 136 Luật Đất đai năm 2003 và Điều 160 Nghị định
181 quy định về thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai đều dựa vào việc đương sự có
hay không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc các loại giấy tờ khác về đất để xác
định thẩm quyền.
Việc Luật Đất đai năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành quy định không rõ
ràng như trên đã gây khó khăn cho các cơ quan nhà nước cũng như các bên tranh chấp
trong việc đề nghị cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, pháp luật không quy định thống nhất về cách hiểu đương sự trong tranh
chấp đất đai nên trong thực tế có thể hiểu đương sự là người đang sử dụng đất hoặc những
người trong tranh chấp đất đai. Nếu hiểu đương sự theo Điều 136 của Luật Đất đai là người
sử dụng đất cũng sẽ không đúng vì bản chất của việc giải quyết tranh chấp quyền sử dụng
đất là xác định chủ sử dụng thực sự của đất tranh chấp tức là xác định chính xác ai có quyền
sử dụng đất. Đối với đất đang tranh chấp thì chưa có cơ sở để xác định phần diện tích đất
tranh chấp thuộc về ai, người đang có giấy tờ hay những người tham gia tranh chấp. Đồng
thời, trên thực tế hiện nay người đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, người
đang quản lý, sử dụng đất chưa chắc đã phải là chủ sử dụng đất, chẳng hạn như chủ sử
dụng đất ủy quyền cho người khác đứng tên trong giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
hoặc các đồng chủ sử dụng đất có thỏa thuận cho một người đứng tên trong giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất... Vì vậy, quy định này đã tạo ra kẽ hở cho cơ quan tòa án trong
quá trình thụ lý vụ án lợi dụng gây khó khăn cho người khởi kiện và có thể phát sinh tiêu
cực.
Thứ hai, bản chất của việc giải quyết tranh chấp đất đai là xác định phần diện tích
đất tranh chấp thuộc quyền sử dụng của ai, ai là chủ sử dụng hợp pháp đất đang tranh chấp,
nhưng pháp luật lại quy định thẩm quyền giải quyết căn cứ theo người có giấy tờ về đất.
Mặt khác, các giấy tờ về đất chỉ có một bản gốc duy nhất do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền cấp và thường do một bên tranh chấp giữ. Vì thế, khi phát sinh tranh chấp các bên
còn lại sẽ không thể có được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để nộp cho tòa và yêu
cầu Tòa án thụ lý vụ án được. Trong trường hợp này, Tòa án có thể từ chối thụ lý vụ án do
viện vào quy định của pháp luật là đương sự không có giấy chứng nhận về quyền sử dụng
đất. Trên thực tế, theo quy định của pháp luật, những bên còn lại trong tranh chấp đất đai
chỉ có thể xin được bản sao của giấy tờ đất hoặc xin thông tin liên quan đến đất tranh chấp
từ Văn phòng đăng ký nhà và đất mà thôi. Có thể nói, đây cũng là kẽ hở phát sinh tiêu cực
vì thực tế Tòa án có thể thụ lý hoặc không thụ lý vụ án.
+ Tiêu chí về tài sản: Bên cạnh tiêu chí về giấy tờ pháp lý mà đương sự có, Điều
136 Luật Đất đai năm 2003 còn quy định thẩm quyền giải quyết của Tòa án căn cứ vào tài
sản gắn liền với đất. Theo tiêu chí về tài sản có thể được hiểu nếu các bên tranh chấp về tài
sản sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án bất luận tình trạng pháp lý của đất mà tài sản
gắn liền như thế nào. Tuy nhiên, do tài sản gắn liền với đất nên việc giải quyết tranh chấp
về tài sản vẫn phải liên quan đến giải quyết quyền sử dụng đất chẳng hạn như giải quyết
tranh chấp nhà ở trên đất hay cây ăn quả thì khi giải quyết không thể tách biệt với quyền
sử dụng đất được. Vì thế, trên thực tế hiện nay, nhiều cơ quan tòa án cho rằng, việc giải
quyết tranh chấp tài sản gắn liền với đất thì vẫn cần phải căn cứ vào tình trạng pháp lý của
đương sự có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay không? Như vậy, nếu đương sự không
có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hoặc các giấy tờ khác về đất như quy định tại khoản
1, 2, 5 Điều 50 Luật Đất đai năm 2003 thì sẽ thuộc thẩm quyền giải quyết của ủy ban nhân
dân các cấp cho dù các tranh chấp này là tranh chấp tài sản thuần túy. Về mặt khoa học và
chức năng nhiệm vụ trong tổ chức bộ máy nhà nước, thì việc các cơ quan quản lý nhà nước
đứng ra giải quyết các tranh chấp về tài sản và quyền tài sản sẽ không đúng thẩm quyền và
không phù hợp với tiến trình phát triển của xã hội. Như vậy, thẩm quyền giải quyết tranh
chấp về tài sản và đất bị tách rời nhau nên trong thực tế, có tình trạng vì trục lợi mà người
có thẩm quyền của ủy ban nhân dân coi giải quyết tranh chấp về tài sản của Toà án là đã
có giải quyết về quyền sử dụng đất để hợp thức hóa quyền sử dụng đất và ngược lại. Đồng
thời, có trường hợp cùng một vụ việc nhưng Tòa án và ủy ban nhân dân giải quyết theo các
hướng cho kết quả trái ngược nhau. Thậm chí, trong nhiều trường hợp các bên trong tranh
chấp không thể đưa vụ việc ra cơ quan tòa án hoặc ủy ban nhân dân để giải quyết do các
cơ quan này đùn đẩy trách nhiệm cho nhau.
Như vậy, quy định của Luật Đất đai năm 2003 và các văn bản hướng dẫn thi hành
về tranh chấp và thẩm quyền giải quyết tranh chấp đã gây ra nhiều khó khăn cho các bên
tranh chấp trong quá trình giải quyết. Đồng thời, tạo ra những kẽ hở pháp lý tạo cơ sở cho
việc gây nhũng nhiễu nhân dân và là mầm mống cho các hoạt động tiêu cực của những
người có thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai.
3. Đề xuất và kiến nghị
Quy định của pháp luật về tranh chấp đất đai và giải quyết tranh chấp phải hướng
tới tính ổn định, tạo điều kiện thuận lợi, đơn giản cho các bên tranh chấp trong việc giải
quyết và đặc biệt phải hướng tới việc giải quyết triệt để các mâu thuẫn, tranh chấp phát
sinh tạo sự ổn định cho xã hội. Trên cơ sở phân tích những bất cập trong quy định về tranh
chấp đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai hiện nay, chúng tôi đề nghị sửa đổi những quy
định này như sau:
Thứ nhất: Cần phải quy định, giải thích và phân biệt rõ hơn, cụ thể hơn về khái niệm
tranh chấp đất đai và tranh chấp về quyền sử dụng đất;
Thứ hai: Bỏ quy định về hòa giải tranh chấp đất đai được quy định tại Điều 135 Luật
Đất đai năm 2003 và Điều 159 Nghị định 181 như hiện nay vì quy định này gây khó khăn,
tốn kém cho các bên trong giải quyết tranh chấp đất đai và không mang lại hiệu quả, đồng
thời tạo thêm gánh nặng công việc cho ủy ban nhân dân cấp xã trong quá trình hoạt động;
Thứ ba: Sửa đổi thuật ngữ “đương sự” trong Điều 136 Luật Đất đai thành thuật ngữ
“người khởi kiện” để chính xác, phù hợp với Bộ luật Tố tụng dân sự và đảm bảo quyền lợi
cho bất cứ người nào bị xâm hại về quyền lợi đối với quyền sử dụng đất tranh chấp đều có
quyền khởi kiện. Đồng thời, cơ sở để phân định thẩm quyền giải quyết tranh chấp đất đai
phải căn cứ vào bản chất pháp lý của đất đai đang tranh chấp như đất tranh chấp đã được
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay chưa? Đất tranh chấp có giấy tờ hợp pháp hay
không cho dù các giấy tờ này do người đang quản lý, sử dụng đất cất giữ.
Thứ tư: Cần quy định cụ thể trường hợp tranh chấp về tài sản gắn liền với đất sẽ
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án nhân dân các cấp. Khi giải quyết tranh chấp về tài
sản gắn liền với đất, thì Tòa án sẽ giải quyết và xác định ai có quyền sử dụng đất vì trong
trường hợp cần thiết, Tòa án có quyền tham vấn hoặc đề nghị cơ quan quản lý nhà nước
(ủy ban nhân dân các cấp) cung cấp thông tin liên quan đến đất tranh chấp để tạo sự thống
nhất và phân định đúng thẩm quyền trong tổ chức bộ máy nhà nước. ủy ban nhân dân các
cấp cần tập trung vào công tác quản lý về đất đai và chỉ giải quyết các tranh chấp, khiếu
nại liên quan tới việc xác định ai có quyền quản lý, sử dụng đất trong các trường hợp đất
không có giấy tờ hợp pháp theo quy định của pháp luật mà thôi
Câu 10: Nêu trách nhiệm và thủ tục đăng kí khai sinh của người dân tại UBND cấp
xã.
Luật Hộ tịch 60/2014/QH13.
Điều 15. Trách nhiệm đăng ký khai sinh
1. Trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày sinh con, cha hoặc mẹ có trách nhiệm đăng ký
khai sinh cho con; trường hợp cha, mẹ không thể đăng ký khai sinh cho con thì ông hoặc
bà hoặc người thân thích khác hoặc cá nhân, tổ chức đang nuôi dưỡng trẻ em có trách
nhiệm đăng ký khai sinh cho trẻ em.
2. Công chức tư pháp - hộ tịch thường xuyên kiểm tra, đôn đốc việc đăng ký khai
sinh cho trẻ em trên địa bàn trong thời hạn quy định; trường hợp cần thiết thì thực hiện
đăng ký khai sinh lưu động.
Điều 16. Thủ tục đăng ký khai sinh
1. Người đi đăng ký khai sinh nộp tờ khai theo mẫu quy định và giấy chứng sinh
cho cơ quan đăng ký hộ tịch. Trường hợp không có giấy chứng sinh thì nộp văn bản của
người làm chứng xác nhận về việc sinh; nếu không có người làm chứng thì phải có giấy
cam đoan về việc sinh; trường hợp khai sinh cho trẻ em bị bỏ rơi phải có biên bản xác nhận
việc trẻ bị bỏ rơi do cơ quan có thẩm quyền lập; trường hợp khai sinh cho trẻ em sinh ra
do mang thai hộ phải có văn bản chứng minh việc mang thai hộ theo quy định pháp luật.
2. Ngay sau khi nhận đủ giấy tờ theo quy định tại khoản 1 Điều này, nếu thấy thông
tin khai sinh đầy đủ và phù hợp, công chức tư pháp - hộ tịch ghi nội dung khai sinh theo
quy định tại khoản 1 Điều 14 của Luật này vào Sổ hộ tịch; cập nhật vào Cơ sở dữ liệu hộ
tịch điện tử, Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để lấy Số định danh cá nhân.
Công chức tư pháp - hộ tịch và người đi đăng ký khai sinh cùng ký tên vào Sổ hộ
tịch. Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã cấp Giấy khai sinh cho người được đăng ký khai
sinh.
3. Chính phủ quy định chi tiết việc đăng ký khai sinh cho trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em
chưa xác định được cha, mẹ, trẻ em sinh ra do mang thai hộ; việc xác định quê quán của
trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em chưa xác định được cha, mẹ.
Lưu ý:
1. Phần trả lời các câu hỏi:
+ Nêu khái niệm (nếu có);
+ Các nội dung, quan điểm hoặc bài tập tình huống chỉ nêu các ý ngắn gọn làm cơ sở cho việc
phát biểu khi thảo luận, không viết dàn trải, dài dòng;
+ Khi thực hiện thảo luận không đọc tài liệu, kể lể, trình bày dài dòng, chủ yếu trao đổi các ý
theo đề cương và thực hiện việc tranh luận.
2. Giảng viên phụ trách thảo luận kiểm tra và ký duyệt vào đề cương. Học viên chỉ được
ký vào Danh sách nộp đề cương sau khi giảng viên ký duyệt.